Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 83/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 83/2023/HS-PT NGÀY 23/02/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 02 năm 2023 , tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 714/2022/TLPT-HS ngày 07/10/2022. Do có kháng cáo của các bị cáo Đặng Tấn P, Hoàng Thị Hồng V đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 40/2022/HS-ST ngày 29/8/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An.

Bị cáo kháng cáo:

1/ Đặng Tấn P, sinh năm 1983 tại LA Nơi ĐKHKTT: xã NC, huyện BL, tỉnh Long An; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đặng Tấn B1 (chết) và bà Lê Thị M, sinh năm 1950; Vợ Hoàng Thị Hồng V, sinh năm 1983 (là bị cáo trong cùng vụ án) có 02 con sinh năm 2010 và năm 2018; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 23/9/2021 (Có mặt tại phiên tòa).

2/ Hoàng Thị Hồng V, sinh năm 1983 tại LA. Nơi ĐKHKTT: xã TĐ, huyện BL, tỉnh Long An; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 02/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Hoàng Hoa X1 (chết) và bà Nguyễn Túy H (chết); Chồng Đặng Tấn P, sinh năm 1983 (Bị cáo trong cùng vụ án) có 02 người con sinh năm 2010 và năm 2018; Ngoài ra, năm 2003, chung sống như vợ chồng với Bùi Quang C, có 01 người con chung là Bùi Hoàng T, sinh năm 2003; Năm 2005, chung sống như vợ chồng với Nguyễn Thanh T1, có 01 người con chung là Nguyễn Hoàng Thái H1, sinh năm 2005; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo tại ngoại (Có mặt tại phiên toà).

Trong vụ án này có bị cáo Nguyễn Quốc T2 làm đơn kháng cáo, nhưng sau đó rút lại đơn kháng cáo. Ngày 28/11/2022, Toà án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã ban hành Thông báo về việc rút kháng cáo số 44/2022/TB-TA đối với bị cáo T2 theo luật định.

Ngoài ra, còn có các bị cáo Nguyễn Văn K, Nguyễn Thị Kim C1, Trần Văn Bé T3, không có kháng cáo nên Toà án cấp phúc thẩm không triệu tập.

Người bào chữa cho bị cáo P: Luật sư Vũ Thanh H2, Đoàn Luật sư Tp. Hồ Chí Minh (Có mặt tại phiên toà).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án có nội dung như sau:

Các bị cáo Đặng Tấn P, Nguyễn Văn K, Nguyễn Thị Kim C1, Nguyễn Quốc T2, Trần Văn Bé T3 và Nguyễn Thị B quen biết và trở thành bạn bè với nhau từ lúc đi đến Casino tại Vương quốc Campuchia đánh bạc.

Thời gian khoảng tháng 05/2021, P đến nhà trọ “Phương V1” thuộc ấp 6, xã NT, huyện T7, để chơi “Đánh bạc”. Tại đây, P gặp lại K, B, T2, Bé T3 và Kim C1 cùng đánh bạc với nhau. Qua đó, quen biết với Lê Thị Ngọc H5 cũng đang ở trọ tại đây. H5 giới thiệu làm nghề “Cò đất” và giới thiệu ai có nhu cầu vay tiền và có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cầm cố thì H5 sẽ giới thiệu và trả tiền công cho H5.

Tháng 06/2021, B than vãn với P, “khổ quá” không có tiền xài. P nói “Trên mạng làm được giấy GCNQSDĐ giả, để P làm cho B 01 giấy giả, mang đi cầm cố, nếu được tiền, thì B cho P tiền uống cà phê”, B đồng ý. P thỏa thuận giá làm GCNQSDĐ là 10.000.000 đồng/giấy và trả trước 50% qua chuyển khoản, còn lại 50% trả khi giao sổ.

Sau đó, P lên mạng xã hội Facebook tìm được dịch vụ làm GCNQSDĐ giả. P đặt làm cho B 01 GCNQSDĐ giả mang tên Nguyễn Thị Kim T4, sinh năm 1977, HKTT: Ấp 2, xã TĐ, huyện BL, tỉnh Long An. Giấy số CĐ 39176, vào sổ cấp GCN: CS07316 đứng tên thửa đất số 230, tờ bản đồ số 17, diện tích 88,7m². Sau khi có được GCNQSDĐ giả, B được H5 giới thiệu đến bà Nguyễn Thị Ngọc C2 thế chấp vay tiền nhưng hai bên lập với nhau Hợp đồng đặt cọc mua bán đất. B vay số tiền 80.000.000 đồng, trừ lãi suất 10% của tháng đầu tiên, nên chỉ còn nhận số tiền 72.000.000 đồng. Sau đó, B trả tiền làm GCNQSDĐ 12.000.000 đồng và cho P 1.500.000 đồng.

