Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 622/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 622/2023/HS-PT NGÀY 28/08/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 302/2023/TLPT-HS ngày 04 tháng 5 năm 2023 đối với bị cáo Phạm Tiến Th, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 12/2023/HS-ST ngày 21 tháng 03 năm 2023 của Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng.

- Bị cáo có kháng cáo:

Phạm Tiến Th, sinh năm 1985; tại Thanh Hóa. Nơi thường trú: Thôn Trung H, xã Ea H, huyện Krông N, tỉnh Đắk Lắk; nơi cư trú: Thôn Đông A, xã Đông T, huyện Lâm H, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Lao động tự do; quốc tịch: Việt Nam; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 12/12; con ông Phạm Văn T, sinh năm 1960 (đã chết) và con bà Trịnh Thị N, sinh năm 1963; vợ Đỗ Thị H, sinh năm 1986; có 03 người con, lớn sinh năm 2013, nhỏ sinh năm 2021; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giam từ ngày 15/07/2021. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Lâm Đồng; có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Lê Công B là Luật sư của Văn phòng luật sư M thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Lâm Đồng; có mặt.

- Ngoài ra, trong vụ án này còn có bị hại và những người tham gia tố tụng khác không kháng cáo và liên quan đến kháng cáo (Tòa án không triệu tập).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do cần tiền tiêu xài và trả nợ cá nhân nên đầu năm 2020, Phạm Tiến Th vào mạng internet tìm kiếm và đặt làm giả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BA 085060, thửa đất số 01, tờ bản đồ số 17, diện tích 7386m2, địa chỉ thôn Tầm X, xã Đông T, huyện Lâm H, tỉnh Lâm Đồng với giá là 13.000.000 (Mười ba triệu) đồng. Mặc dù thời điểm Th làm sổ giả này thì mảnh đất đó vẫn thuộc quyền sở hữu của Th nhưng đang thế chấp cho bà Ngô Thị N.

Sau đó Th gửi hình ảnh bản gốc sổ BA 085060 và cung cấp đầy đủ thông tin qua Zalo, Th yêu cầu phía nhận làm sổ giả ghi trên sổ nội dung chuyển tên từ bà Lê Thị Ngọc H sang tên Phạm Tiến Th tại trang 04 của sổ đất.

Sau khi có được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BA 085060 giả mang tên Phạm Tiến Th, ngày 28/02/2020 Th mang giấy chứng nhận giả này đến nhà bà Đinh Thị Vân A ở thôn Tiền Lâm, xã Đông T, huyện Lâm H đặt vấn đề muốn đổi lại giấy chứng nhận đất của Th mua của vợ chồng ông Công - bà Liên trước đó hiện đang cầm cố cho bà Vân Anh để vay 700 triệu đồng, đồng thời để lại giấy chứng nhận số BA 085060 mang tên Phạm Tiến Th (Th không cho bà Vân A biết giấy chứng nhận số BA 085060 là giả) và vay thêm số tiền 300.000.000 (Ba trăm triệu) đồng. Do tin tưởng Th nên bà Vân A đồng ý trả lại giấy chứng nhận trước đó đã cầm của Th, đồng thời đưa thêm cho Th số tiền 300.000.000 (Ba trăm triệu) đồng và giữ lại giấy chứng nhận giả số BA 085060 mang tên Phạm Tiến Th. Sau đó hai bên viết lại giấy tay thể hiện Th vay của bà Vân Anh số tiền 1.000.000.000 (Một tỷ) đồng và hủy giấy hợp đồng vay 700.000.000đ (Bảy trăm triệu) đồng trước đó.

Tiếp đó tháng 7/2020 Th nhờ Nguyễn Tuyết N, trú tại tổ dân phố Đống Đ, thị trấn Nam B, huyện Lâm H và ông Nguyễn Đức H, trú tại Thôn 3, xã Gia L, huyện Lâm H là người môi giới để bán mảnh đất có giấy chứng nhận giả nêu trên. Bà Nguyễn Tuyết N và ông Nguyễn Đức H giới thiệu và cùng Th dẫn ông Lê Tấn L đi xem lô đất trên. Ông L đồng ý mua lô đất này với giá 3.200.000.000 (Ba tỷ hai trăm triệu) đồng và yêu cầu Th cho xem bản gốc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì Th nói đang nhờ chị Đinh Thị Vân A giữ hộ. Sau đó, Th dẫn ông L cùng bà N, ông H đến nhà bà Vân A thì được bà Vân Anh cho xem bản gốc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BA 085060, ông L thấy đúng như các thông tin mà Th đưa ra, nên tin tưởng và đồng ý đặt cọc số tiền 200.000.000 (Hai trăm triệu) đồng, hai bên có viết giấy tờ tay. Ngày 20/8/2020, ông L cùng Bà Nguyễn Tuyết N, ông Nguyễn Đức H đến nhà Th để trả tiền mua đất theo thỏa thuận. Ông L đã thanh toán số tiền mua đất còn thiếu lại là 3.000.000.000 (Ba tỷ) đồng trong đó đưa tiền mặt trực tiếp là 1.000.000.000 (Một tỷ) đồng và chuyển khoản qua số tài khoản của Th số tiền 2.000.000.000 (Hai tỷ) đồng.

