Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 65/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 3, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 65/2023/HS-ST NGÀY 22/08/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 8 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 65/TLST-HS ngày 17 tháng 7 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 67/2023/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 8 năm 2023 đối với bị cáo:

ĐẶNG NGỌC Q, Giới tính: Nam; sinh năm 1991; Nơi sinh: Bình Định; Nơi cư trú: 184/40 Nguyễn Văn Lượng, Phường 17, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đặng Đình P và bà Lê Thị L; vợ Nguyễn Thái N sinh năm 1991 (đã ly hôn), con Đặng Mai K sinh năm 2018; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo tạm giữ, tạm giam từ ngày 07/10/2022 (Bị cáo có mặt) 

Bị hại:

1. Ông Nguyễn Văn Q, sinh năm 1996 HKTT: Thôn 7, xã E, huyện Cư Kuin, Đắk Lắk Chỗ ở: 400/2A Lê Văn Sỹ, Phường 14, Quận 3, Tp. Hồ Chí Minh (có mặt)

2. Bà Nguyễn Mỹ H, sinh năm 1998 Địa chỉ: 236 C, Phường 26, quận Bình Thạnh, Tp. Hồ Chí Minh (vắng mặt)

3. Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1997 Địa chỉ: 29H Khu phố B, phường B, Thuận An, Bình Dương (vắng mặt) Minh.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Công ty TNHH Dịch vụ Cầm đồ HQ Trụ sở: 390/22 Phan Huy Ích, Phường 12, quận Gò Vấp, TP. Hồ Chí Minh Người đại diện theo pháp luật: Bà Hoàng Thị Q Địa điểm kinh doanh: 155 đường Đ, Phường 14, quận Gò Vấp, Tp. Hồ Chí (vắng mặt)

2. Bà Nguyễn Thị X, đại diện hộ kinh doanh dịch vụ cầm đồ Hùng T Địa chỉ: 252 Nguyễn Văn Khối, Phường 9, quận Gò Vấp, TP. Hồ Chí Minh (vắng mặt)

3. Ông Trịnh Tuấn A - Dịch vụ cầm đồ Vân Anh 28 Địa chỉ: Số 48/3 đường H, phường Thạnh Xuân, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh.

(vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do cần tiền tiêu xài, trả nợ, bị cáo ĐẶNG NGỌC Q nảy sinh ý định chiếm đoạt xe máy của những người quen bằng thủ đoạn giả vờ mượn xe máy để đi công việc, sau đó đem xe máy đi cầm, bán lấy tiền. Trong khoảng thời gian từ ngày 16/11/2021 đến ngày 30/9/2022, bị cáo Q đã nhiều lần thực hiện việc việc chiếm đoạt tài sản với thủ đoạt trên cụ thể như sau:

Vào ngày 16/11/2021, bị cáo ĐẶNG NGỌC Q và bạn là anh Nguyễn Văn Quảng đi công việc sau đó cả hai đi ăn uống. Trong lúc ăn uống bị cáo Q nghe Quảng nói còn 2 chiếc xe máy để ở nhà, lúc này bị cáo Q nảy sinh ý định chiếm đoạt xe máy của Quảng bán lấy tiền trả nợ và tiêu xài nên giả vờ hỏi mượn xe làm phương tiện đi lại thì Quảng tin tưởng và đồng ý cho mượn. Đến 22 giờ ngày 16/11/2021, bị cáo Q điều khiển xe máy hiệu Honda Blade biển số 47T1-X của Quảng chở Quảng về nhà tại số 302/6B Lê Văn Sỹ, Phường 14, Quận 3 rồi Quảng giao xe và giấy đăng ký xe cho Q sử dụng. Sau đó, bị cáo Q điều khiển xe biển số 47T1-X chạy thẳng đến tiệm cầm đồ Hoàng Quỳnh số 155 Phạm Văn Chiêu, Phường 14, quận Gò Vấp cầm cho anh Đặng Xuân T lấy 8.000.000 đồng trả nợ, tiêu xài hết. Ngày 07/12/2021, bị cáo Q hẹn gặp Quảng tại 49 Nguyễn Văn Lượng, tại đây bị cáo Q có viết cam kết cho Quảng hẹn ngày 13/12/2021 sẽ trả lại chiếc xe máy biển số 47T1 - X cùng với số tiền mượn trước đó là 20.000.000 đồng. Ngày 14-15/12/2021, bị cáo Q chuyển khoản trả cho Quảng 12.000.000 đồng trong số tiền nợ 20.000.000 đồng rồi bỏ trốn, không liên lạc với Quảng nữa.

Sau đó, bị cáo Q đăng lên trang mạng chợ tốt bán chiếc xe biển số 47T1-X thì có 02 người thanh niên (chưa rõ lai lịch) liên lạc muốn mua xe. Bị cáo Q hẹn gặp hai người thanh niên và dẫn đến tiệm cầm đồ gặp anh Đặng Xuân Thời chuộc xe và đóng tiền lời hơn 8.000.000 đồng xong đem xe ra bán lại cho 02 người thanh niên với giá 8.500.000 đồng.

