TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG
BẢN ÁN 62/2023/HS-ST NGÀY 20/11/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 20/11/2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 58/2023/TLST-HS ngày 15 tháng 9 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 296/2023/QĐXXST-HS ngày 03/11/2023 đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Hữu C, sinh năm 1994 tại: Lâm Đồng; nơi ĐKHKTT và cư trú: Thôn 13, xã Đ, thành phố phố Bảo L, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Lao động tự do; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 9/12; con ông: Nguyễn Hữu T; con bà: Đinh Thị Th; vợ Ka T, sinh năm 1991, có 1 con sinh năm 2023 Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt ngày 12/8/2022, hiện đang tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Lâm Đồng.
Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Trương Phúc A – Văn phòng luật sư Trương Phúc A; Đoàn Luật sư tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.
* Bị hại:
1. Ông Trần Thế M, sinh năm 1988; địa chỉ: Thôn 9, xã Đ, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.
2. Bà Vương Thị Thùy D, sinh năm 1985; địa chỉ: 193/11 H, Phường X, thành phố Bảo L, Lâm Đồng. Vắng mặt.
3. Ông Nguyễn Thế Q, sinh năm 1984; địa chỉ: Tổ 01, phường L, thành phố Bảo L, Lâm Đồng. Có đơn xin vắng mặt.
4. Ông Trương Văn Tr, sinh năm 1983; địa chỉ: Thôn D, xã T, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Có đơn xin vắng mặt
5. Ông Nguyễn Thái Duy Ph, sinh năm 1989; địa chỉ: thôn H, xã P, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận. Có đơn xin vắng mặt.
6. Ông Nguyễn Hữu C, sinh năm 1991; địa chỉ: Khu phố 1, phường M, thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, Ninh Thuận. Có mặt
7. Ông Nguyễn Ngọc Th, sinh năm 1984; địa chỉ: Tổ 16, thôn Q, xã B, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Có mặt.
8. Ông Vũ Ngọc Kh, sinh năm 1970; địa chỉ: Số 230, Quốc lộ 20, xã L, thành phố Bảo L, tỉnh Lâm Đồng. Có đơn xin vắng mặt.
9. Bà Vũ Hà Thiên Nh, sinh năm 1994; địa chỉ: 11 Lê Thị Hồng G, Phường X, thành phố Bảo L, Lâm Đồng. Có đơn xin vắng mặt.
10. Ông Mai Trần Anh D, sinh năm 1987; địa chỉ: 46/9 P, phường L, thành phố Bảo L, Lâm Đồng. Có đơn xin vắng mặt.
11. Ông Nguyễn Tiến B, sinh năm 1979; địa chỉ: Số 185 P, Phường X, thành phố Bảo L, Lâm Đồng. Có đơn xin vắng mặt.
12. Ông Trần M L, sinh năm 1989; địa chỉ: Tổ 1, thị trấn L, huyện Bảo Lâm, Lâm Đồng. Có đơn xin vắng mặt.
13. Ông Huỳnh Thanh Kh, sinh năm 1988; địa chỉ: 1039D H, thị trấn Di Linh, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng. Có đơn xin vắng mặt.
14. Ông Phạm Ngọc B, sinh năm 1988; địa chỉ: Thôn 1, xã L, huyện Bảo Lâm, Lâm Đồng. Có đơn xin vắng mặt.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Vũ Văn V, sinh năm 1985; địa chỉ: 154B N, Phường L, thành phố Bảo L, Lâm Đồng. Có đơn xin vắng mặt.
2. Ông Nguyễn Nhật Tr, sinh năm 1990; địa chỉ: Số 13 Lê Duẩn, thị trấn L, huyện Bảo Lâm, Lâm Đồng. Có đơn xin vắng mặt.
3. Ông Vũ Văn Hi, sinh năm 1990; địa chỉ: Thôn 4, xã L, huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng. Có đơn xin vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Hữu C trước đây từng làm nghề lái máy xúc (máy đào) nên có quen biết và biết số điện thoại của một số người ở các cửa hàng mua bán nhớt và một số người cùng làm nghề lái xe máy xúc. Do không có tiền nên C nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản của người này rồi bán cho người khác để lấy tiền tiêu xài cá nhân, cụ thể như sau:
Vụ thứ 1:
Vào khoảng cuối năm 2021, C liên hệ với anh Trần Thế M trú tại thôn 9, xã Đ, huyện Di Linh (do trước đó anh M có quen biết với C) nói dối anh M là có 01 động cơ xe máy xúc Isuzu 6PDG1 với giá 48.000.000đ và gửi ảnh động cơ trên qua Zalo cho anh M xem thì anh M đồng ý mua, C yêu cầu anh M chuyển cho C 48.000.000đ, anh M chuyển 48 triệu đồng vào tài khoản MBbank của C, nhưng C không giao động cơ máy cho anh M mà tiếp tục nói dối anh M là C sẽ bán cho M máy xúc hiệu Hitachi 07 và nói anh M để số tiền 48 triệu đó để đặt cọc mua máy xúc thì anh M đồng ý, đồng thời C yêu cầu anh M chuyển thêm cho C 48 triệu đồng, C nói với anh M là 30 triệu đồng là tiền cọc thêm cho chiếc xe máy xúc và 18 triệu đồng là chi phí vận chuyển. Trong các ngày 30 và 31 tháng 3/2022, anh M đã chuyển khoản số tiền 48 triệu vào tài khoản MBbank và Vietcombank của C. Đến ngày 11/4/2022, C tiếp tục gửi thêm hình ảnh xe máy xúc Hitachi 07 thể hiện đã vận chuyển lên xe để đưa tới nhà cho M (hình ảnh này C tải trên mạng xuống) và yêu cầu anh M chuyển thêm số tiền 60 triệu. Anh M chuyển 01 lần tổng số tiền là 60 triệu vào số tài khoản của C, sau khi chuyển tiền anh M không thấy xe được chuyển về, điện thoại hỏi thì C tiếp tục nói xe bị trục trặc, sau đó cắt liên lạc với anh M. Tổng số tiền C chiếm đoạt của anh M là 156.000.000đ, số tiền trên C tiêu xài cá nhân hết.
Bị hại Trần Thế M yêu cầu C bồi thường số tiền 156.000.000đ.
Vụ thứ 2:
Chiều ngày 20/02/2022, C gọi điện cho anh Trần Thế Q, HKTT: Tổ 10, phường L, thành phố Bảo L, Lâm Đồng là chủ Gara Q Anh, địa chỉ phường L Phát, thành phố Bảo L (trước đấy anh Q và C có quen biết nhau) và nói dối mua nhớt làm máy đào nhưng do bán máy nên dư mấy phuy nhớt và hỏi anh Q có muốn mua thì bán rẻ cho 02 phuy nhớt nhãn hiệu Kobeco (khoảng hơn 200 lít) với giá 14.000.000đ để thu hồi vốn. Anh Q đồng ý mua. C cung cấp số tài khoản ngân hàng MBbank số 0989X0X tài khoản của C) cho anh Q và yêu cầu khi nhận được hàng thì chuyển tiền vào tài khoản cho C.
