Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 84/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 84/2023/HS-PT NGÀY 27/12/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố C xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 161/2023/TLPT-HS ngày 08 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo Phùng Bá T do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 90/2023/HS-ST ngày 28/9/2023 của Tòa án nhân dân quận Cái Răng, thành phố C.

- Bị cáo có kháng cáo:

Phùng Bá T, sinh ngày 27/5/1984 tại C. Nơi cư trú: phường L, quận Cái Răng, thành phố C. Giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: không. Con ông Phùng Bá T và bà Nguyễn Thị S; có vợ là Lâm Hải N; con có 02 người, lớn sinh năm 2011, nhỏ sinh năm 2016. Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo tại ngoại và có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Nguyễn Thái T – Văn phòng luật sư Á Châu, thuộc Đoàn luật sư thành phố C.

Trong vụ án, còn có bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không kháng cáo, không liên quan đến kháng cáo nên Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bà Lê Thị Phương T1 mong muốn tìm người lo cho chồng là Nguyễn Anh T2 được học bác sĩ tại Trường Đại học Y Dược C nên vào giữa tháng 7/2022 bà thông qua Nguyễn Văn T3 để liên lạc với Phùng Bá T đang công tác tại Bệnh viện Đại học Y Dược C nhờ T giúp T2 được xét trúng tuyển chuyên ngành bác sĩ tại Trường Đại học Y Dược C kỳ xét tuyển năm 2022. Sau khi trao đổi qua điện thoại, T hứa hẹn sẽ lo nộp hồ sơ và giúp T2 được xét trúng tuyển kỳ xét tuyển chuyên ngành bác sĩ năm 2022 của Trường Đại Học Y Dược C với giá 250.000.000 đồng. Bà T1 đồng ý với điều kiện sẽ chuyển khoản trước số tiền 80.000.000 đồng cho T, khi nào T2 được trúng tuyển bà T1 sẽ chuyển tiếp số tiền còn lại, cụ thể bà T1 đã chuyển 03 lần như sau:

Theo yêu cầu của T, ngày 28/7/2022 T1 chuyển cho số tài khoản “097575xxxx” của Ngân hàng Quân đội tên “Phan Thi Thu B” 5.000.000 đồng. Ngày 29/7/2022, T1 nhờ chồng Nguyễn Anh T2 chuyển cho T vào số tài khoản “07004636xxxx” của Ngân hàng S tên “P” 25.000.000 đồng. Ngày 01/8/2022, T1 chuyển vào số tài khoản T cung cấp “011100016xxxx” của Ngân hàng Vietcombank tên “P” số tiền 50.000.000 đồng.

Sau khi nhận số tiền 80.000.000 đồng của T1, T đã rút số tiền này ra tiêu xài cá nhân hết và không thực hiện việc nộp hồ sơ xét tuyển cho T2 như đã hứa hẹn với T1 trước đó.

Đến khoảng giữa tháng 9/2022, bà T1 biết được ông T2 không trúng tuyển do không đủ tiêu chuẩn nên tiếp tục liên hệ với T nhờ T giúp đỡ cho ông T2 thi đậu vào kỳ thi đánh giá năng lực liên thông chính quy năm 2022 của Trường Đại học Y Dược C. T yêu cầu bà T1 phải đưa thêm 40.000.000 đồng nhưng T1 chỉ đồng ý đưa thêm 30.000.000 đồng và chuyển tiền cho T số tiền này. Cụ thể bà T1 đã chuyển 04 lần như sau:

Ngày 21/9/2022, T1 chuyển vào ứng dụng “Momo” theo số điện thoại 097227xxxx của T 5.000.000 đồng. Ngày 22/9/2022, T1 đưa 7.000.000 đồng tiền mặt cho bà Hà Thị Thùy T4 (đồng nghiệp của T1) nhờ chuyển cho T theo số tài khoản “5601000116xxxx” của Ngân hàng V tên “N” mà T yêu cầu. Ngày 23/9/2022, T1 chuyển vào ứng dụng “Momo” theo số điện thoại 097227xxxx của T với số tiền 8.000.000 đồng. Ngày 08/10/2022, T1 chuyển vào ứng dụng “Momo” theo số điện thoại 097227xxxx của T với số tiền 10.000.000 đồng.

Sau khi nhận được 30.000.000 đồng của bà T1, T không thực hiện việc lo cho ông T2 thi đậu kỳ thi tuyển liên thông Đại học chính quy năm 2022 của Trường Đại học Y Dược C mà sử dụng vào tiêu xài cá nhân hết.