Ngày 25/9/2022, bị cáo Q điều khiển xe gắn máy hiệu Honda Vision biển số: 71C1-X chở chị Nguyễn Mỹ Hiền (làm cùng công ty bất động sản Hải P, địa chỉ 57 đường số 4, phường Hiệp Bình Phước, TP. Thủ Đức) về nhà chị Hiền tại 236 C, phường 26, quận Bình Thạnh. Do có ý định chiếm đoạt chiếc xe máy của chị Hiền từ trước nên bị cáo Q cũng giả vờ hỏi mượn chiếc xe Honda Vision biển số: 71C1-X của chị Hiền để đi công việc, chị Hiền tin tưởng giao xe và Giấy đăng ký xe gắn máy cho bị cáo Q sử dụng. Ngày 28/9/2022, bị cáo Q đem chiếc xe Honda Vision biển số: 71C1-X đến tiệm cầm đồ “Hùng Tín” tại số 252 Nguyễn Văn Khối, Phường 9, quận Gò Vấp gặp nhân viên Nguyễn Lý Hùng cầm được 23.000.000 đồng trả nợ và tiêu xài cá nhân hết rồi bỏ trốn.

Ngày 30/9/2022, bị cáo ĐẶNG NGỌC Q giả vờ hỏi mượn anh Nguyễn Văn T (là người làm cùng công ty bất động sản Hải P) chiếc xe máy hiệu Honda Vision biển số 78F-X đi công việc. Sau đó, Q đem xe đến tiệm cầm đồ Vân Anh 28 số 48/3 Hà Huy Giáp, phường Thạnh Xuân, Quận 12 bán cho Trịnh Tuấn A với giá 22.000.000 đồng. Số tiền bán xe bị cá Q tiêu xài và trả nợ hết.

Quá trình điều tra, bị cáo ĐẶNG NGỌC Q đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên, phù hợp với toàn bộ tài liệu, chứng cứ được thu thập trong hồ sơ vụ án.

Ngoài 03 vụ án nêu trên, bị cáo ĐẶNG NGỌC Q còn khai nhận vào ngày 01/10/2022, Q có mượn chiếc xe máy hiệu Honda Vision biển số 47F1-27104 của chị Nguyễn Thị Nương, là người làm cùng công ty để thế chấp cho Nguyễn Hoài Bảo lấy 3.000.000 đồng. Tuy nhiên, đối với vụ việc này chị Nương và bị cáo Q đã thỏa thuận về thời gian trả xe là ngày 06/10/2022. Ngày 03/10/2022, chị Nương đã nhận lại được xe máy của mình và không yêu cầu xử lý hình sự đối với bị cáo Q.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 26/KL-HĐĐGTS ngày 01/4/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Quận 3, xác định: Chiếc xe Honda Blade biển số 47T1 - X thời điểm tháng 11/2021 trị giá 13.400.000 đồng.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 241/KL-HĐĐGTS ngày 14/11/2022 của Hội đồng định giá tài sản quận Bình Thạnh, xác định: Chiếc xe Honda Vision biển số: 71C1-X thời điểm tháng 09/2022 trị giá 40.000.000 đồng.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 421/KL-HĐĐGTS ngày 11/11/2022 của Hội đồng định giá tài sản Thành phố Thủ Đức, xác định: Chiếc xe Honda Vision biển số 78F-X vào thời điểm tháng 9/2022 trị giá 33.000.000 đồng.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại chị Nguyễn Mỹ H đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường; Bị hại anh Nguyễn Văn T đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường. Bị cáo Q đã tác động nhờ gia đình bồi thường cho: Bị hại ông Nguyễn Văn Q số tiền 13.400.000 đồng và ông Quảng có đơn xin bãi nại cho bị cáo; Bồi thường cho bà Nguyễn Thị X - đại diện Hộ kinh doanh Dịch vụ Cầm đồ Hùng T số tiền 23.000.000 đồng; Bồi thường ông Trịnh Tuấn A - Dịch vụ cầm đồ Vân Anh 28 số tiền 20.000.000 đồng Tại bản Cáo trạng số 65/CT-VKS-Q3 ngày 10 tháng 7 năm 2023 Viện kiểm sát nhân dân Quận 3 đã truy tố bị cáo ĐẶNG NGỌC Q về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, Bị cáo ĐẶNG NGỌC Q có lời khai phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra và những tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo thừa nhận Cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người đúng tội. Lời nói sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Ngoài ra bị cáo trình bày thêm, do nợ nần quá túng quẩn nên bị cáo đã làm liều giả vờ mượn xe rồi đem đi cầm, bán để chiếm đoạt. Sau khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo rất hồi hận và đã tác động nhờ gia đình bị cáo bồi thường cho các bị hại và nhưng người liên quan toàn bộ thiệt hại.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 3 vẫn giữ nguyên quan điểm như Cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo ĐẶNG NGỌC Q từ 03 (ba) năm đến 04 (bốn) năm tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Quá trình điều tra, truy tố Cơ quan điều tra Công an Quận 3, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 3, kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự và thủ tục theo đúng quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tố tụng cũng như người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều là hợp pháp.