Bà Nguyễn Tuyết N ghi tay một Hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, đồng thời các bên cam kết trong vòng 35 ngày sẽ ra Văn phòng công chứng để làm thủ tục sang tên đổi chủ, sau đó Th cùng vợ là Đỗ Thị Hiền ký vào bên người bán, ông L ký vào bên người mua, còn ông H và bà N ký vào người làm chứng. Ông H, bà N được Th trả 02% phí môi giới tương đương 60.000.000 (Sáu mươi triệu) đồng.

Trong khoảng thời gian chờ làm thủ tục công chứng, ông L liên lạc với Th nhờ làm thủ tục tách Th 07 sổ nhỏ và chuyển 1.000m2 đất nông nghiệp sang đất xây dựng. Biết không thể thực hiện được các yêu cầu của ông L, nhưng Th vẫn đồng ý và tiếp tục nhận thêm tiền của ông L là 384.000.000 (Ba trăm tám mươi bốn triệu) đồng. Tổng cộng số tiền Th chiếm đoạt thông qua việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất và làm thủ tục tách thửa bằng hình thức như đã nêu trên là 3.584.000.000 (Ba tỷ năm trăm tám mươi bốn triệu) đồng. Số tiền này Th đem đi trả nợ và tiêu xài cá nhân (BL 360-363, 437-440).

Vật chứng thu giữ:

- 01 (một) bản gốc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BA 085060 thửa đất số 01, tờ bản đồ số 17, diện tích 7.386m2, địa chỉ: thôn Tầm X, xã Đông Th, huyện Lâm H, tỉnh Lâm Đồng mang tên Phạm Tiến Th đã giám định là giả được lưu trong hồ sơ vụ án (BL 206).

- 01 bản gốc hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 20/8/2020. Nội dung thể hiện Phạm Tiến Th chuyển nhượng cho Lê Tấn L thửa đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BA 085060 với giá 3.200.000.000đ (BL 617C).

- 01 (một) bản gốc Hợp đồng cho vay tiền ngày 20/01/2021, nội dung thể hiện bên vay Phạm Tiến Th, Đỗ Thị H vay của Đinh Thị Vân A số tiền 01 tỷ đồng. Lưu trong hồ sơ vụ án (BL 204).

- 01 (một) tập tài liệu để trong thùng giấy cacton thu giữ khi khám xét chỗ ở của Phạm Tiến Th được lưu trong hồ sơ vụ án (BL 428).

Ngoài ra Cơ quan cảnh sát điều tra còn thu giữ:

- Số tiền 60.000.000đ tiền môi giới do ông Nguyễn Đức H nộp để trả cho người bị hại (BL 406).

- 01 (một) điện thoại di động của bị cáo Phạm Tiến Th đã qua sử dụng nhãn hiệu OPPO, vỏ ngoài có màu trắng, số IMEI 01 là 867764025636153, số IMEI 02 là 867764025636146.

Trách nhiệm dân sự: Đối với bị hại là ông Lê Tấn L yêu cầu bị cáo trả lại toàn bộ số tiền mà bị cáo đã chiếm đoạt. Bị cáo chưa khắc phục số tiền chiếm đoạt. Đối với bị hại là bà Đinh Thị Vân A không yêu cầu bị cáo phải trả lại số tiền đã chiếm đoạt.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 12/2023/HS-ST ngày 21/3/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng đã quyết định:

Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b khoản 3 Điều 341 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

1. Tuyên bố bị cáo Phạm Tiến Th phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức; sử dụng tài liệu giả của cơ quan tổ chức”.

2. Về hình phạt:

- Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Phạm Tiến Th mức án 16 (mười sáu) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

- Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 341 Bộ luật Hình sự; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Phạm Tiến Th mức án 04 (bốn) năm tù về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức; sử dụng tài liệu giả của cơ quan tổ chức”.

