Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 664/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 664/2023/HS-PT NGÀY 13/09/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

 Ngày 13 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 231/2023/TLPT-HS ngày 07 tháng 4 năm 2023 đối với bị cáo Nguyễn Thị Bích T. Do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Bích T đối với Bản án Hình sự sơ thẩm số 48/2023/HS-ST ngày 21 tháng 02 năm 2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị cáo có kháng cáo, không bị kháng cáo, không bị kháng nghị: Nguyễn Thị Bích T; giới tính: nữ; sinh năm 1973 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi đăng thường trú: A đường C, Phường I, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở lúc phạm tội: Số D đường P, Phường I, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở hiện nay: Số A, đường B, phường B, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Nguyễn Hữu L và bà Hoàng Thị T1; C là Mai Văn T2 và có 2 người con, đứa lớn sinh năm 2005, đứa nhỏ sinh năm 2013; Tiền án, tiền sự: Không; Bị tạm giam từ ngày 21/01/2022 đến 12/5/2022 thay đổi bằng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú” (có mặt).

- Người bào cha cho bị cáo: Bà Nguyễn Thị T3 là Luật sư của Công ty L1 thuộc Đoàn Luật sư Thành phố H (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do làm ăn thua lỗ, Nguyễn Thị Bích T bị nhiều người đòi nợ, nên khi bà Võ Thị H nhờ T tìm mua nền đất thì T nảy ý định lừa bán đất của người khác cho bà H, để lấy tiền trả nợ và tiêu xài.

Khoảng tháng 7/2018, T dẫn bà H đến thửa đất số 361, thuộc tờ bản đồ số 12, tại địa chỉ xã B, huyện B nay thuộc phường B, quận B của ông Đỗ Ngọc K và bà Trần Thị B, T nói đây là đất của Công ty đã lên sơ đồ để phân lô tách thửa nhưng chưa cắm cọc phân lô và dự kiến sẽ mở đường nhựa rộng 5 mét. T đưa bà H xem “Sơ đồ phân lô đất - Hồng Ký 2” và nói đã mua 02 lô đất ký hiệu B36 và B37, diện tích mỗi lô là 4 m x 14m. T nói nếu bà H mua sẽ bán lại cho 01 lô với giá 650.000.000 đồng, hình thức mua bán là ký hợp đồng “Giấy tay” và lập Vi bằng việc giao nhận tiền. Sau khi thương lượng thì bà H đồng ý mua lô B36, với giá 620.000.000 đồng.

Ngày 12/7/2018, tại Chi nhánh Văn phòng T4, bà H giao cho T 620.000.000 đồng, có lập Vi bằng số 6867/2018/VB-TPLQ5 về việc bà H giao tiền cho T và hai bên ký Văn bản thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

Ngày 21/7/2018, T thế chấp Vi bằng số 7076/2018/NVB-TPLQ5 ngày 19/7/2018, về việc bà T đã nhận chuyển nhượng lô đất B37 trong “Sơ đồ phân lô đất - Hồng Ký 2” từ bà Nguyễn Thị X với số tiền 700.000.000 đồng để vay 300.000.000 đồng của bà H, thời hạn 01 năm, lãi suất 1%/tháng. Do tin tưởng vào lời nói của T và tin tưởng tờ Vi bằng là thật nên bà H đồng ý cho T vay 300.000.000 đồng, T viết “Giấy mượn tiền” và đưa bà H giữ tờ Vi bằng trên. Sau khi vay, T trả tiền lãi cho bà H được 03 lần (02 tháng/lần), với số tiền là 18.000.000 đồng, sau đó không trả tiền gốc và lãi cho bà H.

Đến tháng 5 năm 2019, bà H đến lô đất đã mua của T để chuẩn bị cắm cọc thì gặp ông Đỗ Ngọc K và ông K nói cho bà biết lô đất trên là của ông. Bà H về hỏi lại T thì T thừa nhận lô đất mà T đã bán và thế chấp cho bà H không phải là đất của T. Bà H yêu cầu T trả lại 920.000.000 đồng, nhưng T chỉ hứa hẹn, viết giấy cam kết mà không trả nên bà H làm đơn tố cáo T đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố H.

Trong giai đoạn điều tra, ông Mai Văn T2 là chồng của T đã trả cho bà H được 620.000.000 đồng, số tiền còn lại 300.000.000 đồng bà H tự thỏa thuận với gia đình T, nên bà không yêu cầu bồi thường và có đơn xin bãi nại.

