Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 67/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 67/2023/HS-PT NGÀY 07/09/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

 Ngày 07 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 110/2023/TLPT-HS ngày 03 tháng 8 năm 2023 đối với bị cáo Trịnh Minh Đ do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 54/2023/HS-ST ngày 26 tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình.

- Bị cáo có kháng cáo: Trịnh Minh Đ sinh năm 1998 tại tỉnh Thái Bình; nơi cư trú: thôn Duyên H, xã Đ K, huyện Đ H, tỉnh Thái Bình; quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; giới tính: nam; Tôn giáo: không; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; con ông Trịnh Minh S (đã chết) và bà Thái Thị Th; chưa có vợ, con; tiền án: không; tiền sự: không. Bị áp dụng biện pháp ngăn chặn bằng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt tại phiên tòa.

Trong vụ án còn có bị hại - anh Dương Xuân T; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Mạnh T không có kháng cáo nên Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 08/3/2023, bị cáo Trịnh Minh Đ truy cập vào mạng xã hội Facebook thì đọc được 01 bài viết trên nhóm “VGA siêu rẻ VN-chợ PC&Gaming Gear” có nội dung đăng bán Case máy tính với đầy đủ thông tin kỹ thuật của máy. Đ nẩy sinh ý định sao chép bài viết này rồi đăng lại lên nhóm lừa bán cho người có nhu cầu mua để chiếm đoạt tiền. Đ đổi tên tài khoản Facebook của mình thành “FuFu” và sao chép thông tin kỹ thuật của Case máy tính rồi đăng bài trên nhóm. Tối cùng ngày, anh Dương Xuân T nhắn tin hỏi mua Case mà Đ đã đăng tin. Thấy có người mua nên Đ đã hỏi tìm mua Case máy tính mà không còn. Ngày 09/3/2023, Đ tìm được bài viết của tài khoản Facebook có tên “Nguyễn Mạnh T” đăng bán Case máy tính. Đ sử dụng tài khoản Zalo có tên “Style” đăng ký bằng số điện thoại: 03840856xx để kết bạn qua Zalo với tài khoản có tên “Nguyễn Mạnh T” của anh T để nhắn tin trao đổi mua bán Case máy tính của anh T, hai bên thỏa thuận giá Case máy tính là 9.050.000 đồng. Sau khi anh T gửi qua tin nhắn Zalo cho Đ về các thông tin kỹ thuật của Case máy tính và giá tiền, thì Đ đã sao chép lại thông tin rồi gửi cho anh T và báo giá bán Case máy tính là 7.600.000 đồng, anh T đồng ý và yêu cầu giao hàng đến địa chỉ số 187 Giảng V, quận Đống Đ, thành phố Hà Nội, hai bên thỏa thuận ngay sau khi kiểm tra Case máy tính anh T sẽ chuyển trả tiền hàng qua tài khoản cho Đ. Sau đó, Đ gửi địa chỉ của anh T cho anh T và bảo anh T chuyển Case máy tính Đ đã đặt mua đến đó và cũng thống nhất với anh T sau khi kiểm tra hàng xong mới thanh toán tiền. Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 09/3/2023, anh T trực tiếp giao Case máy tính cho anh T tại địa chỉ đã được Đ cung cấp. Sau khi kiểm tra Case máy tính xong, anh T đã nhắn tin hỏi Đ số tài khoản để chuyển trả tiền, anh T đã chuyển 7.600.000 đồng đến số tài khoản 0203598989xx mở tại Sacombank mang tên Trịnh Minh Đ. Ngay sau khi nhận được tiền của anh T, Đ đã chặn tài khoản Facebook của anh T và xóa hết các tin nhắn liên quan đến việc mua bán Case máy tính, đồng thời xóa tài khoản Zalo có tên “Style” của Đ.

Theo địa chỉ mà Đ gửi, anh T đã mang Case máy tính đến giao cho anh T. Sau khi anh T kiểm tra Case máy tính xong, anh T yêu cầu anh T thanh toán tiền, anh T nói đã thanh toán tiền qua tài khoản 0203598989xx của Đ, tại ngân hàng Saccombank; anh T và anh T cùng kiểm tra và liên lạc với Đ thì đều không liên lạc được nên anh T không giao Case máy tính cho anh T nữa.