Cùng trong ngày 20/02/2022, C sử dụng số điện thoại 0989X049 gọi cho chị Vương Thị Thùy D, trú tại 193/11 Hồ Tu Mậu, phường 1, thành phố Bảo L (C quen do trước đây có mua nhớt) là người bán nhớt tại thành phố Bảo L để mua 02 phuy nhớt nhãn hiệu Kobeco với giá 27.000.000đ và yêu cầu chị D giao đến gara Q Anh rồi C sẽ trả tiền. Chị D gọi điện thoại cho anh Nguyễn Thành L là nhân viên lái xe giao hàng của công ty TNHH Nam Thiên (chị D mua lại 02 phuy nhớt của Công ty TNHH Nam Thiên) yêu cầu anh L chở 02 phuy nhớt đến ga ra Q Anh ở đường Phạm Ngọc Thạch, phường L Phát, thành phố Bảo L. Khi đến địa chỉ trên, anh L gọi cho C thì C nói không có mặt ở đó và yêu cầu anh L giao nhớt cho anh Q là chủ gara Q Anh và sẽ chuyển tiền cho chị D sau, anh L có báo cho chị D thì chị D đồng ý cho giao nhớt. Đến khoảng 17h cùng ngày chị D gọi điện cho C báo về việc đã giao hàng, yêu cầu C chuyển tiền, C nói với chị D xin thiếu lại mấy ngày rồi trả. Sau khi nhận được nhớt, anh Q đã chuyển cho C số tiền 14.000.000đ.
Ngày 22/2/2022, C tiếp tục nói với anh Q là còn 02 phuy nhớt bán lại cho Q với giá 16.000.000đ, Q đồng ý mua, C tiếp tục gọi cho chị D hỏi mua 02 phuy nhớt Kobeco với giá 27.000.000đ. C nói đang ở thành phố Hồ Chí M, mấy hôm nữa sẽ về thanh toán luôn và yêu cầu chị D giao tại gara Q Anh, chị D đồng ý và tiếp tục gọi điện cho Nguyễn Thành L chở 02 phuy nhớt đến giao tại Gara Q Anh. Sau khi nhận được hàng anh Q chuyển trả cho C số tiền 16.000.000đ. Sau khi chiếm đoạt 04 phuy nhớt của chị D, C tắt máy không trả tiền cho chị D. Toàn bộ số tiền thu được từ việc bán nhớt C sử dụng chơi game, đánh bài trên mạng và tiêu xài cá nhân hết.
Kết luận định giá của hội đồng định giá tài sản trong tố tụng số 94 ngày 25/8/2022 kết luận: 04 phuy nhớt thủy lực hiệu Kabeco, loại 200 lít/ phuy trị giá 54.000.000đ.
Bị hại chị Vương Thị Thùy D yêu cầu bồi thường số tiền 54.000.000đ.
Vụ thứ 3:
Khoảng đầu tháng 3/2022, C nảy sinh ý định chiếm đoạt tiền của anh Nguyễn Thế Q là chủ gara Q Anh ở đường Phạm Ngọc Thạch, phường L, thành phố Bảo L, C gọi điện thoại cho anh Q giới thiệu có xe máy xúc nhãn hiệu Volvo loại gàu múc 0,25m3 C tải hình ảnh xe này trên mạng xuống gửi cho Q, C nói với Q xe này đang chuyển ngoài Bắc vào, nếu muốn mua thì C để lại với giá 240 triệu đồng, khi nhận xe nếu không giống hình thì sẽ trả lại tiền cho Q và hẹn 7 đến 10 ngày sẽ giao xe. Anh Q đồng ý mua và chuyển số tiền 20 triệu vào tài khoản 0989X048 ngân hàng MBbank của C. Đến hẹn C không có xe giao cho Q nên khóa máy, chặn liên lạc, số tiền trên C tiêu xài cá nhân hết.
Tổng số tiền Nguyễn Hữu C chiếm đoạt của Nguyễn Thế Q là 20.000.000đ.
Bị hại Nguyễn Thế Q yêu cầu C bồi thường số tiền chiếm đoạt.
Vụ thứ 4:
Khoảng năm 2019, Nguyễn Hữu C thông qua người quen giới thiệu nên liên lạc và ra nhà của anh Trương Văn Tr trú tại xã T, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa để mua máy xúc (máy đào), C lưu số điện thoại và kết bạn Zalo với anh Tr. Vào khoảng tháng 3/2022, C nảy sinh ý định chiếm đoạt tiền của anh Tr nên đã liên lạc với anh Tr qua ứng dụng Zalo và giới thiệu với anh Tr về việc có xe máy xúc nhãn hiệu DOSSAN DH 60 muốn bán với giá 165.000.000đ. C tải hình ảnh xe máy xúc trên mạng về và gửi cho anh Tr qua ứng dụng Zalo. Khi xem hình xong thì anh Tr đồng ý mua. Nguyễn Hửu C yêu cầu anh Tr chuyển 10.000.000đ tiền đặt cọc mua xe và cung cấp số tài khoản ngân hàng Vietcombank, số 9989X049 của C cho anh Tr để anh Tr chuyển tiền vào. Hai bên thỏa thuận khoảng 10 ngày sau C sẽ giao xe cho anh Tr tại thôn D, xã T, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Ngày 05/3/2022, anh Tr sử dụng tài khoản của mình mở tại Ngân hàng Agribank chuyển vào tài khoản Vietcombank của C số tiền 10.000.000đ. Tuy nhiên đến hẹn, C chặn số điện thoại của anh Tr.
Số tiền mà Nguyễn Hữu C chiếm đoạt của anh Trương Văn Tr là 10.000.000đ.
Bị hại Trương Văn Tr yêu cầu C bồi thường số tiền 10.000.000đ.
Vụ thứ 5:
Khoảng tháng 4/2022, C thấy anh Nguyễn Thái Duy Ph trú tại xã P, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận đăng bài trên mạng xã hội Zalo về việc có nhu cầu mua xe máy xúc, Nguyễn Hữu C sử dụng tài khoản Zalo tên “Komatsu Xe” liên hệ với anh Nguyễn Thái Duy Ph, giới thiệu với anh P về việc có các xe máy xúc nhãn hiệu Dosan 55 cần bán với giá 180.000.000đ, C tải hình ảnh xe trên mạng về gửi cho anh P xem. Sau khi xem anh P đồng ý mua, C yêu cầu anh P chuyển khoản trước cho C 20.000.000đ. Ngày 17/4/2022, anh Nguyễn Thái Duy Ph chuyền số tiền trên vào tài khoản 0989X047 ngân hàng MBbank của C. Cũng trong ngày 17/4/2022, C nói với anh P là không đủ tiền để chốt cọc xe nên yêu cầu anh P chuyển thêm 20 triệu đồng, anh P nhờ vợ là chị Huỳnh Thị Thu Hiền chuyển vào tài khoản 0989X049 của C số tiền 10.000.000đ và 10.000.000đ chuyển vào tài khoản của ngân hàng Vietcombank của C. Tổng số tiền mà anh P đã chuyển cho C để mua xe máy xúc là 40.000.000đ. Sau khi anh P chuyển số tiền trên thì C hứa hẹn nhưng không giao xe, anh P liên lạc nhiều lần nhưng C không nghe máy.