Tại Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, theo điểm a khoản 4 Điều 174 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại Bản án Hình sự sơ thẩm số 48/2023/HS-ST ngày 21 tháng 02 năm 2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên xử:

Căn cứ vào điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Xử phạt: Nguyễn Thị Bích T 13 (Mười ba) năm tù, về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án, được trừ thời gian đã bị tạm giam, từ ngày 21/01/2022 đến 12/5/2022.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn giải quyết các vấn đề liên quan án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 28 tháng 02 năm 2023, bị cáo Nguyễn Thị Bích T làm đơn kháng cáo, nêu lý do: Bản án sơ thẩm xét xử bị cáo 13 năm tù giam là quá nặng, xin được xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thm:

Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã nhận định. Tuy nhiên, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết hoàn cảnh gia đình khó khăn để xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Bị cáo vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Luật sư bào chữa cho bị cáo cho rằng, thống nhất không tranh luận về tội danh vì bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bồi thường toàn bộ số tiền đã chiếm đoạt. Ngoài ra, bị cáo rất khó khăn, có con nhỏ, chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu, bản thân bị cáo bị bệnh tiểu đường; cấp sơ thẩm không áp dụng Điều 54 của Bộ luật Hình sự là có thiếu sót. Đề nghị Hội đồng xét xử xét xử bị cáo mức án từ 7 năm đến dưới 12 năm tù.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm:

Về thủ tục tố tụng: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án, Tòa án cấp phúc thẩm đã thực hiện đầy đủ theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017), những người tham gia phiên tòa cũng đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình theo luật định.

Về nội dung: cấp sơ thẩm xét xử bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục kháng cáo: Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 28 tháng 02 năm 2023, bị cáo Nguyễn Thị Bích T có làm đơn kháng cáo. Xét đơn kháng cáo của bị cáo làm và nộp trong thời hạn luật định nên được xét xử theo thủ tục phúc thẩm theo quy định tại các Điều 331, Điều 332, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Về nội dung giải quyết yêu cầu kháng cáo:

[2.1] Bị cáo Nguyễn Thị Bích T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung của Bản cáo trạng đã truy tố và bản án sơ thẩm đã quy kết, trình bày của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thể hiện như sau:

Do có ý định chiếm đoạt tài sản của bị hại Vố Thị H nên bị cáo đã có hành vi gian dối, đưa các thông tin sai lệch về 02 lô đất mà bị cáo bán và thế chấp cho bị hại, làm cho bị hại tin tưởng 02 lô đất trên là của bị cáo, nên đã mua một lô với số tiền 620.000.000 đồng, nhận thế chấp một lô khác với số tiền 300.000.000 đồng và bị cáo đã chiếm đoạt của bà H tổng số tiền là 920.000.000 đồng.

[2.2] Đối chiếu với trường hợp phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi của bị cáo Nguyễn Thị Bích T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” tội phạm và hình phạt quy định tại Điều 174 của Bộ luật Hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Nguyễn Thị Bích T theo điểm a khoản 4 Điều 174 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu về tài sản của người khác, gây mất an ninh, trật tự tại địa phương, ảnh hưởng đến kinh tế gia đình cho nhiều người, vì thế cần thiết phải xử lý nghiêm để răn đe giáo dục bị cáo đồng thời làm gương cho người khác.

[2.3] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo với lý do: bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã tác động gia đình khắc phục toàn bộ hậu quả cho bị hại, phía bị hại cũng có đơn xin bãi nại. Xét thấy, các tình tiết này đã được Tòa án cấp sơ thẩm xem xét, áp dụng cho bị cáo và mức hình phạt mà cấp sơ thẩm đã tuyên phạt bị cáo là tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, không nặng. Bởi lẽ, bị cáo có một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 2 lần trở lên”, nên không có căn cứ để áp dụng khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự như luật sư đề nghị.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo kháng cáo nhưng cũng không cung cấp được chứng cứ gì đặc biệt mới nên không có cơ sở chấp nhận.

[3] Xét thấy đề nghị của Kiểm sát viên là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[4] Về án phí Hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận, nên bị cáo Nguyễn Thị Bích T phải chịu án phí theo luật định.

[5] Các phần nội dung khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật thi hành.

Bởi các lẽ trên, Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

QUYẾT ĐỊNH

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Bích T về việc xin giảm nhẹ hình phạt.

Giữ nguyên Bản án Hình sự sơ thẩm số 48/2023/HS-ST ngày 21 tháng 02 năm 2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Tuyên xử:

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Bích T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017):

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị Bích T 13 (mười ba) năm tù, về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án, được trừ thời gian đã bị tạm giam, từ ngày 21/01/2022 đến 12/5/2022.

2. Về án phí hình sự phúc thẩm: Áp dụng các Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 2 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Thị Bích T chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng.

3. Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

108
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 664/2023/HS-PT

Số hiệu:664/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:13/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về