Sau khi làm được GCNQSDĐ giả cho B, P nói cho 04 người còn lại gồm: K, Kim C1, T2 và Bé T3 biết “muốn làm không” thì được tất cả đồng ý. P tiếp tục làm giả các GCNQSDĐ như sau:

Đặt làm giả cho Nguyễn Văn K 01 GCNQSDĐ số CT606692, vào sổ cấp GCN: CS10826, thửa số 313, tờ bản đồ số 12, diện tích 1.148m² tọa lạc tại ấp 3, xã T8, huyện T7, tỉnh Long An do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L cấp ngày 25/8/2018 cho ông Lê Công H3 đứng tên, cùng giấy CMND giả mang tên Lê Công H3.

Sau khi có được GCNQSDĐ giả, K được H5 giới thiệu đến bà C2 thế chấp vay tiền, nhưng hai bên lập với nhau Hợp đồng đặt cọc mua bán đất. Kiếm vay của bà C2 số tiền 150.000.000 đồng, trừ 10% lãi suất/tháng, nên K chỉ còn nhận số tiền 135.000.000 đồng. K cho H5 8.000.000 đồng (H5 khai nhận 3.000.000 đồng), trả cho P 12.000.000 đồng tiền làm giấy và cho P 7.000.000 đồng.

Tương tự, làm giả cho Nguyễn Thị Kim C1 GCNQSDĐ số CM 869923, vào sổ cấp GCN: CS01976, thửa số 210, tờ bản đồ số 17, diện tích 198m² tọa lạc tại ấp 3, xã TL, huyện BL, tỉnh Long An, do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L cấp ngày 11/8/2018 cho bà Lê Thị Kim N đứng tên. Kim C1 được H5 giới thiệu đến bà C2 thế chấp nhưng hai bên lập Hợp đồng đặt cọc mua bán đất để vay số tiền 150.000.000 đồng trừ 10% lãi suất/tháng, Kim C1 nhận số tiền 135.000.000 đồng.

Kim C1 cho H5 9.000.000 đồng (H5 khai nhận 5.000.000 đồng), đưa cho P 25.000.000 đồng (gồm tiền làm giấy 12.000.000 đồng, cho P 13.000.000 đồng).

Tương tự, làm giả cho Nguyễn Quốc T2 GCNQSDĐ số CQ330873, vào sổ cấp GCN: CS10326, thửa số 505, tờ bản đồ số 11, diện tích 180m² tọa lạc tại ấp 5, xã BD, huyện BL, tỉnh Long An, do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L cấp ngày 11/8/2018 cho ông Nguyễn Thanh S đứng tên. T2 được H5 giới thiệu đến bà C2 thế chấp thông qua Hợp đồng đặt cọc mua bán đất, T2 vay của bà C2 số tiền 200.000.000 đồng, bà C2 đưa trước số tiền cho T2 là 150.000.000 đồng, còn lại 50.000.000 đồng khi nào có tiền bà C2 sẽ đưa sau. T2 nhận tiền xong đưa cho H5 15.000.000 đồng (H5 khai nhận 5.000.000 đồng) đưa P 35.000.000 đồng (gồm tiền công làm giấy là 17.000.000 đồng, cho P 18.000.000 đồng).

Tương tự, làm giả cho Trần Văn Bé T3 GCNQSDĐ số CM 930976, vào sổ cấp GCN: CS02758, thửa số 156, tờ bản đồ số 12, diện tích 2.1673m² tọa lạc tại xã TL, huyện BL, tỉnh Long An, do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L cấp ngày 16/10/2018 cho ông Nguyễn Minh T5 đứng tên và làm cho Bé T3 01 giấy CMND mang tên Nguyễn Minh T5. Bé T3 được H5 giới thiệu đến bà C2 thế chấp thông qua Hợp đồng đặt cọc mua bán đất để vay số tiền 200.000.000 đồng, bà C2 nghi ngờ là GCNQSDĐ giả nên chưa giao tiền và trình báo cơ quan Công an.

