Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 76/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HẢI CHÂU, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 76/2022/HS-ST NGÀY 07/07/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 07 tháng 7 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Hải Châu, TP Đà Nẵng xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 47/2023/HSST ngày 05 tháng 5 năm 2023 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 52/2023/HSST-QĐ ngày 16/6/2023 và thông báo thay đổi thời gian xét xử số 57/TB-TA ngày 19/6/2023 đối với bị cáo:

Ngô Quang T. Tên gọi khác: Không. Sinh ngày: 23.8.1997 tại tỉnh Q; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Tổ 02, khối T, phường C, thành phố H, tỉnh Q. Nghề nghiệp: Lao động phổ thông. Trình độ văn hóa: 12/12. Con ông: Ngô Văn A (SN: 1974, sống) và bà Nguyễn Thị H (SN: 1978, sống). Bị cáo là con duy nhất trong gia đình. Có vợ Từ Thị Thu C(SN: 2000) và một con nhỏ sinh năm 2022.

Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an quận Hải Châu, có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại:

1/Bà Trần Thị Thu H, sinh năm: 1984. Địa chỉ: Số 57 L, phường H, quận H, thành phố Đà Nẵng, vắng mặt.

2/ Bà Đỗ Thị Kim L, sinh năm: 1986. Địa chỉ: Số 27 P, phường H, quận T, thành phố Đà Nẵng, vắng mặt.

3/ Bà Huỳnh Đạt Như T, sinh năm: 1979. Địa chỉ: Số 227 N, phường T, quận H, thành phố Đà Nẵng, vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Ông Trần Văn L, sinh năm: 1997. Địa chỉ: Thôn T, xã L, huyện P, tỉnh T, vắng mặt.

2/ Bà Đinh Thị S, sinh năm: 1990. Địa chỉ: Số 101 N, phường T, thành phố H, tỉnh Q, vắng mặt.

3/ Ông Nguyễn Trung T, sinh năm: 1992. Địa chỉ: Số 283, phường H, thành phố H, tỉnh Q, vắng mặt.

4/ Bà Nguyễn Thị Bích P, sinh năm: 1986. Địa chỉ: K 60/12 B T, phường B, quận H, thành phố Đà Nẵng, vắng mặt.

5/ Bà Võ Thị Phương H, sinh năm: 1988. Địa chỉ: K 356/43 H, phường B, quận H, thành phố Đà Nẵng, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng ngày 11/10/2022, Ngô Quang T thấy có nhiều người sử dụng mạng xã hội Facebook để liên lạc chơi biêu, số tiền góp lớn và việc chuyển tiền diễn ra dễ dàng nên nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản. T sử dụng thủ đoạn: tìm các chủ biêu có số lượng thành viên nhiều như “Bích Phương”, “Võ Hồng Phương”, “Huỳnh Hà Vân”, tải hình ảnh của những người này, lấy thông tin liên lạc của thành viên; lập tài khoản Zalo giả với tên và hình đại diện của các chủ biêu nêu trên; liên lạc, đưa ra thông tin gian dối về việc tham gia góp biêu để chiếm đoạt tài sản, cụ thể:

Lần 1: Ngày 15/10/2022, T lập tài khoản zalo tên “Bích Phương”, nhắn tin cho Trần Thị Thu H qua zalo “Gạo Hiền Mai”, nói có người cần bán chân biêu góp 5.000.000 đồng/3 ngày, đã góp được 6 ngày/10.000.000 đồng, bán lại giá 8.500.000 đồng (lời 1.500.000 đồng), chị H tưởng thật nên đồng ý tham gia. Trưa ngày 16/10/2022, T đến nhà chị H lấy số tiền 8.500.000 đồng.

Lần 2: Chiều cùng ngày, T tiếp tục dùng zalo trên nhắn tin cho chị H nói có người bán lại chân biêu tương tự như trên, đã đóng được 6 ngày/ 10.000.000 đồng, bán lại 8.500.000 đồng, chị H cũng đồng ý tham gia nên đã nhờ Trần Văn L dùng tài khoản số 56010001226xx của ngân hàng BIDV chuyển cho T số tiền 4.100.000 đồng vào tài khoản số 0010 15370590x của ngân hàng MBBank do T làm chủ tài.