Tổng số tiền Nguyễn Hữu C chiềm đoạt của anh Nguyễn Thái Duy Ph là 40.000.000đ. anh P yêu cầu C trả lại số tiền trên.
Vụ thứ 6:
Cũng trong tháng 4/2022, Nguyễn Hữu C sử dụng tài khoản Zalo tên “Komatsu” liên lạc với anh Nguyễn Hữu C, sinh năm:1991, HKTT: khu phố 1, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận, giới thiệu với anh Có về việc có xe máy xúc nhãn hiệu Huyndai 03 bán với giá 190.000.000đ, C lên mạng tải hình ảnh xe này về và gửi cho anh Có xem, sau khi xem xong, anh Có tin tưởng và đồng ý mua xe. C yêu cầu anh Có chuyển khoản đặt cọc trước số tiền 14.000.000đ và yêu cầu anh Có chuyển vào tài khoản số 0989X049, ngân hàng MBbank của C. Ngày 11/4/2022, anh Có chuyển số tiền trên vào tài khoản C cung cấp. Ngày 15/4/2022, C tiếp tục nhắn tin cho anh Có, đề nghị anh Có chuyển thêm 20.000.000đ mới được lấy xe và hẹn 03 ngày nữa sẽ giao xe. Anh Có tin tưởng và tiếp tục chuyển cho C 20.000.000đ. Tổng số tiền anh Có chuyển cho C là 34.000.000đ. Đến hẹn C không giao xe, anh Có liên lạc, C không nghe máy. Ngày 22/4/2022, anh Có lên Bảo L tìm gặp C, sau khi liên lạc được với C, anh Có yêu cầu C trả tiền nếu không sẽ trình báo Cơ quan Công An nên C chuyển trả lại cho anh Có số tiền 20.000.000đ, số tiền còn lại C hứa hẹn nhiều lần nhưng không trả.
Số tiền C chiếm đoạt của anh Nguyễn Hữu C là 34.000.000đ, C đã trả lại cho anh Có 20 triệu đồng, số tiền còn lại 14.000.000đ anh Có yêu cầu C trả lại.
Vụ thứ 7:
Ngày 12/5/2022, Nguyễn Hữu C thấy tài khoản Zalo tên “Thanhnguyen” của anh Nguyễn Ngọc Th trú tại thôn Q, xã B, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam đăng bài về việc mua bán xe máy đào (máy xúc), C này sinh ý định chiếm đoạt tài sản của anh Th nên C lấy số điện thoại và điện cho anh Th, giới thiệu có xe máy xúc nhãn hiệu Huynhdai, thể tích gầu múc là 0,25m3 cần bán với giá 180.000.000đ. C tải hình ảnh máy xúc trên mạng xuống và gửi hình ảnh qua ứng dụng Zalo cho anh Th xem, sau khi xem hình ảnh, anh Th chuyển hình ảnh xe này cho bạn là Nguyễn Ngô A Ka (là người chuyên mua bán xe cơ giới) và hỏi anh Ka có đồng ý mua xe này hay không thì anh Ka đồng ý mua. Do C yêu cầu đặt cọc trước cho C trước 20 triệu đồng nên anh Th yêu cầu anh Ka chuyển số tiền 20 triệu đồng để Th chuyển cho C. C gửi số tài khoản ngân hàng Vietcombank số 9989X049 cho Th. Sau khi nhận được tiền của anh Ka chuyển cho Th, Th nhờ chị Trần Thị Lệ Xuân trú tại thôn Q, xã B, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam chuyển 20 triệu vào tài khoản C cung cấp, sau khi anh Th chuyển tiền, C nói với anh Th trưa 13/5/2022 sẽ giao xe và nhận số tiền còn lại. Anh Th yêu cầu C khi nào chở xe máy xúc thì chụp hình và gửi Video cho anh Th. Sáng ngày 13/5/2022, anh Th điện cho C thì C nói chưa có xe tải vận chuyển. Khoảng 03 ngày sau, anh Th tiếp tục gọi thì C nói chủ xe không bán nữa, Th yêu cầu trả lại tiền cọc nhưng C không trả, sau đó C tắt máy, chặn liên lạc với anh Th.
Tổng số tiền mà Nguyễn Hữu C chiếm đoạt của anh Nguyễn Ngọc Th là 20.000.000đ, bị hại Nguyễn Ngọc Th yêu cầu C bồi thường số tiền trên.
Vụ thứ 8:
Trong thời gian làm nghề máy đào, C quen Vũ Văn V, sinh năm: 1985, HKTT: 154B, đường Nguyễn Văn Cừ, phường L, thành phố Bảo L, tỉnh Lâm Đồng, C biết V có nhu cầu mua nhớt (do V có nhiều xe ben phục vụ công việc bán vật liệu xây dựng). Sáng ngày 25/6/2022, C sử dụng sim số 0919677031 (là sim rác) gọi điện cho V để chào bán nhớt, C xưng tên là T, C nói với V mình có hai phuy nhớt Total W68, còn nguyên thùng hai trăm lít, giá 16 triệu hai thùng, V đồng ý mua, C hỏi V địa chỉ giao hàng và nói V khi nào nhận được hàng thì chuyển khoản trả tiền cho C theo số tài khoản 0561000X290, Ngân hàng Vietcombank, chủ tài khoản tên Trần Quốc T. Cùng trong ngày 25/6/2022, C sử dụng số điện thoại 0919677031 gọi cho anh Vũ Ngọc Kh, HKTT: số 230 đường Quốc lộ 20, xã L, là giám đốc Công ty TNHH TMDV 230 để hỏi mua dầu nhớt, C xưng tên là T. Anh Khánh chuyển số điện thoại của C cho nhân viên công ty là chị Trần Thị Dung để liên lạc với khách, sau khi liên lạc, trao đổi, C đồng ý mua hai phuy nhớt hiệu Total W68 với giá 25.000.000đ của Công ty TNHH TMDV 230, C yêu cầu công ty giao hàng đến địa chỉ đầu đường Lương Văn Can, thành phố Bảo L (là địa chỉ nhà do anh V cung cấp cho C trước đó), sau đó C sẽ đến công ty trả tiền.
