TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 727/2020/HS-PT NGÀY 24/11/2020 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 24 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 839/2019/24-12-2019 đối với bị cáo Hoàng Vũ H, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 52/2019/HSST ngày 12 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông.
Bị cáo có kháng cáo:
Hoàng Vũ H, sinh năm 1983, tại tỉnh: Nghệ An; nơi ĐKHKTT và chỗ ở trước khi phạm tội: Thôn Tân Thịnh, xã Quảng Thành, thị xã Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông; nghề ngH: Không nghề nghiệp ổn định; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Công H – sinh năm 1956 và bà Võ Thị Ngh – sinh năm 1958. Nhân thân: Ngày 01/3/2005, bị Tòa án nhân dân huyện K’rông Năng, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Cố ý gây thương tích”. Bị bắt tạm giam từ ngày 03/4/2019, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đắk Nông – có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hoàng Vũ H không kinh doanh, buôn bán gỗ nhưng H sử dụng tài khoản mạng xã hội Zalo có tên “Exist” đăng ký bằng số điện thoại 0948689848 và đăng các hình ảnh về gỗ giới thiệu để bán.
Ngày 04/4/2018, khi xem Zalo của Hoàng Vũ H tưởng H có gỗ bán nên ông Bùi Văn Th kết bạn Zalo với H để liên hệ mua gỗ. H gửi hình ảnh bãi gỗ của doanh nghiệp Hiếu Ph có địa chỉ tại số 679 đường Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai và giới thiệu là con của doanh nghiệp tư nhân Hiếu Phát để ông Th tin tưởng. Sau đó, H đã gửi nhiều hình ảnh về gỗ giới thiệu cho ông Th.
Khoảng đầu tháng 6 năm 2018, ông Th được đại diện chùa Linh Ứng tại tại quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng mời khảo sát và lập dự án thi công một ngôi chùa nên có nhu cầu mua một số gỗ căm xe dạng cột và dạng hộp để phục vụ việc thi công xây dựng chùa. Ngày 25/7/2018, qua Zalo ông Th hỏi H về loại cột gỗ căm xe đường kính 45cm, dài 7m, gỗ căm xe hàng xô (nhiều kích thước) có chiều dài từ 4m và rộng 0,4m, khối lượng 60m3 thì H trả lời là chỉ có cột gỗ căm xe dài từ 6m – 6,5m và gửi 07 hình ảnh các lô gỗ căm xe dạng cột để trong nhà kho và ở ngoài trời qua Zalo cho ông Th xem để ông Th tin là H có loại gỗ ông Th cần mua. H báo giá bán đã gồm chi phí vận chuyển đến xưởng (giao gỗ không giao hóa đơn chứng minh nguồn gốc) là 26.000.000đ/m3. H gửi cho ông Th số điện thoại của H đang sử dụng (là 0948689848 và 0973615715) và xin số điện thoại của ông Th (là 01683209745) để liên lạc.
Khi biết ông Th có nhu cầu mua gỗ căm xe, H đã liên lạc với anh Sự để hỏi nguồn gốc số gỗ trong 07 hình ảnh nêu trên. Sự liên lạc với Võ Toán (sinh năm 1984, HKTT: Ấp Bình Lợi, xã Tân Mỹ Chánh, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang, chỗ ở: Thị trấn Đắk Mil, huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông) và được Toán giới thiệu và cho số điện thoại để liên lạc với anh Lê Quảng V(sinh năm 1972, HKTT: Thôn Quảng Thọ, xã Đạo Nghĩa, huyện Đắk R’Lấp, Đắk Nông) để biết nguồn gốc của ảnh và số gỗ trong ảnh. Sự cho H số điện thoại của anh V. Khi H liên lạc với anh V thì được anh V cho biết 07 hình ảnh nêu trên là hình mẫu còn gỗ thực tế thì ở kho và xưởng của anh Nguyễn Văn Th (sinh năm 1972, tại: Hải Dương, HKTT: Thôn 1, xã Thiện Hưng, huyện Bù Đốp, Bình Phước). Sau khi được anh V cho biết nguồn gốc các ảnh về gỗ thì H nói với ông Th là hiện tại cửa khẩu Lệ Thanh ở Gia Lai đóng cửa không cho nhập khẩu gỗ nên H không đưa gỗ về kho của H tại số 679 đường Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai được mà đưa gỗ về qua cửa khẩu Hoa Lư (thuộc huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước).