[2] Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở kết luận:

Do cần tiền tiêu xài và trả nợ, bị cáo ĐẶNG NGỌC Q đã có ý định chiếm đoạt xe máy của những người quen bằng thủ đoạn giả vờ mượn xe đi công việc, sau đó đem xe đi cầm hoặc bán lấy tiền. Trong khoảng thời gian từ ngày 16/11/2021 đến ngày 30/9/2022, bị cáo Q đã nhiều lần thực hiện việc việc chiếm đoạt tài sản với thủ đoạn này, cụ thể:

Ngày 16/11/2021, Q giả vờ mượn xe Honda Blade biển số 47T1-X (trị giá 13.400.000 đồng) của ông Nguyễn Văn Quảng rồi đem đi cầm được 8.000.000 đồng tiêu xài hết; Ngày 25/9/2022, Q giả vờ mượn xe gắn máy hiệu Honda Vision biển số 71C1-X (trị giá 40.000.000 đồng) của bà Nguyễn Mỹ Hiền (làm cùng công ty), sau khi được bà Hiền tin tưởng giao xe cho mượn cùng Giấy đăng ký xe Q đem chiếc xe này đi cầm được 23.000.000 đồng đem trả nợ và tiêu xài hết; Ngày 30/9/2022, ĐẶNG NGỌC Q lại tiếp tục mượn ông Nguyễn Văn T (là người làm cùng công ty) chiếc xe máy hiệu Honda Vision biển số 78F-X (trị giá 33.000.000 đồng) đem bán với giá 22.000.000 đồng rồi trả nợ và tiêu xài hết.

Với các hành vi như đã nêu trên, bị cáo ĐẶNG NGỌC Q đã phạm vào tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại c khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[3] Bị cáo Q có năng lực trách nhiệm hình sự, ý thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn cố thực hiện là lỗi cố ý.

[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an xã hội nên cần phải xử lý nghiêm để giáo dục, răn đe đối với bị cáo và phòng ngừa chung đối với xã hội.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Xét, trong vụ án này bị cáo 03 lần thực hiện các hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản đối với các bị hại. Do đó, cần áp dụng tình tiết tăng nặng “Phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo là phù hợp.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã tác động để gia đình bồi thường toàn bộ thiệt hại và được bị hại có đơn bãi nại. Nên khi lượng hình cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b-s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

[7] Về trách nhiệm dân sự:

Bà Nguyễn Mỹ H và ông Nguyễn Văn T đã nhận lại tài sản. Bị cáo Q cũng đã tác động để gia đình bồi thường cho ông Nguyễn Văn Q số tiền 13.400.000 đồng và ông Quảng có đơn xin bãi nại cho bị cáo; Bồi thường cho bà Nguyễn Thị X - đại diện Hộ kinh doanh Dịch vụ Cầm đồ Hùng T số tiền 23.000.000 đồng; Bồi thường ông Trịnh Tuấn A - Dịch vụ cầm đồ Vân Anh 28 số tiền 20.000.000 đồng. Sau khi nhận tài sản, các đương sự trong vụ án cũng không có bất cứ yêu cầu gì thêm nên trong vụ án này nên Tòa án không phải xem xét về phần trách nhiệm dân sự.

[8] Đối với 01 điện thoại di động hiệu Iphone 5S, màu xám, số Imel 355674073309802 thu giữ của bị cáo Q đây là phương tiện liên quan đến việc thực hiện hành vi phạm tội nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

[9] Đối với đối tượng Đặng Xuân T, Nguyễn Lý H, Trịnh Tuấn A, Nguyễn Hoài Bảo không biết xe máy mà Q đem cầm, thế chấp, bán là tài sản do phạm tội mà có nên Cơ quan điều tra không xử lý hình sự về hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là có căn cứ.

[10] Đối với 02 đối tượng mua lại chiếc xe Honda Blade biển số 47T1- X do không xác định được lai lịch, nên tiếp tục làm rõ và xử lý sau.

[11] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

- Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 50; điểm b- s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52;

điểm c khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tuyên bố bị cáo ĐẶNG NGỌC Q phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” Xử phạt: Bị cáo ĐẶNG NGỌC Q 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 07/10/2022 Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Iphone 5S, màu xám, số Imel 355674073309802 đã qua sử dụng, không kiểm tra máy móc bên trong.

(Theo Quyết định chuyển vật chứng số 10/QĐ-VKS-HS ngày 11/01/2023 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 3) Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo ĐẶNG NGỌC Q phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng);

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Áp dụng Điều 331, Điều 333, Điều 336 và Điều 337 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Bị cáo, bị hại ông Nguyễn Xuân Quảng có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

17
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 65/2023/HS-ST

Số hiệu:65/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 3 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:22/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về