Chị Dung đã làm phiếu xuất kho 02 phuy nhớt rồi nói anh Nguyễn Ngọc Chánh Hùng là nhân viên của công ty chở hai phuy nhớt đi giao theo địa chỉ C cung cấp, chị Dung dặn anh Hùng, nếu khách trả tiền thì thu, nếu chưa trả thì cho khách ký xác nhận vào phiếu xuất kho. Anh Hùng chở hàng đến địa chỉ trên rồi gọi điện cho C, C gọi điện cho anh V ra đầu đường nhận hàng, sau khi giao hàng xong anh Hùng đưa phiếu xuất kho cho anh V ký xác nhận. Sau khi anh V nhận được hàng, C gọi điện yêu cầu anh V chuyển trả tiền, anh V đã chuyển khoản số tiền 16.000.000đ để trả cho C. Sau khi giao nhớt, chị Dung nhiều lần liên lạc với C yêu cầu trả tiền, C hứa hẹn nhiều lần nhưng không trả, chặn liên lạc. Sau khi anh V chuyển tiền, C đến gặp anh Trần Quốc T để lấy tiền, số tiền này C tiêu xài hết.
Quá trình điều tra anh V giao nộp 01 phuy nhớt, 01 phuy anh V đã bán lại cho anh Nguyễn Văn Hào, anh Hào đã sử dụng hết.
Kết luận định giá số 68 ngày 15/7/2022 của hội đồng định giá trong tố tụng TP Bảo L xác định; giá trị 02 thùng phuy nhớt hiệu Total W68, loại 208 lít/ thùng là 25.000.000đ Bị hại Vũ Ngọc Kh yêu cầu bồi thường số tiền 12.500.000đ. Ông Vũ Văn V, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan yêu cầu bồi thường 8.000.000đ.
Vụ thứ 9:
Khoảng 15 giờ ngày 03/8/2022, Nguyễn Hữu C sử dụng các số điện thoại 0919 677 031 và số 0345.884.271 gọi điện thoại đến tiệm phụ tùng xe máy và nhớt tại địa chỉ 11 Lê Thị Hồng G, Phường 1, thành phố Bảo L, Lâm Đồng do bà Vũ Hà Thiên Nh làm chủ, lúc này do bà Nh đi vắng nên có nhờ mẹ mình là bà Lê Thị Hà trông coi cửa tiệm dùm. Khi C gọi điện thoại tự xưng tên là T liên hệ mua nhớt thủy lực. Sau khi hỏi và thỏa thuận, C đặt mua 03 phuy nhớt thủy lực, trong đó có 02 phuy nhớt loại Z68 với giá 12.000.000đ và 01 phuy nhớt loại AWS 68 với giá 12.400.000đ.
Sau đó C sử dụng số điện thoại 0919677031 gọi cho anh Nguyễn Nhật Tr và nói có 03 phuy nhớt thủy lực hiệu Castron loại 200 lít/ phuy muốn bán, sau khi thương lượng anh Tr đồng ý mua với giá 22.000.000đ/ 03 phuy và cung cấp địa chỉ giao 03 phuy nhớt trên cho anh Nguyễn Nhật Tr, HKTT: 13 Lê Duẫn, Tổ 6, thị trấn L, huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng; rồi C gọi điện lại cho bà Hà và yêu cầu giao hàng tới cửa hàng sửa xe Tr tại thị trấn L, huyện Bảo Lâm và nói sau khi giao hàng C sẽ chuyển khoản trả tiền, bà Hà đồng ý và cho anh Cao Xuân Trình chở 03 phuy nhớt giao cho anh Nguyễn Nhật Tr. Khi anh Trình chở nhớt tới thị trấn L và gọi số điện mà bà Hà đã cung cấp thì C nghe máy và cung cấp cho anh trình số điện thoại 0984719X và nói anh Trình gọi cho số này để giao nhớt, Anh Trình gọi vào số điện thoại trên thì được hướng dẫn chở nhớt vào cửa hàng sửa ô tô Tr và giao 03 phuy nhớt cho anh Nguyễn Nhật Tr, HKTT: 13 Lê Duẫn, Tổ 6, thị trấn L, huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng. Đồng thời, C gửi số tài khoản số 0561000X290, Ngân hàng Vietcombank mang tên Trần Quốc T cho anh Tr và nói khi nhận được nhớt thì anh Tr chuyển trả tiền vào tài khoản trên. Chiều ngày 03/8/2022, sau khi nhận được 03 phuy nhớt anh Tr đã chuyển số tiền 22.000.000đ vào tài khoản mang tên Trần Quốc T mà C đã cung cấp trước đó. Sau khi xác nhận anh Tr đã chuyển tiền, C tới chỗ anh Trần Quốc T trú tại 54 đường Lê Thị Pha, phường 1, thành phố Bảo L, Lâm Đồng, (Anh T làm nghề kinh doanh dịch vụ cầm đồ và nhận gửi, chuyển tiền qua tài khoản ngân hàng có thu phí tại Bảo L) rút tiền tiêu xài cá nhân hết.
Kết luận định giá số 77 ngày 18/8/2022 của Hội đồng định giá trong tố tụng huyện Bảo Lâm 03 phuy nhớt mà Nguyễn Hữu C chiếm đoạt có giá trị 30.818.182 đồng, người bị hại là bà Vũ Hà Thiên Nh đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì.
Anh Nguyễn Nhật Tr, là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan yêu cầu Nguyễn Hữu C bồi thường 22.000.000đ.
Vụ thứ 10:
Ngày 04/8/2022, C gọi điện thoại cho ông Trần Hữu H trú tại tổ 5, phường 1, thành phố Bảo L, Lâm Đồng (C biết ông H do trước đây có mua phụ tùng xe máy đào tại tiệm của ông H). C giới thiệu mình tên T ở Đồng Nai 5, nhận nhớt Total của Công ty Nhật Quang và hỏi ông H có nhu cầu mua thì để giá rẻ cho ông H hỏi giá thì C trả lời là 6.500.000đ/ 1 phuy, ông H đồng ý mua 04 phuy. C yêu cầu ông H cung cấp địa chỉ để giao hàng, ông H cho địa chỉ giao hàng tại 54 Lý Thường Kiệt, Phường 1, thành phố Bảo L, Lâm Đồng. C nói ông H khi nào nhận được hàng thì chuyển tiền vào tài khoản số 0561000X290 Ngân hàng Vietcombank.