Ngày 01/8/2018, ông Th ký hợp đồng xây dựng chùa Linh Ứng nên hẹn gặp H để đi xem và mua gỗ. H liên lạc và hướng dẫn ông Th đến thị xã Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông để đưa ông Th đi xem và mua gỗ. Ngày 12/8/2018, ông Th đến thị xã Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông, H nhờ anh Nguyễn Tiến Công (sinh năm: 1980, HKTT: Thôn Thuận Sơn, xã Thuận An, huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông, chỗ ở: Tổ dân phố 9, phường Nghĩa Thành, thị xã Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông) đưa ông Th đi tìm nhà nghỉ đồng thời H gọi điện thoại nhờ anh V đưa H đi xem gỗ tại huyện Bù Đốp, tỉnh Bình Phước. Do anh V bận việc nên giới thiệu anh Võ Toán đưa H đi xem gỗ. Anh V cho H số điện thoại của anh Toán và cho Toán số điện thoại của H và anh Th. Anh V liên lạc với anh Th báo trước việc có người đến xem gỗ. Sáng ngày 13/8/2018, H thuê anh Nguyễn Tiến Công lái xe ô tô nhãn hiệu Huyndai Elentra biển kiểm soát 51A – 739.84 đón ông Th và liên lạc với anh Toán hẹn gặp nhau tại xã Nhân Cơ, huyện Đắk R'Lấp, tỉnh Đắk Nông để cùng đi Bình Phước xem gỗ. Đến chiều cùng ngày, H, ông Th, Toán và Công đến xưởng gỗ của anh Th tại thôn 4, xã Thiện Hưng, huyện Bù Đốp, tỉnh Bình Phước. Khi đến xưởng gỗ của anh T, H chỉ cho ông Th lô cột gỗ căm xe dạng cột đã xẻ cạnh lục lăng (nằm trong bãi gỗ) và nói là gỗ của H đã mua của anh Th để ông Th xem và kiểm tra quy cách nếu được thì H bán cho ông Th (số gỗ này là của anh Th chưa bán cho H). Ông Th đã đo và kiểm tra lô gỗ xác định có 02 cây gỗ không đủ quy cách, H trả lời: “Chú yên tâm, cây nào không đạt con loại ra, khi nào gỗ chuyển về tới nơi cho chú mà còn cây nào chưa đạt thì chú cứ loại ra cho con”. Sau đó, ông Th và H lên xe ô tô đi về, trên xe ông Th đặt mua gỗ căm xe của H số lượng là 70m3, trong đó có 28m3 gỗ cột và 42m3 gỗ sô lô (nhiều kích thước khác nhau) dạng hộp, bản rộng từ 30cm trở lên, dài từ 3m trở lên; trong 28m3 gỗ cột, có 20 cây cột dạng trụ tròn, đường kính 40cm, dài 4,2m và 10 cây cột dạng trụ tròn đường kính 45cm, dài 5,5m để H tính thành tiền (bao vận chuyển) rồi báo lại cho ông Th. Khi đến quốc lộ, anh Công chở H và Toán về lại thị xã Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông còn ông Th tự đón xe về Thành phố Hồ Chí Minh. Sau đó, qua điện thoại, H thống nhất với ông Th là đảm bảo gỗ đủ số lượng, quy cách, gỗ có giấy tờ pháp lý đầy đủ, vận chuyển đến kho của ông Th ở tỉnh Hải Dương trong thời gian 05 ngày sau khi ông Th chuyển tiền thanh toán trước bằng 1/3 giá trị gỗ mua bán. H nói sẽ chuyển gỗ từ Campuchia qua cửa khẩu về thẳng địa chỉ của ông Th ở tỉnh Hải Dương luôn còn gỗ ở kho anh T, H sẽ dùng vào việc khác.