Sau đó, thấy T2 không được thi vào Trường Đại học Y Dược C, bà T1 nhiều lần liên lạc với T nhưng không được. Lúc này bà biết mình đã bị lừa nên đã đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Cái Răng, thành phố C tố giác Phùng Bá T về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Qua làm việc, T thừa nhận bản thân không có khả năng lo cho Nguyễn Anh T2 xét trúng tuyển ngành bác sĩ Trường Đại học Y Dược C cũng như thi đậu kỳ thi đánh giá năng lực học bác sĩ liên thông Đại học chính quy năm 2022 của Trường Đại học Y Dược C. Do bản thân đang cần tiền trả nợ cá nhân nên khi bà T1 liên hệ thì T đã nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản của bà. Sau khi nhận số tiền 110.000.000 đồng mà bà T1 đã chuyển thì T cắt đứt liên hệ, không làm gì giúp đỡ cho T2 thi đậu như hứa hẹn mà dùng T2 bộ số tiền này để trả nợ cá nhân. T giao nộp cho Cơ quan Cảnh sát điều tra 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy Note 9 của T sử dụng để liên lạc qua mạng xã hội Zalo với bà T1. Qua kiểm tra điện thoại phát hiện nhiều tin nhắn trên ứng dụng “Zalo” giữa T và T1 có nhiều nội dung trao đổi liên quan đến việc T hứa hẹn lo cho T2 xét trúng tuyển vào ngành bác sĩ và thi đậu vào thi đậu kỳ thi đánh giá năng lực học bác sĩ liên thông Đại học chính quy năm 2022 của Trường Đại học Y Dược C.

Qua làm việc, Nguyễn Văn Tuấn khai nhận Tuấn và T là bạn học, biết T đang công tác tại Bệnh viện Y Dược C nên giới thiệu cho T1, ngoài ra T3 không biết, không liên quan gì đến hành vi lừa đảo của T.

Đối với chủ tài khoản “097575xxxx” của Ngân hàng Quân Đội, qua làm việc bà Phan Thị Thu B khai nhận có quan hệ họ hàng với T và không biết việc T nhận tiền của T1. Khi có tài khoản lạ chuyển khoản 5.000.000 đồng vào tài khoản thì T đã gọi điện cho B nhờ chuyển khoản lại cho T. Do thời gian lâu nên không có lưu lại tin nhắn, dữ liệu chuyển khoản.

Đối với tài khoản “5601000116xxxx” của Ngân hàng V tên “N”, qua trích xuất dữ liệu ngày 22/9/2022 có nhận chuyển đến 7.000.000 đồng từ tài khoản của “Ha Thi Thu T”, xác định tài khoản mở tại Ngân hàng V - Chi nhánh Hải Vân, quận L, thành phố Đà Nẵng. Qua làm việc Nguyễn Thành N khai nhận là bạn học của T, không quen biết bà T1, ông T2. Cuối tháng 9/2022, T gọi nhờ nhận dùm 7.000.000 đồng mà người quen của T chuyển vào tài khoản của ông số 5601000116xxxx. Sau khi nhận được tiền thì T kêu chuyển lại hết nên ông đã chuyển hết cho T. Lý do T nhờ nhận dùm thì không có hỏi, sự việc T lừa đảo thì ông không biết, không có tham gia. Do thời gian đã lâu, dữ liệu nhận, chuyển tiền không còn lưu trữ.

Sau khi sự việc được phát giác, ông Phùng Bá T (cha ruột của T) đã khắc phục 110.000.000 đồng cho bà Lê Thị Phương T1. Bà T1, ông T2 có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho Phùng Bá T.

Tại bản án hình sự số 90/2023/HS-ST ngày 28/9/2023, Tòa án nhân dân quận Cái Răng, thành phố C đã quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Phùng Bá T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Căn cứ: điểm c khoản 2 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự Xử phạt: bị cáo Phùng Bá T 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính ngày bị cáo chấp hành án.

Ngoài ra,Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi tuyên án sơ thẩm, ngày 06/10/2023 bị cáo Phùng Bá T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.

* Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo thay đổi yêu cầu kháng cáo xin được hưởng án treo để được cải tạo ngoài cộng đồng, có thời gian chăm sóc cha mẹ già và các con còn nhỏ.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố C tham gia phiên tòa phát biểu: Xét thấy nội dung vụ án đã được làm rõ theo hồ sơ vụ án, hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự. Phân tích tính chất mức độ thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đã thực hiện và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo được hưởng theo quy định, đánh giá mức hình phạt 02 năm tù như cấp sơ thẩm đã tuyên là phù hợp. Phân tích nguyên nhân dẫn đến việc bị cáo thực hiện hành vi phạm tội có một phần lỗi từ người bị hại. Xét bị cáo có nhân thân tốt, từng tham gia tuyến đầu trong thời gian chống dịch Covid, có địa chỉ rõ ràng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ theo Điều 51 Bộ luật Hình sự, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo.