Cùng ngày 04/8/2022, C dùng số điện thoại 0919677031 gọi điện cho Công ty TNHH Nhật Quang, địa chỉ 575 Trần Phú, phường Blao, thành phố Bảo L, Lâm Đồng và nói có nhu cầu mua nhớt, nhân viên Công ty Nhật Quang gửi số điện thoại của C cho anh Mai Trần Anh D là trưởng phòng kinh doanh của Công ty Nhật Quang, ông D gọi điện vào số máy trên thì C nghe máy và tự xưng tên là T, nhà ở L, Bảo Lâm, có nhu cầu mua nhớt Total, anh D báo giá 01 phuy nhớt Total nhãn hiệu Azolla 68 là 10.600.000đ/1 thùng khoảng 208 lít. C nói mua 04 thùng và yêu cầu chở đến địa chỉ 54 lý Thường Kiệt, Phường 1, thành phố Bảo L, Lâm Đồng, khi nào nhận hàng sẽ chuyển khoản trả tiền theo số tài khoản mà anh D cung cấp. Do quen biết với ông H nên anh D tin tưởng lời của C và gọi điện cho Phạm Văn M là nhân viên giao hàng của công ty chở 04 phuy nhớt đến giao tại địa chỉ nhà ông H. Anh M chở 04 phuy nhớt đến địa chỉ trên gặp ông H thì M nói “cho cháu gửi cho anh T 04 phuy nhớt ở đây”, ông H cùng anh M chuyển 04 phuy nhớt vào kho của ông H, sau đó M gọi điện báo cho anh D biết đã giao hàng. Anh D gọi điện cho C báo đã giao hàng và gửi số tài khoản cho C để C chuyển tiền trả. C gọi điện thoại cho ông H để hỏi, sau khi biết được ông H đã nhận nhớt, C yêu cầu ông H chuyển tiền vào tài khoản ngân hàng Vietcombank số 0561000X290 tên Trần Quốc T, ông H nhờ con dâu là Võ Thị Thu Th chuyển 26.000.000đ trả cho C, C đến gặp Trần Quốc T lấy tiền và tiêu xài cá nhân hết.
Mai Trần Anh D sau khi báo cho C biết đã giao hàng nhưng không thấy C chuyển trả tiền, gọi điện cho C không được nên đã trình báo Cơ quan CSĐT Công an thành phố Bảo L.
Kết luận định giá của hội đồng định giá tài sản trong tố tụng số 94 ngày 25/8/2022 kết luận: 04 phuy nhớt nhãn hiệu AZOLLA 68, loại 208 lít/phuy trị giá 42.400.000đ.
Bị hại Mai Trần Anh D yêu cầu Nguyễn Hữu C bồi thường số tiền 42.400.000đ.
Vụ thứ 11:
Chiều ngày 04/8/2022, ông Trần Hữu H gọi điện thoại cho C hỏi còn nhớt bán không thì C trả lời để C xem. C sử dụng số điện thoại 0919677031 gọi điện thoại cho anh Nguyễn Tiến B trú tại 185 P, Phường 2, thành phố Bảo L, Lâm Đồng là giám đốc Công ty TNHH Thương mại và dịch vụ Ngọc Quang địa chỉ đường Nguyễn Hữu Chỉnh, Phường 2, thành phố Bảo L, C tự xưng là T và hỏi giá nhớt máy thì được anh Bộ báo giá là 12 triệu đồng/ phuy/208 lít loại nhớt DELO. C nói sẽ gọi lại sau và tiếp tục gọi cho ông H báo có nhớt nhãn hiệu DELO. C báo giá là 6.000.000đ/ 1 phuy. Ông H đồng ý mua, C gọi lại cho anh Bộ nói mua 02 phuy nhớt DELO và yêu cầu chở đến địa chỉ 54 Lý Thường Kiết, phường 1, và yêu cầu giao nhớt cho ông H và gưởi số điện thoại của ông H cho anh Bộ để liên lạc giao hàng, sau khi nhận được hàng C sẽ trả tiền bằng hình thức chuyển khoản. Khoảng 17h cùng ngày, anh Bộ chở 02 phuy nhớt đến địa chỉ 54 Lý Thường Kiệt, phường 1, thành phố Bảo L, Lâm Đồng và gọi điện cho ông H ra dẫn đường chở nhớt vào nhà, sau khi nhận được 02 thùng phuy nhớt, ông H nhờ con dâu là Võ Thị Thu Th chuyển 12 triệu từ tài khoản của Th sang tài khoản mang tên Trần Quốc T. Sau khi giao nhớt xong, anh Bộ gọi điện cho C báo về việc đã giao hàng và yêu cầu C chuyển khoản trả tiền nhớt, C nói đang có việc bận nên hẹn 19h cùng ngày sẽ chuyển khoản trả cho anh Bộ. Tuy nhiên, C không chuyển trả tiền cho anh Bộ, đồng thời khóa máy, chặn liên lạc.
Toàn bộ số tiền 12.000.000đ ông H chuyển, C đến gặp Trần Quốc T yêu cầu chuyển tiền vào tài khoản chơi game của C và lấy tiền mặt tiêu xài cá nhân hết.
Kết luận định giá của hội đồng định giá tài sản trong tố tụng số 94 ngày 25/8/2022 kết luận: 02 phuy nhớt nhãn hiệu DELO Silver, loại 208 lít/ phuy, trị giá 24.000.000đ.
Bị hại Nguyễn Tiến B yêu cầu Nguyễn Hữu C bồi thường 24.000.000đ.
Vụ thứ 12:
Ngày 05/8/2022, C sử dụng số điện thoại 0948X306, xưng tên là T gọi cho ông Trần M L trú tại tổ 1, thị trấn L, huyện Bảo Lâm, Lâm Đồng để hỏi mua nhớt, sau khi anh Linh giới thiệu về các loại nhớt mà anh Linh có và giá cả thì C đặt mua 03 phuy nhớt nhãn hiệu Mobil, dung tích 209 lít/ phuy với giá 39.000.000đ, rồi C sử dụng số điện thoại 0919677031 xưng tên là T gọi điện thoại cho anh Trần Ngọc H giới thiệu có nhớt rẻ cần bán, muốn bán 03 phuy nhớt nhãn hiệu Mobil với giá 21.000.000đ thì anh H đồng ý mua và yêu cầu C giao số nhớt trên đến của hàng Hoàng Anh Quân, thôn 1, xã L Quảng, huyện Bảo Lâm (do nhà anh H ở trong hẻm nên có nhờ chỗ vật liệu xây dựng Hoàng Anh Quân nhận dùm). C gửi cho anh H số tài khoản 0561000X290, ngân hàng Vietcombank tên Trần Quốc T và yêu cầu sau khi nhận hàng thì chuyển trả tiền cho C vào số tài khoản này.
Sau khi liên hệ được người mua nhớt, C gọi điện lại cho anh Trần M L và đề nghị ông Linh giao số nhớt trên đến cửa hàng vật liệu xây dựng Hoàng Anh Quân, địa chỉ Thôn 1, xã L Quảng, huyện Bảo Lâm và sẽ chuyển khoản trả tiền cho anh Linh sau. Khi nhận hàng, anh Linh thuê xe ba gác chở số nhớt trên đến địa chỉ đã hẹn, khi tới nơi người giao hàng gọi số điện thoại 0948X306 để giao thì C hướng dẫn giao số nhớt trên cho ông Trần Ngọc H trú tại Thôn 12, xã Đambri, thành phố Bảo L.
Sau khi được người của cửa hàng vật liệu xây dựng Hoàng Anh Quân báo đã nhận được nhớt và kiểm tra chất lượng nhớt thì anh H chuyển 21.000.000đ vào tài khoản ngân hàng mà C cung cấp. Sau khi xác nhận anh H đã chuyển tiền vào tài khoản, C tới chỗ anh Trần Quốc T tại thành phố Bảo L để rút toàn bộ số tiền trên tiêu xài cá nhân.