Lần 3: Ngày 17/10/2022, T nhắn tin qua zalo, nói H chuyển số tiền còn lại là 4.680.000 đồng; T đưa tài khoản số 42205555788xx của ngân hàng Agribank, đứng tên Đinh Thị S. Chị H tưởng thật nên tiếp tục nhờ L chuyển cho T. Chị S là bạn của T, khi T nhờ nhận tiền giúp thì chị S nhận và rút ra đưa lại cho T chứ không biết đây là tiền gì.

Lần 4: Ngày 18/10/2022, T lập tài khoản zalo tên “Võ Hồng Phương”, nhắn tin cho Đỗ Thị Kim L qua zalo “Anh Thư”, nói có chân biêu đã góp được 17 ngày/ 17.000.000 đồng, bán lại giá 12.500.000 đồng, lời 4.500.000 đồng, chị L tưởng thật nên đồng ý tham gia. T yêu cầu chị L chuyển tiền vào tài khoản của Đinh Thị S như trên.

Lần 5: Ngày 18/10/2022, T dùng tài khoản zalo tên “Bích Phương” nhắn tin cho Huỳnh Đạt Như T qua zalo “Thảo Baby”, nói có chân biêu đã góp 03 ngày/30.000.000 đồng, bán lại 21.000.000 đồng. T đồng ý và hẹn T đến kiệt 408/01 Hoàng Diệu, P. Bình Thuận, Q. Hải Châu, TP. Đà Nẵng để nhận tiền. Khi T đến, T nghi ngờ nên không giao tiền, giữ T lại và báo Công an phường Bình Thuận, quận Hải Châu mời về làm việc, T đã khai nhận hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản như trên.

Ngoài ra, T khai nhận ngày 16/10/2022, T lập tài khoản zalo tên “Huỳnh Hà Vân” nhắn tin cho một người chiếm đoạt số tiền 2.400.000 đồng nhưng không nhớ tên tài khoản. Cơ quan CSĐT Công an quận Hải Châu đã đăng tin trên phương tiện thông tin đại chúng để tìm bị hại nhưng đến nay chưa có kết quả nên tiếp tục điều tra, làm rõ và xử lý sau.

Như vậy, T đã thực hiện 05 lần lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tổng số tiền chiếm đoạt là 29.780.000 đồng. Đối với lần thứ 5 bị cáo phạm tội thuộc trường hợp chưa đạt.

Vật chứng thu giữ: Thu giữa của Ngô Quang T: Số tiền 2.112.000 đồng; 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade, màu đỏ - đen, số khung: RLHJF 2702BY775277, số máy: JF27E-0862968, biển số: 92C1 - 027.xx; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo K3, màu trắng, Imei 1: 86055104055 3274, Imei 2: 860551040553266, gắn 02 sim, số 03858115xx và 0375.959.9xx; 01 Căn cước công dân mang tên Ngô Quang T; 01 thẻ Bảo hiểm y tế mang tên Ngô Quang T; 01 thẻ ATM của Ngân hàng MBBank tên Ngô Quang T; 01 thẻ ATM của Ngân hàng BIDV tên Ngô Quang T.

Cơ quan CSĐT Công an quận Hải Châu đã thu thập bản sao kê tài khoản tại các ngân hàng, gồm: Bản sao kê tài khoản ngân hàng MBBank số tài khoản 001015370590x của Ngô Quang T; Bản sao kê tài khoản ngân hàng MBBank số tài khoản 55252524567xx của Ngô Quang T; Bản sao kê tài khoản ngân hàng BIDV số tài khoản 56010001226xx của Trần Văn L; Bản sao kê tài khoản ngân hàng MBBank số tài khoản 0907837xxx của Đỗ Thị Kim L; Bản sao kê tài khoản ngân hàng Agribank số tài khoản 42205555788xx của Đinh Thị S.

Quá trình điều tra, Ngô Quang T đã khai nhận toàn bộ hành vi chiếm đoạt tài sản như trên. Việc khai nhận của T phù hợp với lời khai của bị hại, vật chứng thu giữ và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Tại phiên tòa hôm nay, bị hại bà Trần Thị Thu H, bà Đỗ Thị Kim L, bà Huỳnh Đạt Như T; những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều vắng mặt, HĐXX đã tiến hành công bố lời khai của người vắng mặt. Bị cáo Ngô Quang T xác nhận lời khai của những người vắng mặt là đúng với hành vi phạm tội của bị cáo.