Luật sư bào chữa cho bị cáo phát biểu quan điểm: Thống nhất với tội danh và khung hình phạt mà cấp sơ thẩm đã truy tố xét xử đối với bị cáo. Thống nhất với các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng. Sau khi phạm tội bị cáo đã khắc phục T2 bộ thiệt hại cho người bị hại và đưuợc người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt; bị cáo và gia đình có nhiều đóng góp cho địa phương được chính quyền địa phương xác nhận, bản thân bị cáo từng tham gia chống dịch ở tuyến đầu. Mong Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận yêu cầu kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Kháng cáo của bị cáo trong thời hạn luật định nên đủ điều kiện để Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết theo quy định.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như đã nêu theo nội dung cáo trạng và bản án sơ thẩm đã tuyên. Đối chiếu với tài liệu chứng cứ thể hiện trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử đủ cơ sở để kết luận:

[2.1] Mặc dù biết rõ bản thân không có khả năng giúp cho chồng của người bị hại được xét trúng tuyển chuyên ngành bác sĩ cũng như thi đậu kỳ thi đánh giá năng lực liên thông chính quy năm 2022 của Trường Đại học Y Dược C nhưng bị cáo vẫn nhận lời hứa giúp đỡ và đưa ra nhiều thông tin gian dối nhằm tạo niềm tin với bị hại để bị hại tin rằng bị cáo có khả năng thực hiện được công việc đã hứa với mục đích chiếm đoạt tài sản của bị hại. Tổng số tiền mà bị cáo đã chiếm đoạt của bị hại là 110.000.000 đồng. Với hành vi nêu trên và giá trị tài sản đã chiếm đoạt, cấp sơ thẩm truy tố xét xử bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” với tình tiết định khung “Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự là có căn cứ.

[3] Sau khi tuyên án sơ thẩm, bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo thay đổi yêu cầu kháng cáo chỉ xin được hưởng án treo để có thời gian chăm sóc cha mẹ già và con còn nhỏ. Xét thấy:

[3.1] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân mà còn tạo ảnh hưởng xấu đến uy tín, hình ảnh của Trường Đại học Y Dược C cũng như hình ảnh những người hành nghề Y trong quần chúng Nhân dân. Bị cáo là người đã thành niên, có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Bản thân bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật song vẫn bất chấp hậu quả để thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Vì vậy cần có mức án nghiêm, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[3.2] Tiến trình tố tụng, bị cáo đã được cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết giảm nhẹ tại các điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự do đã tự nguyện bồi thường cho bị hại và thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đồng thời, do bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; cha ruột bị cáo là ông Phùng Bá T có nhiều đóng góp, cống hiến cho địa phương và nhân thân của bị cáo để áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo là phù hợp, có căn cứ. Mức hình phạt mà cấp sơ thẩm đã áp dụng là tương xứng với hành vi, tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo.

[3.3] Xét bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng. Bị cáo đã từng tham gia chống dịch Covid ở tuyến đầu cho thấy bị cáo cũng có ý thức trách nhiệm đối với cộng đồng, có khả năng tự cải tạo dưới sự giám sát của chính quyền địa phương, đồng thời việc không cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội cũng không gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, an toàn xã hội.

[3.4] Ngoài ra, cũng cần xem xét thêm về nguyên nhân phạm tội của bị cáo khi chính bị hại cũng có một phần lỗi vì tự đặt mình vào hoàn cảnh bất lợi, tạo điều kiện cho bị cáo thực hiện hành vi phạm tội dễ dàng, bởi lẽ bị hại biết rõ điều kiện về năng lực, kiến thức, trình độ chuyên môn kỹ thuật của ngành Bác sĩ cần phải trải qua quá trình trau dồi nghiêm túc nhưng chỉ vì muốn đi đường tắt, muốn nhờ vả thông qua mối quan hệ để đạt được mục đích mà bất chấp hậu quả, làm trái với quy tắc đạo đức, nghề nghiệp; qua đó cần nghiêm khắc phê phán đối với bị hại.

[3.5] Trên cơ sở đó, Hội đồng xét xử xét thấy đề nghị của Kiểm sát viên và của Luật sư bào chữa cho bị cáo về việc chấp nhận yêu cầu kháng xin được hưởng án treo của bị cáo là có cơ sở để chấp nhận.

[4] Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

[5] Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phùng Bá T.

Sửa bản án hình sự sơ thẩm số: 90/2023/HS-ST ngày 28 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân quận Cái Răng, thành phố C.

1. Tuyên bố: Bị cáo Phùng Bá T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

2. Căn cứ: điểm c khoản 2 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: bị cáo Phùng Bá T 02 (hai) năm tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 48 (bốn mươi tám) tháng kể từ ngày tuyên án phúc thẩm (ngày 27/12/2023).

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân phường L, quận Cái Răng, thành phố C để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình của người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan trong việc giám sát, giáo dục người bị kết án.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 Bộ luật hình sự.

3. Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo không phải chịu.

4. Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

54
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 84/2023/HS-PT

Số hiệu:84/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Cần Thơ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:27/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về