Toàn bộ số nhớt trên anh Trần Ngọc H đã sử dụng hết, Cơ quan CSĐT Công an huyện Bảo Lâm thu giữ 03 phuy nhớt rỗng.
Kết luận định giá số 77 ngày 18/8/2022 của Hội đồng định giá trong tố tụng huyện Bảo Lâm 03 phuy nhớt mà Nguyễn Hữu C chiếm đoạt của anh Trần M L có giá trị 39.000.000 đồng, người bị hại anh Trần M L yêu cầu bồi thường số tiền 39.000.000đ.
Vụ thứ 13:
Ngày 09/8/2022, Nguyễn Hữu C lên mạng tìm kiếm cửa hàng bán nhớt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng thì thấy Công ty TNHH TM&DV Huỳnh Lê, địa chỉ số 1039D, đường H, thị trấn Di Linh đăng tin bán nhớt, C sử dụng sim số 0564984X, (sim rác) gọi điện đến công ty hỏi mua nhớt thì gặp Huỳnh Thanh Kh là chủ cửa hàng, C xưng tên là T và hỏi mua nhớt, anh Kha báo giá các loại nhớt cho C, C nói để tham khảo và gọi lại sau. Tiếp đó C sử dụng sim số 0564984X gọi cho anh Vũ Văn Hi, HKTT: Thôn 4, xã L, huyện Bảo Lâm, Lâm Đồng, C xưng tên là T vả hỏi Hi có nhu cầu mua nhớt không, sau khi trao đổi, anh Hi đồng ý mua của C 04 phuy nhớt với tổng giá tiền là 20.000.000đ, thỏa thuận khi nào anh Hi nhận được hàng sẽ chuyển khoản cho C qua số tài khoản 0561000X290, Ngân hàng Vietcombank, chủ tài khoản Trần Quốc T, đồng thời anh Hi cung cấp địa chỉ giao hàng là tại khu dân cư Rubi City, thành phố Bảo L. C gọi điện thoại lại cho anh Kha hỏi mua 01 phuy nhớt động cơ nhãn hiệu Castrol và 03 phuy nhớt thủy lực nhãn hiệu Castrol với tổng giá trị đơn hàng là 51.500.000đ, C yêu cầu công ty chở hàng đến giao tại khu dân cư Ruby City, thành phố Bảo L rồi đến ngân hàng Vietcombank để vợ C đưa tiền (C nói dối Kha về việc vợ C làm ở ngân hàng Vietcombank). Khoảng hơn 15 giờ cùng ngày, anh Kha chở 04 phuy nhớt xuống thành phố Bảo L và gọi điện cho C ra nhận hàng, C lấy lý do bận không ra được và nhờ người nhà là anh Hi ra nhận hàng dùm, đồng thời C gửi số điện thoại của Hi để anh Kha liên lạc giao hàng. Sau khi anh Kha giao 04 phuy nhớt cho Hi, C gọi điện thoại cho Hi yêu cầu trả tiền, anh Hi chuyển trả số tiền 20.000.000đ cho C qua số tài khoản 0561000X290 ngân hàng Vietcombank, chủ tài khoản là Trần Quốc T, Sau khi Hi chuyển tiền, C đến gặp Trần Quốc T yêu cầu anh T chuyển một phần số tiền vào tài khoản chơi game trên mạng của C, số tiền còn lại C lấy tiền mặt và tiêu xài hết.
Sau khi giao 04 phuy nhớt nhưng không thấy người tên T trả tiền, anh Kha quay lại yêu cầu anh Hi trả lại 04 phuy nhớt, anh Hi trình báo cơ quan chức năng và giao nộp 04 phuy nhớt.
Tổng số tài sản mà Nguyễn Hữu C chiếm đoạt của anh Huỳnh Thanh Kh là 04 phuy nhớt trị giá 51.500.000đ Bị hại ông Huỳnh Thanh Kh đã nhận lại 04 phuy nhớt và không có yêu cầu gì.
Ông Vũ Văn Hi, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan yêu cầu C bồi thường 20.000.000đ.
Vụ thứ 14:
Ngày 12/ 8/2022, C sử dụng số điện thoại 0948X306 tự xưng là T Anh gọi điện thoại cho ông Phạm Ngọc B, HKTT: Thôn 1, xã L, huyện Bảo Lâm giới thiệu có nhớt rẻ cần bán, ông B đồng ý mua 02 phuy nhớt của C với giá 16.000.000đ và yêu cầu C giao số nhớt trên tại nhà ở thôn 1, xã L, huyện Bảo Lâm. C yêu cầu ông B khi kiểm tra nhớt xong thì chuyển khoản trả tiền nhớt cho C vào số tài khoản 0561000X290, ngân hàng Vietcombank mang tên Trần Quốc T. Trước đó, C sử dụng số điện thoại 0978562997 gọi cho anh Bùi Võ Giang, trú tại L, Bảo L, Lâm Đồng là kế toán của Công ty TNHH Tâm Đan, địa chỉ 26 Lê Thị Pha, phường 1, thành phố Bảo L để đặt mua 02 phuy nhớt thủy lực, thể tích 209 lít/phuy, với mức giá 12.000.00đ/phuy và C yêu cầu chuyển số nhớt trên đến địa chỉ; thôn 1, xã Phú L, huyện Bảo Lâm, anh Giang yêu cầu anh Ph và anh L là lái xe và nhân viên giao hàng của công ty đi giao 02 phuy nhớt đến địa chỉ trên và yêu cầu khi nhận được tiền thì mới giao hàng. Anh Ph và anh L gọi cho C thì C cho số điện thoại của ông Phạm Ngọc B để liên lạc và chở nhớt vào. Sau khi nhớt được chở đến nhà, ông B kiểm tra nhớt và thực hiện lệnh chuyển số tiền 16.000.000đ từ tài khoản số 0975337X, ngân hàng MBBank của ông B vào tài khoản ngân hàng Vietcombank mang tên Trần Quốc T mà C cung cấp trước đó cho ông B. Sau khi chuyển khoản xong, ông B chuẩn bị lấy nhớt thì người vận chuyển bên công ty Tâm Đan không đồng ý cho ông B lấy nhớt vì ông B chưa trả tiền. Lúc này ông B gọi điện cho C nhưng không liên lạc được.
Số tiền ông B chuyển, C đến chỗ Trần Quốc T rút toàn bộ số tiền 16.000.000đ, chuộc điện thoại hết 6.200.000đ, số tiền còn lại 9.800.000đ. sau đó bị Công an thu giữ.
Tổng số tiền mà Nguyễn Hữu C chiếm đoạt của ông Phạm Ngọc B là 16.000.000đ. Người bị hại là ông Phạm Ngọc B yêu cầu C bồi thường số tiền 16.000.000đ.
Tổng số tiền mà Nguyễn Hữu C chiếm đoạt của các bị hại là 562.718.182đ (năm trăm sáu hai triệu bảy trăm tám mươi ngàn một trăm tám mươi hai đồng).