Ngoài ra, P còn làm giả 02 GCNQSDĐ cho P và vợ là Hoàng Thị Hồng V như sau:

GCNQSDĐ số CQ821672, vào sổ cấp GCN: CS09317, thửa số 131, tờ bản đồ số 15, diện tích 3.036m² tọa lạc tại ấp 3, xã TD, huyện BL, tỉnh Long An do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L cấp ngày 22/10/2019 cho bà Hoàng Thị Bích L1 đứng tên. V được H5 giới thiệu đến bà C2 thế chấp thông qua Hợp đồng đặt cọc mua bán đất, V vay của bà C2 số tiền 200.000.000 đồng trừ 10% lãi suất/tháng, V nhận 180.000.000 đồng và cho H5 11.000.000 đồng (H5 khai nhận 10.000.000 đồng).

GCNQSDĐ số CQ863199, vào sổ cấp GCN: CS09173, thửa số 510, tờ bản đồ số 17, diện tích 342m² tọa lạc tại ấp 4, xã NT, huyện T7, tỉnh Long An, do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L cấp ngày 11/7/2018 cho ông Nguyễn Văn P3 đứng tên. P được H5 giới thiệu đến bà C2 thế chấp thông qua Hợp đồng đặt cọc mua bán đất, P vay số tiền 150.000.000 đồng trừ 10% lãi suất/tháng, P nhận số tiền 135.000.000 đồng và cho H5 7.000.000 đồng.

Ngoài ra, Đặng Tấn P và Nguyễn Quốc T2 còn thực hiện hành vi phạm tội tại Quận TP, TP HCM và huyện BL, tỉnh Long An như sau:

Tháng 05/2019, T2 giới thiệu cho ông Trần Du X thửa đất tại ấp 6, xã NT, huyện T8, tỉnh Long An. Sau khi xem đất xong, ông X đồng ý mua với giá 150.000.000 đồng. T2 nhờ P đặt làm giả 01 GCNQSDĐ và CMND giả với giá 5.000.000 đồng.

Sau đó, P đưa cho T2 01 GCNQSDĐ giả số CL229832, thửa đất số 153 tờ bản đồ số 10 do ông Nguyễn Thành L2, sinh năm 1989, CMND số 391171473, địa chỉ thường trú: Ấp 6, xã NT, huyện T8, tỉnh Long An đứng tên. Ngày 15/5/2019, T2 giao giấy cho ông X xem, ông X tin tưởng đưa cho T2 30.000.000 đồng, làm Hợp đồng đặt cọc sang nhượng đất tại nhà của ông X. Trên cơ sở của Hợp đồng đặt cọc, ông X đưa tiếp cho T2 các lần tiền tiếp theo gồm: 10.000.000 đồng ngày 25/5/20219 và 5.000.000 đồng ngày 27/5/2019.

Trong khoảng thời gian từ tháng 4/2020 đến tháng 5/2020 P lên mạng xã hội Facebook đặt mua 03 GCNQSDĐ giả gồm: GCNQSDĐ số: BE649389 cấp ngày 23/11/2012, số sổ cấp GCN: CH05298, thửa đất số 172, tờ bản đồ số 10, diện tích 5.348m², địa chỉ: Ấp 5, xã NC, huyện BL, tỉnh Long An mang tên Đặng Tấn P. GCNQSDĐ số: CT080398 cấp ngày 15/01/2020, số sổ cấp GCN: CS01878, thửa đất số 662, tờ bản đồ số 11, diện tích 180m² tại ấp 5, xã NC, huyện BL, tỉnh Long An mang tên Đặng Tấn P. GCNQSDĐ số: BD648144 cấp ngày 02/12/2013, số sổ cấp GCN: CH06059, thửa đất số 621, tờ bản đồ số 10, diện tích 1.400m² tại ấp 5, xã NC, huyện BL, tỉnh Long An mang tên Đặng Tấn P.

Thông qua mối quan hệ quen biết với Đặng Trúc G (không rõ lai lịch) P nhờ G tìm người nhận thế chấp GCNQSDĐ để vay tiền, G giới thiệu bà Trương Thị N1.

Ngày 11/4/2020, P đem GCNQSDĐ số: BD648144 đến thế chấp cho bà N1 để vay số tiền 30.000.000 đồng, lãi suất 5%, trừ trước 01 tháng, P nhận 28.500.000 đồng, P cho G tiền “Cò” 900.000 đồng. Tương tự, P nhờ ông Trần Thanh N2 và ông Ngô Văn T6 giới thiệu người nhận thế chấp GCNQSDĐ để vay tiền. Ông N2 và ông T6 giới thiệu bà Nguyễn Thị Mỹ N3.

