Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 698/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 698/2023/HS-PT NGÀY 20/09/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 9 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 473/2023/TLPT-HS ngày 29 tháng 6 năm 2023 đối với bị cáo Nguyễn Thị Thu C do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 50/2023/HS-ST ngày 23/5/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương.

Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Thị Thu C sinh năm 1987 tại tỉnh Bình Dương; nơi cư trú: số 155/1A, khu phố TB, phường AT, thành phố TA, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa (học vấn): lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn R và bà Nguyễn Thị Thu L; có chồng là ông Lê Anh V (đã ly hôn năm 2020); có 04 con (lớn nhất sinh năm 2008, nhỏ nhất sinh năm 2019); tiền án, tiền sự: không; bị bắt tạm giam từ ngày 14 tháng 10 năm 2021 đến nay; hiện đang bị tạm giam tại Trại Tạm giam - Công an tỉnh Bình Dương, có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị Thu C: Luật sư Nguyễn Hồng N, Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Từ tháng 5 năm 2020 đến tháng 01 năm 2021, bị cáo Nguyễn Thị Thu C nhận tiền đặt cọc để chuyển nhượng quyền sử dụng đất với một số người trên địa bàn thành phố TA, tỉnh Bình Dương như sau:

Bị cáo C giao dịch với vợ chồng ông Đinh Tiến T và bà Lê Thị Thu H:

Bị cáo C quen biết vợ chồng ông T. Ngày 15 tháng 5 năm 2020, bị cáo C thỏa thuận chuyển nhượng cho vợ chồng ông T 02 thửa đất tái định cư tại đường An T 51 (phường AT, thành phố TA, tỉnh Bình Dương) với giá 5.000.000.000 (năm tỷ) đồng, cùng vợ chồng ông T ký giấy đặt cọc, nhận 230.000.000 (hai trăm ba mươi triệu) đồng tiền cọc. Ngày 30 tháng 11 năm 2020, bị cáo C thỏa thuận chuyển nhượng cho vợ chồng ông T nền đất tái định cư tại đường TKH (phường AT, thành phố TA, tỉnh Bình Dương) với giá 2.350.000.000 (hai tỷ, ba trăm năm mươi triệu) đồng, ký hợp đồng đặt cọc và nhận 200.000.000 (hai trăm triệu) đồng tiền cọc.

Thông qua mạng Internet, bị cáo C thuê người (không xác định được nhân thân, lai lịch) làm giả 01 Thông báo (của Ủy ban nhân dân thành phố TA, tỉnh Bình Dương đề ngày 28 tháng 10 năm 2020 về việc thông báo cho bị cáo C đến làm hồ sơ nhận quyền sử dụng đất), đưa cho ông T xem, nói là cần tiền để làm hồ sơ nên yêu cầu ông T giao thêm tiền đặt cọc và ngày 29 tháng 12 năm 2020 được ông T giao thêm 400.000.000 (bốn trăm triệu) đồng. Bị cáo C đặt làm giả 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Nguyễn Thị Thu C (01 giấy số CV566301, số vào sổ CS09957 ngày 16 tháng 12 năm 2020; 01 giấy số CV566301, số vào sổ CS09958 ngày 16 tháng 12 năm 2020) rồi nói với vợ chồng ông T là 02 thửa đất tái định cư ở đường An T 51 đã được cấp sổ và cho vợ chồng ông T xem 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả. Ngày 06 tháng 01 năm 2021, bị cáo C yêu cầu vợ chồng ông T đặt cọc thêm 500.000.000 (năm trăm triệu) đồng.

Bị cáo C tiếp tục đặt làm giả 01 Phiếu hẹn (của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bình Dương đề ngày 19 tháng 01 năm 2021 về việc nhận hồ sơ sửa đổi, bổ sung quyền sử dụng đất và hoàn tất trích lục bản vẽ của Nguyễn Thị Thu C) rồi giao cho ông T để ông T không nghi ngờ. Ngày 07 tháng 02 năm 2021, bị cáo C đưa ông T 01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (số CV566301, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CS09958 ngày 16 tháng 12 năm 2020 mang tên Nguyễn Thị Thu C). Ngày 09 tháng 02 năm 2021, ông T và bị cáo C đem Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này đến Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố TA, tỉnh Bình Dương để làm thủ tục thế chấp vay tiền ngân hàng thì bị lập biên bản tạm giữ.

Sau đó, bị cáo C nhiều lần cam kết trả tiền cọc cho vợ chồng ông T nhưng không thực hiện. Ngày 28 tháng 3 năm 2021, vợ chồng ông T tố cáo bị cáo C.

Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an tỉnh Bình Dương trưng cầu giám định các giấy tờ, chữ ký liên quan đến giao dịch của bị cáo C với vợ chồng ông T. Tại Kết luận giám định số 238/GĐ-PC09 ngày 05 tháng 6 năm 2021, Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Dương xác định: 01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CV566301, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CS09958 ngày 16 tháng 12 năm 2020 mang tên Nguyễn Thị Thu C là giả bằng phương pháp in phun màu điện tử. Tại Kết luận giám định số 299/GĐ-PC09 ngày 15 tháng 7 năm 2021, Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Dương xác định chữ ký, chữ viết, dấu vân tay mang tên Nguyễn Thị Thu C dưới mục Bên A trên 04 hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất đề ngày 15 tháng 5 năm 2020, 30 tháng 11 năm 2020, 16 tháng 12 năm 2020 và trên 05 giấy cam kết đề ngày 05, 09 tháng 02, 01 tháng 3 năm 2021 (do ông Đinh Tiến T nộp) là do bị cáo C viết, ký và in ra.

Tổng cộng bị cáo C nhận của vợ chồng ông T 1.330.000.000 (một tỷ, ba trăm ba mươi triệu) đồng.

Bị cáo C giao dịch với bà Trần Thị L1:

Ngày 06 tháng 6 năm 2020, bị cáo C thỏa thuận chuyển nhượng 02 thửa đất tái định cư tại phường AT (thành phố TA, tỉnh Bình Dương) cho bà L1 với giá 3.000.000.000 (ba tỷ) đồng, nhận tiền cọc 200.000.000 (hai trăm triệu) đồng. Bà L1 yêu cầu bị cáo C làm thủ tục hợp thửa, sang tên để bà thế chấp vay tiền ngân hàng trả tiền cho bị cáo C. Bị cáo C đặt làm giả 01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CV566352 cấp ngày 16 tháng 12 năm 2020 mang tên Trần Thị L1. Ngày 20 tháng 01 năm 2021, bị cáo C giao giấy giả trên cho bà L1 và yêu cầu đặt cọc thêm 300.000.000 (ba trăm triệu) đồng. Tổng số tiền bị cáo C nhận của bà L1 là 500.000.000 (năm trăm triệu) đồng. Ngày 21 tháng 6 năm 2021, bà L1 phát hiện giấy tờ bị cáo C đưa là giả nên tố cáo bị cáo C.

Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an tỉnh Bình Dương trưng cầu giám định các giấy tờ, chữ ký liên quan đến giao dịch của bị cáo C với bà L1. Tại Kết luận giám định số 307/GĐ-PC09 ngày 24 tháng 7 năm 2021, Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Dương xác định: 01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CV566352 do bà Trần Thị L1 đứng tên là giả; chữ ký, chữ viết Nguyễn Thị Thu C dưới mục “Bên bán” trên “Giấy nhận cọc” không đề ngày, tháng, năm và chữ ký, chữ viết và dấu vân tay mang tên Nguyễn Thị Thu C trên 01 “Giấy biên nhận đặt cọc” đề ngày 20 tháng 01 năm 2021 (do bà Trần Thị L1 nộp) là do bị cáo C ký, viết, in ra.

Bị cáo C giao dịch với bà Liêu Mỹ T1:

Ngày 01 tháng 10 năm 2020, bị cáo C thỏa thuận chuyển nhượng 03 thửa đất tái định cư tại đường TKH (phường AT, thành phố TA, tỉnh Bình Dương) cho bà T1 với giá 5.300.000.000 (năm tỷ, ba trăm triệu) đồng, đưa bà T1 xem 02 quyết định về việc giao đất (do bị cáo C đặt làm giả Quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố TA đề ngày 28 tháng 9 năm 2020, thể hiện nội dung giao cho bị cáo C 03 nền tái định cư tại Khu tái định cư HL, phường AT, thành phố TA, tỉnh Bình Dương) và được bà T1 đặt cọc 500.000.000 (năm trăm triệu) đồng. Sau đó, bị cáo C đặt làm giả và giao cho bà T1 01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (số CV566301, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CS09957 ngày 16 tháng 12 năm 2020 mang tên Nguyễn Thị Thu C). Ngày 06 tháng 01 năm 2021, bị cáo C thỏa thuận chuyển nhượng cho bà T1 140m2 đất (thửa số 1856, tờ bản đồ số 13, tại phường PH, thành phố TDM, tỉnh Bình Dương do bị cáo C đứng tên), cho bà T1 xem 01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (do bị cáo C đặt làm giả số CV566301, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CS07628 ngày 18 tháng 3 năm 2020) và được bà T1 giao 1.100.000.000 (một tỷ, một trăm triệu) đồng tiền đặt cọc.