Sau khi nhận được số tiền 7.600.000 đồng của anh T chuyển khoản Đ đã đưa 5.000.000 đồng cho mẹ Đ là bà Thái Thị Th để chi tiêu sinh hoạt, số tiền còn lại Đ tiêu xài cá nhân hết.

Bản án hình sự sơ thẩm số 54/2023/HSST ngày 26 tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình tuyên bố bị cáo Trịnh Minh Đ phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

- Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 174, điểm b, i, s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 50 Bộ luật hình sự.

Tuyên phạt: Bị cáo Trịnh Minh Đ 09 (chín) tháng tù.

Ngoài ra án sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 06/7/2022, bị cáo kháng cáo đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét cho bị cáo được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Bị cáo Đ vẫn giữ nguyên kháng cáo đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm cho bị cáo được hưởng án treo. Bị cáo thừa nhận không có buôn bán gì trong lĩnh vực máy tính, bị cáo là nhân viên vận chuyển hàng thuê nhưng do bị cáo mới đi làm, tiền công rất thấp không đủ chi phí sinh hoạt nên bị cáo đã nghĩ đến cách đi lừa đảo để lấy tiền, ngày 09/3/2023 bị cáo đã lừa đảo, chiếm đoạt của anh T số tiền 7.600.000 đồng. Bị cáo thấy Toà án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 09 (chín) tháng tù là quá nặng vì đây là lần đầu bị cáo phạm tội, bị cáo đã khai báo thành khẩn và đã trả lại hết tiền cho anh T; hoàn cảnh của bị cáo rất khó khăn, bố bị cáo bị mất sớm, mẹ bị cáo đã cao tuổi, thường xuyên đau yếu, hàng ngày chỉ bán rau nên không thể lo được cuộc sống; nếu bị cáo phải đi tù thì không có người chăm lo cho gia đình. Bị cáo mong Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo hưởng án treo.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình sau khi phân tích toàn bộ nội dung vụ án, xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo kháng cáo, xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân cũng như nội dung kháng cáo của bị cáo Đ đã đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự, chấp nhận kháng cáo của bị cáo xử cho bị cáo được hưởng án treo.

Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo nói lời sau cùng: Bản án sơ thẩm xét xử bị cáo đã đúng người đúng tội nên bị cáo chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ, nhân thân của bị cáo, cho bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: Kháng cáo của bị cáo Trịnh Minh Đ nằm trong thời hạn luật định nên được xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Bị cáo Trịnh Minh Đ không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ, bị cáo thành khẩn khai báo, tự nguyện bồi thường thiệt hại, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo là người có nhân thân tốt, bị cáo không có tiền án, tiền sự, phạm tội ít nghiêm trọng, có nơi cư trú rõ ràng. Vì vậy, việc áp dụng hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội như Bản án sơ thẩm đã tuyên là không cần thiết mà cho bị cáo được hưởng án treo đối với bị cáo cũng đủ điều kiện giáo dục, cải tạo bị cáo đồng thời thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của Đảng và nhà nước ta.

[3] Từ những căn cứ trên, Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự, chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trịnh Minh Đ; sửa bản án sơ thẩm về phần hình phạt đối với bị cáo Trịnh Minh Đ, giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo.

[4] Về án phí: kháng cáo đươc chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm [5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015:

1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trịnh Minh Đ sửa bản án sơ thẩm 54/2023/HSST ngày 26 tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình về phần hình phạt đối với bị cáo Trịnh Minh Đ như sau:

- Áp dụng khoản 1 Điều 174; các điểm b, i, s khoản 1 Điều 51, Điều 50, Điều 65 Bộ luật Hình sự.

- Xử phạt bị cáo Trịnh Minh Đ 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách là 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm 07/9/2023; về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Giao bị cáo Trịnh Minh Đ cho Uỷ ban nhân dân xã Đ K, huyện Đ H, tỉnh Thái Bình giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đang cho hưởng án treo.

2. Về án phí: Áp dụng điểm d khoản 2 Điêu 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án: bị cáo Trịnh Minh Đ không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án 07/9/2023./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

26
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 67/2023/HS-PT

Số hiệu:67/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về