Áp dụng Điều 55 của Bộ luật Hình sự, buộc bị cáo Phạm Tiến Th phải chấp hành hình phạt chung cho cho cả hai tội là 20 (hai mươi) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 15/07/2021.

Ngoài ra bản án còn tuyên về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí hình sự và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 03/4/2023 bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Th phố Hồ Chí Minh có quan điểm như sau: Theo trình bày của bị cáo tại phiên toà thì bị cáo là người cung cấp thông tin, để người khác làm giả giấy tờ, nên Toà án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức” và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là đúng tội; bị cáo kháng cáo nhưng tại cấp phúc thẩm không cung cấp được tài liệu mới để làm căn cứ giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử bác đơn kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên mức án sơ thẩm.

Luật sư bào chữa cho bị cáo cho rằng: Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, trong đó có tình tiết gia đình có công Cách Mạng, bị hại Vân A có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, Toà án cấp sơ thẩm chưa áp dụng, đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo nhất trí với lời bào chữa của vị luật sư, không tham gia tranh tụng thêm. Bị cáo có lời nói sau cùng mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Đơn kháng cáo của bị cáo Phạm Tiến Th đúng luật định, hợp lệ nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[1]. Bị cáo Th đã thực hiện hành vi cung cấp thông tin cá nhận, địa chỉ và vị trí đất, để thuê làm giả Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BA 085060 thửa đất số 01, tờ bản đồ số 17, diện tích 7.386m2, địa chỉ: Thôn Tầm X, xã Đông Th, huyện Lâm H, tỉnh Lâm Đồng mang tên Phạm Tiến Th; mục đích của bị cáo làm giả Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, để thực hiện hành vi gian dối chiếm đoạt của ông L 3.584.000.000 đồng và của bà Vân Anh 300.000.000 đồng, nhằm mục đích sử dụng, tiêu xài cá nhân. Do đó, bản án sơ thẩm đã xét xử bị cáo Th về tội: ”Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” theo điểm b khoản 3 Điều 341 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 là đúng tội; nên tại phiên toà, bị cáo cho rằng hành vi của bị cáo phạm tội “Sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” là chưa phù hợp, vì không phải ngẫu nhiên do bị cáo nhặt được hay do người khác cho Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, mà biết đó là giấy giả nhưng bị cáo vẫn sử dụng giấy tờ giả này để thực hiện hành vi phạm tội thì bị cáo mới phạm tội “Sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”, nên trình bày của bị cáo không được chấp nhận.

[2]. Tòa án cấp sơ thẩm xác định hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản nhiều lần, của nhiều người và đến nay bị cáo cũng chưa bồi thường cho bị hại, làm ảnh hưởng xấu đến đời sống, xã hội; tác động rất xấu đến tình hình trị an tại địa phương; xâm hại đến hoạt động đúng đắn của các cơ quan nhà nước nên cần phải xử lý nghiêm khắc đối với bị cáo là phù hợp. Đồng thời, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như Th khẩn khai báo, ăn năn hối cải; gia đình của bị cáo có công Cách Mạng, bị hại Vân A xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, được Toà án cấp sơ thẩm xem xét, áp dụng; để làm căn cứ giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và xét xử bị cáo 16 năm tù, về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và 4 năm tù về tội: ”Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” là tương xứng, phù hợp với hành vi của bị cáo.

[3]. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, nhưng không cung cấp được tài liệu mới, để làm căn cứ giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy lời trình bày của luật sư cho bị cáo, đã được cấp sơ thẩm xem xét, nên đơn kháng cáo của bị cáo không có căn cứ nên không chấp nhận. Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Th phố Hồ Chí Minh phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận; do không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 BLTTHS và điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu L pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự.

I. Không chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo Phạm Tiến Th; Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 12/2023/HS-ST ngày 21/3/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng như sau:

Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b khoản 3 Điều 341 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

1. Tuyên bố bị cáo Phạm Tiến Th phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”.

2. Về hình phạt:

- Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Phạm Tiến Th mức án 16 (Mười sáu) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

- Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 341; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Phạm Tiến Th mức án 04 (bốn) năm tù về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức” Áp dụng Điều 55 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, buộc bị cáo Phạm Tiến Th phải chấp hành hình phạt chung cho cho cả hai tội là 20 (Hai mươi) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam ngày 15/07/2021.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu L pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

II. Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Phạm Tiến Th phải nộp 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng.

III. Bản án phúc thẩm có hiệu L pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

20
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 622/2023/HS-PT

Số hiệu:622/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:28/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về