Cáo trạng số 47/CT- VKS ngày 04/5/2023 của Viện Kiểm sát nhân dân Quận Hải Châu, TP Đà Nẵng đã truy tố bị cáo Ngô Quang T về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm e khoản 2 điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố luận tội: Hành vi của bị cáo Ngô Quang T có đủ các yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Ngô Quang T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và đề nghị HĐXX áp dụng điểm e khoản 2 điều 174, điểm b, s khoản 1, khoản 2 điều 51, điểm g khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Ngô Quang T mức án từ 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng đến 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại chị Trần Thị Thu H, chị Đỗ Thị Kim L đã nhận lại toàn bộ số tiền gia đình bị cáo đã bồi thường và không có ý kiến yêu cầu gì nên VKS không đề cập đến.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự xử lý như sau: Đối với số tiền 2.112.000 đồng tuyên tiếp tục quy trữ để đảm bảo thi hành án; Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo K3, màu trắng, Imei 1: 86055104055 3274, Imei 2: 860551040553266, gắn 02 sim, số 03858115xx và 0375.959.9xx bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội nên cần tuyên tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước; Đối với 01 Căn cước công dân mang tên Ngô Quang T, 01 thẻ Bảo hiểm y tế mang tên Ngô Quang T; 01 thẻ ATM của Ngân hàng MBBank tên Ngô Quang T; 01 thẻ ATM của Ngân hàng BIDV tên Ngô Quang T là tài sản của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần tuyên trả lại cho bị cáo T; Lưu giữ trong hồ sơ vụ án những tài liệu sao kê các tài khoản ngân hàng như nêu trên.

Đối với xe mô tô biển số 92C1 - 027.xx do Nguyễn Trung T đứng tên đăng ký nhưng ông T khai đã bán cho người khác vào năm 2014. T khai đã mua xe này qua mạng internet, có giấy tờ nhưng đã bị mất. Hiện chưa đủ căn cứ xác định chủ sở hữu hợp pháp nên Cơ quan CSĐT Công an quận Hải Châu tiếp tục điều tra làm rõ và xử lý sau.

Bị cáo Ngô Quang T không có ý kiến tự bào chữa và không tranh luận gì.

Tại phiên tòa bị cáo trình bày lời nói sau cùng, bị cáo Ngô Quang T xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ để bị cáo có cơ hội làm lại cuộc đời.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận Hải Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận Hải Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Ngô Quang T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cùng các tài liệu điều tra thu thập đầy đủ có tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa. Hội đồng xét xử thấy đủ cơ sở kết luận: Từ ngày 16/10/2022 đến ngày 18/10/2022, trên địa bàn quận Hải Châu, TP Đà Nẵng, Ngô Quang T đã dùng thủ đoạn gian dối là tìm tài khoản Facebook có tên “Bích Phương”, “Võ Hồng Phương”, tải hình ảnh của những người này, lấy thông tin liên lạc của thành viên; lập tài khoản Zalo giả với tên và hình đại diện của các chủ biêu nêu trên, liên lạc, đưa ra thông tin gian dối về việc tham gia góp biêu để chiếm đoạt tài sản của các bị hại Trần Thị Thu H 03 lần với số tiền 17.280.000đ, Đỗ Thị Kim L 01 lần với số tiền 12.500.000đ và 01 lần phạm tội chưa đạt với chị Huỳnh Đạt Như T. Tổng trị giá tài sản bị cáo chiếm đoạt là 29.780.000đ.