Ngày 05/6/2020, P thế chấp GCNQSDĐ số: BE649389 cho bà N3 thông qua Hợp đồng đặt cọc để vay số tiền 100.000.000 đồng lãi suất 05%/tháng, thời hạn 03 tháng. Sau khi ký hợp đồng, bà N3 trừ trước 5.000.000 đồng tiền lãi, đưa cho P 95.000.000 đồng. P cho N2 và T6 mỗi người 2.500.000 đồng. Ngày 10/6/2020, trên cơ sở Hợp đồng đặt cọc với bà N3, P nhận thêm tiền vay là 30.000.000 đồng có ký tên và lăn vân tay.

Ngày 13/7/2020, P đem GCNQSDĐ số: CT080398 đến thế chấp thông qua Hợp đồng đặt cọc cho bà N3 để vay số tiền 100.000.000 đồng, lãi suất 05%/tháng, thời hạn 03 tháng. Sau khi ký hợp đồng, bà N3 trừ trước 5.000.000 đồng tiền lãi, đưa cho P 95.000.000 đồng. Trên cơ sở của Hợp đồng đặt cọc, ngày 17/6/2020, P tiếp tục vay thêm 100.000.000 đồng ký tên và lăn vân tay. Bà N3 trừ trước tiền lãi suất và đưa P 95.000.000 đồng.

Sau đó, P không thực hiện đóng lãi hàng tháng, bà N3 không liên lạc được với P và phát hiện 02 GCNQSDĐ giả nên tố cáo P.

Ngoài ra, Đặng Tấn P còn thực hiện hành vi phạm tội tương tự tại thị xã PL, tỉnh Bình Phước.

Tại Bản kết luận Giám định số: 658/2021/KLGĐ ngày 06/8/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Long An kết luận: 07 GCNQSDĐ nêu trên là giả.

Tại Bản kết luận Giám định số: 1849/2021/KLGĐ ngày 07/11/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: GCNQSDĐ mà Nguyễn Quốc T2 sử dụng để ký hợp đồng với ông Trần Du X là giả.

Tại Bản kết luận Giám định số: 1009/2020/KLGĐ ngày 29/10/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Long An kết luận: 02 GCNQSDĐ P sử dụng để ký hợp đồng với bà N3 là giả.

Tại Bản kết luận Giám định số: 147/2021/KLGĐ ngày 06/02/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Long An kết luận: GCNQSDĐ P sử dụng để ký hợp đồng với bà N là giả.

Vật chứng thu giữ trong vụ án gồm: 01 GCNQSDĐ bị cháy xém một phần;

01 điện thoại di động hiệu Goldberg B102 màu đen, số IMEI: 352286090534172 của Nguyễn Quốc T2; Tiền Việt Nam đồng 2.000.000 đồng nộp vào tài khoản Kho bạc Nhà nước tỉnh Long An.

Tại Bản Cáo trạng số 26/CT-VKSLA-P2 ngày 19/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An, đã truy tố:

Bị cáo Đặng Tấn P phạm tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội: “Làm giả, sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174; các điểm a, b và c khoản 3 Điều 341 Bộ luật Hình sự.

Các bị cáo Nguyễn Quốc T2, Nguyễn Thị Kim C1, Hoàng Thị Hồng V và Nguyễn Văn K phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 174 và điểm d khoản 2 Điều 341 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo Trần Văn Bé T3 phạm tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” quy định tại khoản 1 Điều 341 Bộ luật Hình sự.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 40/2022/HSPT ngày 29/8/2022 của Toà án nhân dân tỉnh Long An, đã tuyên xử:

Tuyên bố: Bị cáo Đặng Tấn P phạm các tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” và “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”. Bị cáo Hoàng Thị Hồng V phạm các tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, và “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”

1/ Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm g khoản 1 Điều 52; các điểm b và s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 50; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Đặng Tấn P 14 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng điểm a, b và c khoản 3 Điều 341; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Đặng Tấn P 04 năm tù về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”.

Áp dụng điểm a, b và c khoản 3 Điều 341; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Đặng Tấn P 03 năm tù về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.

Áp dụng khoản 1 Điều 55 Bộ luật Hình sự, buộc bị cáo Đặng Tấn P phải chấp hành hình phạt chung cho cả 03 tội tổng cộng là 21 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 23/9/2021.

2/ Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 174; các điểm b và s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 50; Điều 58; Điều 38 và khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Hoàng Thị Hồng V 01 năm 06 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 341; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50 và Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Hoàng Thị Hồng V 02 năm tù về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.