Sáng ngày 14/8/2018, H nhắn tin qua Zalo cho ông Th nội dung: 28m3 gỗ hàng cột, 20 cây cột đường kính 40cm dài 4,2m có giá là 28 triệu đồng/1m3 và 10 cây cột đường kính 45cm và dài 6.5m có giá là 29 triệu đồng/1m3; 42m3 gỗ sô lô có giá là 21 triệu đồng/1m3 bao vận chuyển; tổng chi phí gần 1.700.000.000 đồng, sau này đo hàng tới đâu tính tiếp, giờ chỉ sơ bộ vậy. H vận chuyển gỗ đến giao tại kho gỗ của ông Th tại thôn Động Trạch, xã Hồng Phong, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương. H hứa: “Hôm nay chú cọc mai cháu cho về Việt Nam 01 xe chú coi”.
Tin tưởng H có gỗ nên chiều ngày 14/8/2018, ông Th đến ngân hàng NN&NTtrên đường Nguyễn Ảnh Thủ thuộc quận 12, thành phố Hồ Chí Minh chuyển khoản số tiền 500.000.000 đồng vào tài khoản số 6320205589760 của Hoàng Vũ H mở tài khoản tại Agribank chi nhánh Tây Sài Gòn để đặt cọc mua gỗ của H.
Sau khi chuyển tiền cho H, ông Th nhiều lần liên lạc hỏi H tình hình việc H chuyển gỗ cho ông Th như đã hứa nhưng H nói dối là H đang ở Campuchia mua gỗ cho ông Th. H tiếp tục gửi 04 hình ảnh chụp các lô gỗ căm xe dạng cột cho ông Th để làm ông Th tin là H đang thực hiện thỏa thuận. Nguồn gốc 04 hình ảnh này là ảnh do anh Th chụp gỗ của anh Th từ năm 2017 và số gỗ này anh Th đã bán hết. Ngày 17/8/2018, qua Zalo H nói với ông Th là gỗ đã về đến cửa khẩu Hoa Lư đang làm thủ tục thông quan và nộp thuế đến ngày 20/8/2018 sẽ vận chuyển đến Hải Dương giao cho ông Th và H gọi điện yêu cầu ông Th chuyển thêm 50.000.000 đồng cho đủ 30% hợp đồng để H chuyển gỗ. Trên thực tế không có lô gỗ căm xe nào về cửa khẩu Hoa Lư ngày 17/8/2018.
Ngày 22/8/2018, ông Th đã chuyển thêm 50.000.000 đồng vào tài khoản số 6320205589760 cho H. Sau khi nhận được tiền, H không nghe điện thoại của ông Th, tắt điện thoại, không trả lời tin nhắn của ông Th, chặn tin nhắn Zalo của ông Th, hủy kết bạn Zalo với ông Th, hủy tài khoản Zalo có tên “Exist”, số điện thoại 0973615715 H bán cho người khác sử dụng, H không có gỗ giao cho ông Th như đã hứa.