Hành vi trên của bị cáo Ngô Quang T là dùng thủ đoạn dối trá một cách tinh vi, sử dụng công nghệ cao lấy các thông tin từ Facebook và lập các nick Zalo giả trao đổi, liên hệ, đưa ra thông tin giả về việc chuyển nhượng các chân biêu làm cho bị hại tin tưởng giao tiền cho bị cáo chiếm đoạt, tài sản chiếm đoạt bị cáo sử dụng để tiêu xài cá nhân. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Tổng trị giá tài sản bị cáo chiếm đoạt là 29.780.000 đồng, thủ đoạn bị cáo sử dụng để chiếm đoạt tài sản theo hướng dẫn tại Nghị quyết 02/2020/NQ-HĐTP ngày 30/12/2020 của HĐTPTANDTC là hành vi dùng thủ đoạn xảo quyệt nên hành vi phạm tội của bị cáo phạm vào điểm e khoản 2 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015 như bản cáo trạng số 47CT- VKS ngày 04- 5-2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận Hải Châu đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]Xét tính chất tính vụ án, nhân thân, các tình tiết tặng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy : Bị cáo là người có nhân thân tốt, thanh niên khỏe mạnh nhưng không lo lao động chân chính để làm ăn mà chỉ vì muốn tiêu xài thỏa mãn cá nhân bằng tài sản của người khác nên bị cáo đã đi vào con đường phạm tội. Trong vụ án, bị cáo đã 05 nhận tiền của các bị hại trong đó lần thứ 05 bị cáo phạm tội chưa đạt do người bị hại chị T cảnh giác nên bị cáo không thực hiện được đến cùng hành vi phạm tội, mỗi lần nhận tiền đều trên 2.000.000đ nên hành vi phạm tội của bị cáo thuộc tình tiết tăng nặng "phạm tội hai lần trở lên" được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015. Bị cáo trực tiếp đến nhà bị hại để nhận tiền thể hiện sự liều lĩnh, coi thường pháp luật. Xét thấy hành vi của bị cáo rất nguy hiểm nên cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để có biện pháp quản lý giáo dục cho bị cáo tiến bộ như quan điểm của Kiểm sát viên tại phiên tòa là thỏa đáng. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo T có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; bị cáo đã tác động gia đình bồi thường, khắc phục toàn bộ hậu quả, người bị hại bà H, bà L đều xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, bị cáo đã có thời gian phục vụ trong quân đội nên cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ TNHS được quy định tại điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 để xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt khi lượng hình.

[4]Về trách nhiệm dân sự : Người bị hại bà Trần Thị Thu H và bà Đỗ Thị Kim L đã nhận lại toàn bộ số tiền bị chiếm đoạt do gia đình bị cáo bồi thường và không có yêu cầu bồi thường gì thêm nên HĐXX không đề cập đến.

[5] Về xử lý vật chứng: Đối với số tiền 2.112.000 đồng cần tiếp tục quy trữ để đảm bảo thi hành án.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo K3, màu trắng, Imei 1:

86055104055 3274, Imei 2: 860551040553266, gắn 02 sim, số 03858115xx và 0375.959.9xx bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội nên cần tuyên tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước.

Đối với 01 Căn cước công dân mang tên Ngô Quang T, 01 thẻ Bảo hiểm y tế mang tên Ngô Quang T; 01 thẻ ATM của Ngân hàng MBBank tên Ngô Quang T;

01 thẻ ATM của Ngân hàng BIDV tên Ngô Quang T là tài sản của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần tuyên trả lại cho bị cáo T.

Đối với những tài liệu sao kê các tài khoản ngân hàng đã được đánh bút lục nên tiếp tục lưu trữ trong hồ sơ vụ án.

Đối với xe mô tô biển số 92C1 - 027.xx: Do Nguyễn Trung T đứng tên đăng ký nhưng ông T khai đã bán cho người khác vào năm 2014. T khai đã mua xe này qua mạng internet, có giấy tờ nhưng đã bị mất. Hiện chưa đủ căn cứ xác định chủ sở hữu hợp pháp nên Cơ quan CSĐT Công an quận Hải Châu tiếp tục điều tra làm rõ và xử lý sau là phù hợp.

[6]Án phí hình sự sơ thẩm : 200.000đ bị cáo phải chịu, Vì những lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Ngô Quang T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Căn cứ vào điểm e khoản 2 điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 điều 51, điểm g khoản 1 điều 52, điều 15 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Ngô Quang T 02 (Hai) năm 03 (Ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giam, ngày 15/5/2023.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tuyên tiếp tục quy trữ số tiền 2.112.000 đồng để đảm bảo thi hành án.

Tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo K3, màu trắng, Imei 1: 86055104055 3274, Imei 2: 860551040553266, gắn 02 sim, số 03858115xx và 0375.959.9xx.

Trả lại cho bị cáo Ngô Quang T 01 Căn cước công dân mang tên Ngô Quang T, 01 thẻ Bảo hiểm y tế mang tên Ngô Quang T; 01 thẻ ATM của Ngân hàng MBBank tên Ngô Quang T; 01 thẻ ATM của Ngân hàng BIDV tên Ngô Quang T.

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Ngô Quang T phải chịu 200.000 đồng.

Án xử công khai sơ thẩm, báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, ngày 07-7-2023. Riêng bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao án hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

15
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 76/2022/HS-ST

Số hiệu:76/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hải Châu - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:07/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về