Sau đó, bị cáo C không ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất như cam kết mà khất hẹn nhiều lần, bị bà T1 đòi tiền đặt cọc nên đã trả bà T1 700.000.000 (bảy trăm triệu) đồng, còn 900.000.000 (chín trăm triệu) đồng chưa trả. Ngày 08 tháng 5 năm 2021, bà T1 tố cáo bị cáo C.

Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an tỉnh Bình Dương trưng cầu giám định các giấy tờ, chữ ký liên quan đến giao dịch của bị cáo C với bà T1. Tại Kết luận giám định số 318/GĐ-PC09 ngày 23 tháng 7 năm 2021, Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Dương xác định: 01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (số CV566301, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CS09957 ngày 16 tháng 12 năm 2020 tên Nguyễn Thị Thu C là giả được làm bằng phương pháp in phun màu điện tử; chữ ký, chữ viết, dấu vân tay mang tên Nguyễn Thị Thu C và chữ viết mặt sau trên 02 Giấy biên nhận đặt cọc đề ngày 01 tháng 10 năm 2020, 06 tháng 01 năm 2021 (do bà Liêu Mỹ T1 nộp) là do bị cáo C viết, ký và in ra. Tại Kết luận giám định số 157/GĐ-PC09 ngày 04 tháng 4 năm 2022, Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Dương xác định: 01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (số CV566301, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CS07628 ngày 18 tháng 3 năm 2020 tên Nguyễn Thị Thu C) là giả được làm bằng phương pháp in phun màu điện tử. Tại Kết luận giám định số 266/GĐ-PC09 ngày 13 tháng 6 năm 2022, Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Dương xác định: chữ viết tại mục “Số vào sổ cấp GCN”, “Bình Dương, ngày, tháng, năm” trên 04 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả là của bị cáo C; hình dấu tròn Sở Tài nguyên và Môi trường trên 01 Phiếu hẹn ngày 19 tháng 01 năm 2021 (do ông Đinh Tiến T nộp) là giả.

Tại Cáo trạng số 121/CT-VKSBD-P1 ngày 27 tháng 9 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Thị Thu C về các tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 và các điểm a, b khoản 3 Điều 341 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 50/2023/HS-ST ngày 23/5/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương đã quyết định:

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm a khoản 3 Điều 341; các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 55 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thu C 14 (mười bốn) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và 04 (bốn) năm tù về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”, tổng hợp hình phạt của 02 (hai) tội buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung là 18 (mười tám) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 14 tháng 10 năm 2021.

Ngoài ra Bản án sơ thẩm còn Quyết định về ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo về việc bị cáo đồng ý bồi thường cho các bị hại, về lãi suất chậm thi hành án, về án phí hình sự sơ thẩm và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

- Ngày 01/6/2023 bị cáo Nguyễn Thị Thu C có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Nguyễn Thị Thu C vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo vì hoàn cảnh gia đình bị cáo rất khó khăn, mẹ già, con còn nhỏ và không có nhà ở. Bị cáo thừa nhận Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xử phạt bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” là đúng, không oan.

- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau: Việc thực hiện quy định pháp luật tố tụng hình sự của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng được đảm bảo, đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Thu C đúng hình thức và trong thời hạn luật định, đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.

Về nội dung kháng cáo: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 355, 356 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên toàn bộ bản án sơ thẩm số 50/2023/HS-ST ngày 23/5/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương.

Luật sư Nguyễn Hồng N bào chữa cho bị cáo trình bày ý kiến tranh luận: Đồng ý với ý kiến và quan điểm của Kiểm sát viên tuy nhiên, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ sau đây. Bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, đã trả cho bị hại Liêu Mỹ T1 700.000.000 đồng để khắc phục thiệt hại, hoàn cảnh gia đình bị cáo rất khó khăn, bị cáo đang nuôi mẹ già và con nhỏ nhưng không có chỗ ở. Để thể hiện chính sách khoan hồng và nhân đạo đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Thu C đảm bảo đúng hình thức và trong thời hạn luật định, đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Xét nội dung kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Thu C Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy: Bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương đã xem xét và áp dụng đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo. Mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo về 2 tội là tương xứng với tính chất, mức độ vi phạm và hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây nên. Tại giai đoạn phúc thẩm, bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ hình phạt mới. Vì vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm, không có căn cứ chấp nhận yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo và luận cứ của Luật sư bào chữa cho bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh là có căn cứ nên Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận.

[3] Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự.

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Thu C, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 50/2023/HS-ST ngày 23/5/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương.

2. Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm a khoản 3 Điều 341; các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 55 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thu C 14 (mười bốn) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và 04 (bốn) năm tù về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”, tổng hợp hình phạt của 02 (hai) tội buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung là 18 (mười tám) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 14 tháng 10 năm 2021.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 135; Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Thị Thu C phải nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng áp phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

23
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 698/2023/HS-PT

Số hiệu:698/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về