Áp dụng khoản 1 Điều 55 Bộ luật Hình sự, buộc bị cáo Hoàng Thị Hồng V phải chấp hành hình phạt chung cho cả 02 tội tổng cộng là 03 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

Bản án sơ thẩm còn xử phạt các bị cáo khác trong vụ án mỗi bị cáo từ 7 năm tù đến 9 tháng tù.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn giải quyết các vấn đề về liên quan đến tang vật, án phí, quyền kháng cáo và trách nhiệm bồi thường dân sự theo luật định.

Sau khi xét xử sơ thẩm:

Ngày 07/9/2022 bị cáo Đặng Tấn P, bị cáo Hoàng Thị Hồng V làm đơn kháng cáo, nêu lý do, mức án sơ thẩm quá nặng, hoàn cảnh gia đình khó khăn, xin giảm nhẹ mức án.

Ngày 06/9/2022 bị cáo Nguyễn Quốc T2 làm đơn kháng cáo, xin được giảm nhẹ mức án, đến ngày 03/10/2022 bị cáo T2 làm đơn rút đơn kháng cáo, xin chấp hành án. Toà án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã ban hành Thông báo về việc rút kháng cáo số 44/2022/TB-TA ngày 28/11/2022 đối với bị cáo Nguyễn Quốc T2.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Đặng Tấn P, bị cáo Hoàng Thị Hồng V vẫn giữ yêu cầu kháng cáo xin được giảm nhẹ mức án.

Luật sư Vũ Thanh H2 bào chữa cho bị cáo P cho rằng, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối hận, mức án sơ thẩm của bị cáo quá nặng, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm cho rằng, hành vi phạm tội của các bị cáo là rất nghiêm trọng. Bị cáo có đồng phạm, nhiều người tham gia, số tiền chiếm đoạt rất lớn của nhiều người đến nay phần lớn chưa khắc phục được. Các bị cáo kháng cáo nhưng cũng không đưa ra được những tài liệu, chứng cứ gì mới để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình. Do đó, đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục kháng cáo:

Đơn kháng cáo của bị cáo Đặng Tấn P và bị cáo Hoàng Thị Hồng V đều làm trong thời hạn luật định, nên thủ tục kháng cáo hợp lệ.

[2] Về nội dung giải quyết yêu cầu kháng cáo:

[2.1] Khoảng thời gian từ năm 2019 đến tháng 6/2021, bị cáo Đặng Tấn P đã sử dụng các GCNQSDĐ giả và giấy CMND giả để vay tiền của các người bị hại bằng hình thức ký kết với nhau bằng “Hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất” làm cho người bị hại tin tưởng là có đất thật nên mới cho vay tiền và sau đó bị các bị cáo chiếm đoạt lấy tiền tiêu xài cá nhân.

Để có được các giấy tờ giả nêu trên là do bị cáo P tìm đặt mua của những người không biết rõ họ tên và địa chỉ từ đó sử dụng để nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản với số tiền cụ thể sau:

Bị cáo P chiếm đoạt tiền nhiều lần đối với bà Nguyễn Thị Mỹ N3 với tổng số tiền là 315.000.000 đồng, bà Trương Thị N1 với số tiền là 30.000.000 đồng.

Bị cáo P cùng với bị cáo Hoàng Thị Hồng V chiếm đoạt của bà Nguyễn Thị Ngọc C2 số tiền 315.000.000 đồng (trong đó bị cáo Hồng V số tiền 180.000.000 đồng).

Ngoài ra, bị cáo P nhận làm giúp GCNQSDĐ giả và giấy CMND giả cho các bị cáo T2, K, Kim C1, Bé T3 và Nguyễn Thị B để hưởng lợi số tiền 58.000.000 đồng với cách thức và thủ đoạn như bị cáo P là vay tiền và ký kết với nhau bằng “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” rồi chiếm đoạt tiền của người bị hại và cho lại tiền cho bị cáo P hưởng lợi, cụ thể:

Bị cáo T2 chiếm đoạt của bà Nguyễn Thị Ngọc C2 số tiền 150.000.000 đồng và cho lại bị cáo P 18.000.000 đồng; ông Trần Du X số tiền 45.000.000 đồng.

Bị cáo Kim C1 chiếm đoạt của bà Nguyễn Thị Ngọc C2 số tiền 135.000.000 đồng và cho lại bị cáo P 13.000.000 đồng.

Bị cáo K chiếm đoạt của bà Nguyễn Thị Ngọc C2 số tiền 135.000.000 đồng và cho lại bị cáo P 7.000.000 đồng.

