Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 753/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 753/2022/HS-PT NGÀY 29/09/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 466/2022/TLPT-HS ngày 12 tháng 7 năm 2022 đối với bị cáo Huỳnh Lê Hồng M, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 25/2022/HS-ST ngày 30 tháng 5 năm 2022 của Toà án nhân dân tỉnh An Giang.

Bị cáo có kháng cáo:

Huỳnh Lê Hồng M (Ti), sinh ngày 13/12/1993; tại tỉnh An Giang.

Nơi cư trú: Số 31A đường D, khóm 3, phường C, thành phố C, tỉnh An Giang; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Phật giáo; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: Lớp 12/12; cha Huỳnh Văn H sinh năm 1961, mẹ Lê Thị Lệ X sinh năm 1965; bị cáo chưa có vợ con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo tạm giam từ ngày 03/12/2021, có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa chỉ định cho bị cáo: Luật sư Trần Ngọc Bản thuộc Đoàn Luật sư tỉnh An Giang (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Huỳnh Lê Hồng M quen biết với ông Lâm Thiện Tâm, đồng thời thông qua ông Tâm, M quen biết với ông Lâm Đỗ Hoàng Phú và ông Nguyễn Thanh Bình. Do cần tiền để tiêu xài và trả nợ nên M nảy sinh ý định chiếm đoạt tiền của những người này. Tháng 9/2019, M giả vờ rủ ông Tâm góp vốn mua ghe chở cá thuê cho Công ty Cổ phần Vĩnh Hoàn tại tỉnh Đồng Tháp, trị giá của ghe là 520.000.000 đồng, mỗi người góp 260.000.000 đồng thì ông Tâm đồng ý. Ngày 13/9/2019, ông Tâm chuyển 260.000.000 đồng vào tài khoản của M, mở tại Ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển Việt Nam (Ngân hàng BIDV) - Chi nhánh Bắc An Giang. Khoảng ngày 27/9/2019, M nói với ông Tâm ở huyện Châu Phú đang bán đấu giá xe mô tô cũ và gợi ý rủ Tâm góp vốn mua để bán kiếm lời. Tin thật, Tâm đưa M 140.000.000 đồng để nhờ mua 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Vario trị giá khoảng 40.000.000 đồng và góp vốn 100.000.000 đồng với M để mua bán xe mô tô. Tổng số tiền ông Tâm góp vốn và đưa M mua xe mô tô là 400.000.000 đồng. Để cho Tâm tiếp tục tin tưởng, từ ngày 24/9/2019 đến ngày 22/12/2019, M ba lần chuyển khoản cho Tâm với tổng số tiền 68.968.000 đồng, nói dối rằng đây là tiền chia lợi nhuận cho Công ty Cổ phần Vĩnh Hoàn thuê ghe, đồng thời đưa Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả số CE 868038, diện tích 175m2 tọa lạc tại khóm Vĩnh Phú, phường C, thành phố C, tỉnh An Giang của M cho Tâm giữ.

Sau đó, Tâm giới thiệu Đỗ Hoàng Phú và Nguyễn Thanh Bình cùng góp vốn mua ghe và mua xe mô tô với M, trong đó Phú góp 1.372.000.000 đồng và Bình 270.000.000 đồng. Sau khi đưa tiền cho M, Phú và Bình không thấy M chia lợi nhuận và cũng không thấy có mua xe mô tô như đã thỏa thuận nên Tâm, Phú và Bình đến Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an tỉnh An Giang trình báo.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 25/2022/HS-ST ngày 30/5/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Huỳnh Lê Hồng M (Ty) phạm tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng: điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Lê Hồng M (Ty) 14 (mười bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 03/12/2021.

Về án phí dân sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự.

Bị cáo Huỳnh Lê Hồng M phải chịu 35.595.480 đồng Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí hình sự, trách nhiệm dân sự và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 35/QĐ/CV3-V1 ngày 29/6/2022 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, kháng nghị Bản án hình sự sơ thẩm số:

25/2022/HS-ST ngày 30/5/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang giảm án phí dân sự không đúng pháp luật, có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm, đề nghị hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại theo đúng quy định pháp luật.

Trong phần tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh có quan điểm như sau: Bản án sơ thẩm giảm 01 phần án phí dân sự sơ thẩm cho bị cáo, nhận định bị cáo có hoàn cảnh rất khó khăn là chưa có căn cứ và chưa phù hợp với quy định tại Điều 12, Điều 13 Nghị quyết 326. Ngoài ra, bị cáo còn sử dụng giấy tờ giả là giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giao cho ông Tâm để che giấu hành vi trái phạm luật trước đó bị cáo đã thực hiện đối với ông Tâm, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không xử lý là bỏ lọt tội phạm. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 35/QĐ/CV3-V1 ngày 29/6/2022 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, hủy bản án sơ thẩm để điều tra, giải quyết lại vụ án cho đúng pháp luật.