Từ ngày 14/8/2018 đến ngày 22/8/2018, H rút tiền tại cây ATM 24 lần với tổng số tiền là 100.000.000 đồng. Vào sáng ngày 23/8/2019, H rút 5.000.000 đồng tại cây rút tiền ATM và H trực tiếp đến quầy giao dịch của ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh thị xã Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông rút số tiền 440.000.000 đồng. Qua bảng kê chi tiền cho H của ngân hàng NN&NT chi nhánh thị xã Gia Nghĩa và giấy nộp tiền của Hoàng Vũ L (sinh năm 1984, trú tại thôn Thân Thịnh, xã Quảng Thành, thị xã Gia Nghĩa là em ruột của H) vào tài khoản của L tại ngân hàng S chi nhánh thị xã Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông cùng ngày 23/8/2018 thể hiện số lượng tờ tiền và mệnh giá tiền giống nhau, cụ thể là: 600 tờ mệnh giá 500.000 đồng, 200 tờ mệnh giá 200.000 đồng và 100 tờ mệnh giá 100.000 đồng. Như vậy, có cơ sở xác định H đã rút số tiền 440.000.000 đồng đưa cho L sử dụng cá nhân. Số tiền còn lại, H sử dụng cá nhân hết không trả lại cho ông Th.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 52/2019/HSST ngày 12/11/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông quyết định:
Tuyên bố bị cáo Hoàng Vũ H phạm tội “Lừa dảo chiếm đoạt tài sản”.
Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm g khoản 1 Điều 52, các điểm b, s khoản 1; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự
Xử phạt bị cáo Hoàng Vũ H 12 (mười hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giam, ngày 03/4/2019.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, án phí và quyền kháng theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Hoàng Vũ H có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị cáo và Luật sư bào chữa cho bị cáo vẫn giữ nguyên kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao đề nghị không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên bán án hình sự sơ thẩm số 52/2019/HS-ST ngày 12/11/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo và người tham gia tố tụng.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Về hình thức đơn kháng cáo của bị cáo, trong hạn luật định nên chấp nhận xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
Bị cáo Hoàng Vũ H bị Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt 12 (mười hai) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự.
Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
[1] Nội dung vụ án: Tại phiên Tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản án sơ thẩm được tóm tắt nêu trên.
[2] Nhận định của Hội đồng xét xử: hành vi phạm tội của bị cáo thể hiện mặc dù không có gỗ để bán nhưng bị cáo Hoàng Vũ H đã nói dối ông Bùi Văn Th là bị cáo có xưởng gỗ, có gỗ như nhu cầu của ông Th cần, rồi sao chép gửi những hình ảnh gỗ của anh Nguyễn Văn Th qua zalo cho ông Th và nói dối là gỗ của bị cáo mua từ Campuchia về làm cho ông Th tin tưởng nên đã đồng ý mua 70m3 gỗ, với tổng giá trị gần 1.700.000.000 đồng. Vào ngày 14/8 và ngày 22/8/2018 ông Th đã chuyển vào tài khoản của bị cáo tổng số tiền là 550.000.000 đồng. Sau đó, bị cáo đã rút số tiền này để tiêu xài cá nhân. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự mà cấp sơ thẩm đã xét xử là đúng người đúng tội.
Xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội. Xâm phạm đến tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ và gây mất trật tự trị an xã hội. Tuy nhiên, khi lượng hình cấp sơ thẩm cũng đã cân nhắc đến các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo đã tác động gia đình bồi thường cho bị hại số tiền là 100.000.000 đồng nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự là đúng quy định của pháp luật nên cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo.
Tại phiên tòa ngày hôm nay vị đại diện Viện kiểm sát cấp cao đề nghị giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 52/2019/HS-ST ngày 12/11/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông phù hợp với nhận định trên của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
Do kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận nên phải chịu tiền án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hoàng Vũ H.
Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 52/2019/HS-ST ngày 12/11/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông.
Tuyên bố các bị cáo Hoàng Vũ H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm g khoản 1 Điều 52, các điểm b, s khoản 1; khoản 2 Điều 51 của Bộ Luật hình sự
Xử phạt bị cáo Hoàng Vũ H 12 (mười hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 03/04/2019.
Tiếp tục tạm giam bị cáo Hoàng Vũ H để đảm bảo việc thi hành án.
2. Về án phí: Bị cáo Hoàng Vũ H phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 727/2020/HS-PT
Số hiệu: | 727/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/11/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về