Bị cáo Bé T3 đang làm hợp đồng đặt cọc với bà Nguyễn Thị Ngọc C2 để vay số tiền 200.000.000 đồng thì bị bà C2 phát hiện GCNQSDĐ và giấy CMND giả, nên chưa chiếm đoạt được tiền của bà C2.

[2.2] Theo Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 quy định:

Khoản 1: Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Đã bị xử phạt VPHC về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm.

Khoản 4: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên.

[2.3] Theo Điều 341 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 quy định:

Khoản 1: Người nào làm giả con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác của cơ quan, tổ chức hoặc sử dụng con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ giả thực hiện hành vi trái pháp luật, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 02 năm.

Khoản 2: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm:

c) Làm từ 02 đến 05 con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác.

d) Sử dụng con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng.

Khoản 3: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:

a) Làm 06 con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác trở lên.

b) Sử dụng con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

c) Thu lợi bất chính 50.000.000 đồng trở lên.

[2.4] Đối chiếu với hành vi phạm tội của các bị cáo thì thấy:

Hành vi của bị cáo Đặng Tấn P là làm giả GCNQSDĐ, CMND và dùng GCNQSDĐ giả để gian dối đối với người bị hại và chiếm đoạt tài sản, nên đã đủ yếu tố cấu thành các tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” và “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.

Hành vi phạm tội của bị cáo Hoàng Thị Hồng V là đồng phạm giúp sức về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” .

Các bị cáo phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” có tính chất đồng phạm, trong đó bị cáo P với vai trò là người giúp sức làm GCNQSDĐ giả và giấy CMND giả để cho các bị cáo T2, K, Hồng V và Kim C1 với vai trò là người thực hành chiếm đoạt tài sản của các bị hại, rồi cho lại một phần tiền bị cáo P hưởng lợi.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính của nhà nước, gây mất an ninh trật tự tại địa phương, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân.

Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo P mức án 21 năm tù cho cả 3 tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, “Làm giả tài liệu cơ quan, tổ chức”, “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” và xử phạt bị cáo Hoàng Thị Hồng V mức án 3 năm 6 tháng tù cho cả 2 tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” là phù hợp, tương xứng với tính chất, hậu quả của hành vi phạm tội. Trong đó có xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ cho các bị cáo như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, có tác động gia đình bồi thường, khắc phục một phần hậu quả cho phía người bị hại.

[2.5] Tại cấp phúc thẩm, các bị cáo kháng cáo nhưng cũng không đưa ra được những tài liệu, chứng cứ gì mới để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình, nên không có cơ sở chấp nhận.

[3] Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật. [4] Về án phí hình sự phúc thẩm:

Do không chấp nhận kháng cáo, nên bị cáo P, bị cáo V phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo luật định.

Bởi các lẽ trên, Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ Luật tố tụng Hình sự.

QUYẾT ĐỊNH

Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của bị cáo Nguyễn Quốc T2.

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đặng Tấn P và bị cáo Hoàng Thị Hồng V. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Tuyên xử:

Tuyên bố: Bị cáo Đặng Tấn P phạm các tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” và “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”. Bị cáo Hoàng Thị Hồng V phạm các tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, và “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.

1/ Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm g khoản 1 Điều 52; các điểm b và s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 50; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Đặng Tấn P 14 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng điểm a, b và c khoản 3 Điều 341; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Đặng Tấn P 04 năm tù về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”.

Áp dụng điểm a, b và c khoản 3 Điều 341; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Đặng Tấn P 03 năm tù về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.

Áp dụng khoản 1 Điều 55 Bộ luật Hình sự, buộc bị cáo Đặng Tấn P phải chấp hành hình phạt chung cho cả 03 tội tổng cộng là 21 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 23/9/2021.

2/ Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 174; các điểm b và s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 50; Điều 58; Điều 38 và khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Hoàng Thị Hồng V 01 năm 06 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng: Điểm d khoản 2 Điều 341; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50 và Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Hoàng Thị Hồng V 02 năm tù về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.

Áp dụng khoản 1 Điều 55 Bộ luật Hình sự, buộc bị cáo Hoàng Thị Hồng V phải chấp hành hình phạt chung cho cả 02 tội tổng cộng là 03 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

3/ Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật thi hành.

4/ Về án phí hình sự phúc thẩm:

Bị cáo P và bị cáo V mỗi bị cáo phải nộp số tiền 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

5/ Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 83/2023/HS-PT

Số hiệu:83/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về