Luật sư bào chữa cho bị cáo cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm xử bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là phù hợp; Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh kháng nghị việc bị cáo có sử dụng giấy tờ giả nhưng hành vi này của bị cáo chưa gây ra hậu quả, không xử lý là phù hợp. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Bị cáo nhất trí với lời trình bày của luật sư, không tham gia tranh tụng. bị cáo có lời nói sau cùng mong Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo, vì bị cáo chỉ giao giấy tờ giả cho ông Tâm giữ dùm.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 35/QĐ/CV3-V1 ngày 29/6/2022 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, đúng luật định nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[1]. Xét Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 35/QĐ/CV3-V1 ngày 29/6/2022 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh:

[1.1]. Tại phiên tòa, bị cáo M thừa nhận có sử dụng Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CE 868038, diện tích 175m2, địa chỉ tại khóm Vĩnh Phú, phường C, thành phố C, tỉnh An Giang mang tên bị cáo M là giấy tờ giả, giao cho bị hại Tâm giữ dùm là không có căn cứ vì bị cáo đã biết giấy tờ là giả, không có giá trị nên không cần phải giữ dùm. Hành vi khách quan của bị cáo đã thể hiện: bị cáo giao giấy tờ giả cho bị hại Tâm giữ, nhằm mục đích để tạo niềm tin, che giấu hành vi trái pháp luật (lừa đảo chiếm đoạt tài sản) của bị cáo trước đó đã thực hiện đối với bị hại Tâm. Tòa án cấp sơ thẩm không xử lý hành vi sử dụng giấy tờ giả của bị cáo M là thiếu sót, bỏ lọt tội phạm. Do đó, kháng nghị phúc thẩm của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh là có căn cứ. Tuy nhiên, xét thấy hành vi sử dụng giấy tờ giả là hành vi độc lập, không ảnh hưởng làm thay đổi nội dung tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” đã xét xử đối với bị cáo. Do đó, không cần thiết phải hủy bản án sơ thẩm, mà chỉ kiến nghị Cơ quan điều tra tiếp tục khởi tố để xử lý bị cáo về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” là phù hợp.

[1.2]. Về phần trách nhiệm dân sự, Tòa án cấp sơ thẩm buộc bị cáo M phải bồi thường cho bị hại Tâm số tiền 331.032.000 đồng; bị hại Phú số tiền 1.372.000.000 đồng và bị hại Bình số tiền 270.000.000 đồng nên bị cáo phải chịu án phí dân sự có giá ngạch theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự là 71.130.000 đồng. Căn cứ theo tài liệu trong hồ sơ vụ án, bị cáo không có đơn xin miễn, giảm án phí do hoàn cảnh khó khăn được địa phương xác nhận nhưng Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng bị cáo đang khó khăn về kinh tế, giảm án phí cho bị cáo và chỉ buộc bị cáo phải nộp 35.595.480 đồng án phí dân sự sơ thẩm, là chưa phù hợp.

[2]. Từ những phân tích và nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử không chấp nhận lời bào chữa của vị luật sư cho bị cáo; chấp nhận một phần Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 35/QĐ/CV3-V1 ngày 29/6/2022 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh; sửa bản án sơ thẩm về phần án phí dân sự sơ thẩm; kiến nghị Cơ quan điều tra tiếp tục khởi tố để xử lý bị cáo về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự.

1. Chấp nhận một phần Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 35/QĐ/CV3- V1 ngày 29/6/2022 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh;

Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 25/2022/HS-ST ngày 30/5/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang như sau:

Tuyên bố bị cáo Huỳnh Lê Hồng M (Ti) phạm tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng: điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Lê Hồng M (Ti) 14 (mười bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 03/12/2021. Tiếp tục tạm giam bị cáo Huỳnh Lê Hồng M 45 ngày để đảm bảo thi hành án.

Kiến nghị Cơ quan điều tra Công an tỉnh An Giang khởi tố bị cáo Huỳnh Lê Hồng M về tội: “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” để xử lý theo quy định pháp luật.

- Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Huỳnh Lê Hồng M (Ti) phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch là 71.130.000 đồng.

2. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

400
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 753/2022/HS-PT

Số hiệu:753/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về