Vật chứng thu giữ:
- Đối với vụ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra vào ngày 25/6/2022 trên địa bàn thành phố Bảo L (Người bị hại là ông Vũ Ngọc Kh, sinh năm: 1970, HKTT: Số 230, QL20, xã L, thành phố Bảo L, tỉnh Lâm Đồng), Cơ quan CSĐT Công an thành phố Bảo L thu hồi được 01 (một) thùng nhớt, 01 thùng còn lại ông Vũ Văn V đã sử dụng hết.
- Đối với vụ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra ngày 09/08/2022 trên địa bàn thành phố Bảo L (Người bị hại là ông Huỳnh Thanh Kh, sinh năm: 1988, HKTT: số 1039D, đường H, thị trấn Di Linh, tỉnh Lâm Đồng), Cơ quan CSĐT Công an thành phố Bảo L thu hồi được 04 (bốn) thùng nhớt.
- Đối với vụ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra vào ngày 03/08/2022 trên địa bàn thị trấn L, huyện Bảo Lâm (Người bị hại là bà Vũ Hà Thiên Nh, sinh năm: 1994, nơi thường trú: 11 Lê Thị Hồng G, phường 1, thành phố Bảo L), Cơ quan CSĐT Công an huyện Bảo Lâm đã thu hồi được tài sản là 03 (ba) thùng nhớt.
- Đối với vụ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra vào ngày 05/08/2022 trên địa bàn xã L Quảng, huyện Bảo Lâm (Người bị hại là ông Trần M L, sinh năm 1989, nơi thường trú: Tổ 1, thị trấn L, huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng), Cơ quan CSĐT Công an huyện Bảo Lâm thu hồi được 03 (ba) thùng nhớt trong tình trạng đã sử dụng hết (do ông Trần Ngọc H sử dụng hết).
- Thu giữ của Nguyễn Hữu C các đồ vật tài liệu sau:
+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen; Imei: 355870668943316, không gắn sim.
+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu xanh; Imei: 353220820923230, không gắn sim.
+ 01 (một) điện thoại Nokia màu trắng. Số imei: 353164111211907. Gắn sim 1 số: 097X2997, gắn sim 2 số: 0948X306.
+ 01 (một) thẻ ATM mang tên Nguyễn Hữu C-ngân hàng VIETCOMBANK, số thẻ: 452404186700820.
+ 01 (một) sim di động mạng Vinaphone có các số 898402000 – Vinaphone – 1124X1029.
+ 01 (một) sim di động của mạng Viettel 4G có các số: 8984048000336157190.
+ Số tiền 9.800.000đ (chín triệu tám trăm nghìn đồng). Xử lý vật chứng trong quá trình điều tra:
- Cơ quan CSĐT Công an thành phố Bảo L ra Quyết định xử lý vật chứng đối với 01(một) phuy nhớt hiệu Total W68, loại 208 lít/ phuy bằng hình thức trả lại cho Công ty TNHHTMDV 230 (đại diện theo pháp luật là ông Vũ Ngọc Kh);
01(một) phuy nhớt động cơ hiệu Castrol, loại 209 lít/ phuy và 03(ba) phuy nhớt thủy lực hiệu Castrol, loại 209 lít/ phuy bằng hình thức trả lại cho Công ty TNHHTM&DV Huỳnh Lê (đại diện là ông Huỳnh Thanh Kh).
- Cơ quan CSĐT Công an huyện Bảo Lâm ra Quyết định xử lý vật chứng đối với 03 (ba) thùng kim loại hình trụ tròn màu đỏ, cao 88cm, đường kính 58cm, hai mặt trên dưới của thùng kín, một mặt có dán tem có dòng Mobil-Nuto H68-ISO VG68, loại thùng 208 lít, bên trong không đựng dung dịch gì, bằng hình thức trao trả lại cho ông Trần M L; Quyết định xử lý vật chứng đối với 02 (hai) thùng nhớt Hyspin HLP-Z68 thể tích 209 lít, 01 (một) thùng dầu nhờn Hyspin AWS 68, thể tích 209 lít bằng hình thức trả lại cho bà Vũ Hà Thiên Nh.
- Đối với số tiền 29.800.000 đồng (trong đó có 9.800.000 đồng thu giữ trên người bị cáo Nguyễn Hữu C và 20.000.000 đồng do người nhà bị cáo Nguyễn Hữu C nộp khắc phục hậu quả), Cơ quan CSĐT Công an huyện Bảo Lâm đã nộp vào tài khoản Công an huyện Bảo Lâm, sau đó chuyển đến tài khoản tạm gửi của Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Lâm Đồng.
- Đối với các đồ vật, tài liệu thu giữ của Nguyễn Hữu C, Cơ quan CSĐT Công an huyện Bảo Lâm ra Quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức chuyển cho Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Lâm Đồng để phục vụ công tác điều tra gồm:
+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen; Imei: 355870668943316, không gắn sim.
+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu xanh; Imei: 353220820923230, không gắn sim.
+ 01 (một) điện thoại Nokia màu trắng. Số imei: 353164111211907. Gắn sim 1 số: 097X2997, gắn sim 2 số: 0948X306.
+ 01 (một) thẻ ATM mang tên Nguyễn Hữu C-ngân hàng VIETCOMBANK, số thẻ: 452404186700820.
+ 01 (một) sim di động mạng Vinaphone có các số 898402000 – Vinaphone – 1124X1029.
+ 01 (một) sim di động của mạng Viettel 4G có các số: 8984048000336157190.
Về trách nhiệm dân sự:
Các bị hại và những người có quyền lợi liên quan trong vụ án yêu cầu Nguyễn Hữu C bồi thường toàn bộ số tiền đã chiếm đoạt. Quá trình điều tra, Nguyễn Hữu C tác động gia đình nộp số tiền 20 triệu đồng khắc phục hậu quả.
Cáo trạng số 51/CT-VKS ngày 12/9/2023 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng truy tố ra trước Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng để xét xử bị cáo: Nguyễn Hữu C về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi đã thực hiện đúng như bản cáo trạng truy tố; không khiếu nại thắc mắc gì và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị hại và những người có quyền lợi liên quan trong vụ án yêu cầu Nguyễn Hữu C bồi thường toàn bộ số tiền đã chiếm đoạt cụ thể: Trần Thế M yêu cầu bồi thường số tiền 156.000.000đ; chị Vương Thị Thùy D yêu cầu bồi thường số tiền 54.000.000đ; Trần Thế Q yêu cầu bồi thường số tiền 20.000.000đ; Trương Văn Tr yêu cầu bồi thường số tiền 10.000.000đ; Nguyễn Thái Duy Ph là 40.000.000đ; Nguyễn Hữu C bị chiếm đoạt 34.000.000đ, C đã trả lại cho anh Có 20 triệu đồng, số tiền còn lại 14.000.000đ;
Nguyễn Ngọc Th là 20.000.000đ; bị hại Vũ Ngọc Kh yêu cầu bồi thường số tiền 12.500.000đ. ông Vũ Văn V người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan yêu cầu bồi thường 8.000.000đ; Nguyễn Nhật Tr yêu cầu bồi thường 22.000.000đ; bị hại Mai Trần Anh D yêu cầu bồi thường số tiền 42.400.000đ; Nguyễn Tiến B yêu bồi thường 24.000.000đ; Trần M L yêu cầu bồi thường số tiền 39.000.000đ; Vũ Văn Hi, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan yêu cầu C bồi thường 20.000.000đ; Phạm Ngọc B yêu cầu bồi thường số tiền 16.000.000đ.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng giữ nguyên bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu C phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015; xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu C mức án từ 13 năm đến 15 năm tù.
Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Nguyễn Hữu C có trách nhiệm bồi thường cho anh Trần Thế M số tiền 156.000.000đ; chị Vương Thị Thùy D số tiền 54.000.000đ; Nguyễn Thế Q số tiền 20.000.000đ; Trương Văn Tr số tiền 10.000.000đ; Nguyễn Thái Duy Ph số tiền 40.000.000đ; Nguyễn Hữu C số tiền còn lại 14.000.000đ; Nguyễn Ngọc Th số tiền 20.000.000đ; bị hại Vũ Ngọc Kh số tiền 12.500.000đ; ông Vũ Văn V số tiền 8.000.000đ; Nguyễn Nhật Tr số tiền 22.000.000đ; bị hại Mai Trần Anh D số tiền 42.400.000đ; Nguyễn Tiến B số tiền 24.000.000đ; Trần M L số tiền 39.000.000đ; Vũ Văn Hi số tiền 20.000.000đ; Phạm Ngọc B số tiền 16.000.000đ.
Về xử lý vật chứng:
+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen; Imei: 355870668943316, không gắn sim.
+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu xanh; Imei: 353220820923230, không gắn sim.
+ 01 (một) điện thoại Nokia màu trắng. Số imei: 353164111211907. Gắn sim 1 số: 097X2997, gắn sim 2 số: 0948X306.
+ 01 (một) thẻ ATM mang tên Nguyễn Hữu C-ngân hàng VIETCOMBANK, số thẻ: 452404186700820.
+ 01 (một) sim di động mạng Vinaphone có các số 898402000 – Vinaphone – 1124X1029.
+ 01 (một) sim di động của mạng Viettel 4G có các số: 8984048000336157190.
+ Tiếp tục tạm giữ Số tiền 29.800.000đ (hai mươi chín triệu tám trăm nghìn đồng) để đảm bảo thi hành án.
Luật sư bào chữa cho bị cáo thống nhất về tội danh, điều luật mà Viện kiểm sát truy tố; tuy nhiên bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, chủ động khắc phục một phần hậu quả, bị cáo có nhân thân tốt nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo có cơ hội sớm trở về làm ăn trả nợ cho các bị hại.
Bị cáo thống nhất lời trình bày của Luật sư và không có ý kiến tranh luận gì thêm.
Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến tranh luận. Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo xin lỗi các bị hại, bị cáo đã ăn năn hối cải và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác đều không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về nội dung: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo khai nhận, do cần tiền để chơi game trên mạng và sử dụng cá nhân, trong khoảng thời gian từ cuối năm 2021 đến tháng 8 năm 2022, Nguyễn Hữu C đã nhiều lần thực hiện hành vi lừa đảo, chiếm đoạt tài sản của nhiều bị hại trên địa bàn thành phố Bảo L, huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng; tỉnh Ninh Thuận, tỉnh Quảng Nam và tỉnh Thanh Hóa với tổng số tiền bị cáo đã chiếm đoạt là 562.718.182 đồng.
Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với Kết luận giám định, vật chứng thu giữ, lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Hữu C phạm vào tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự 2015; Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng truy tố là đúng quy định pháp luật.
[3] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng; đã xâm hại đến khách thể quyền sở hữu tài sản của cá nhân, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại nhiều địa phương. Do vậy, cần quyết định mức án nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
[4] Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; đánh giá nhân thân, bị cáo.
Bị cáo phạm tội nhiều lần nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng theo điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
Quá trình điều tra, bị cáo thành khẩn khai báo, khắc phục một phần hậu quả, nên áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Việc Luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị áp dụng diểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự là không có căn cứ chấp nhận, vì bị cáo chiếm đoạt số tiền lớn, gia đình chỉ khắc phục được 20.000.000 đ.
[5] Về bồi thường thiệt hại: Buộc bị cáo Nguyễn Hữu C có trách nhiệm bồi thường cho anh Trần Thế M số tiền 156.000.000đ; chị Vương Thị Thùy D số tiền 54.000.000đ; Nguyễn Thế Q số tiền 20.000.000đ; Trương Văn Tr số tiền 10.000.000đ; Nguyễn Thái Duy Ph số tiền 40.000.000đ; Nguyễn Hữu C số tiền 14.000.000đ; Nguyễn Ngọc Th số tiền 20.000.000đ; bị hại Vũ Ngọc Kh số tiền 12.500.000đ; ông Vũ Văn V số tiền 8.000.000đ; Nguyễn Nhật Tr số tiền 22.000.000đ; Mai Trần Anh D số tiền 42.400.000đ; Nguyễn Tiến B số tiền 24.000.000đ; Trần M L số tiền 39.000.000đ; Vũ Văn Hi số tiền 20.000.000đ; Phạm Ngọc B số tiền 16.000.000đ.
[6] Về xử lý vật chứng:
- Tịch thu sung ngân sách Nhà nước tài sản bị cáo dùng vào việc phạm tội:
01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen; Imei: 355870668943316, không gắn sim; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu xanh; Imei: 353220820923230, không gắn sim; 01 (một) điện thoại Nokia màu trắng. Số imei: 353164111211907. Gắn sim 1 số: 097X2997, gắn sim 2 số: 0948X306;
- Trả lại bị cáo 01 (một) thẻ ATM mang tên Nguyễn Hữu C-ngân hàng VIETCOMBANK, số thẻ: 452404186700820; 01 (một) sim di động của mạng Viettel 4G có các số: 8984048000336157190; 01 (một) sim di động mạng Vinaphone có các số 898402000 – Vinaphone – 1124X1029.
- Tiếp tục tạm giữ số tiền 29.800.000đ (hai mươi chín triệu tám trăm nghìn đồng) để đảm bảo thi hành án.
[7] Ngoài các hành vi lừa đảo trên, Nguyễn Hữu C còn thừa nhận: Bằng thủ đoạn đưa thông tin gian dối về việc mua bán xe máy xúc, C đã chiếm đoạt tiền của những người sau:
+ Chiếm đoạt của ông Hoàng Tu, sinh năm: 1987, HKTT: Thôn 8, xã Quảng Khê, huyện Đắk Glong, tỉnh Đắk Nông số tiền 14.000.000 đồng (Mười bốn triệu đồng). Cơ quan CSĐT đã tiến hành mời ông Hoàng Tu làm việc để cung cấp tài liệu, chứng cứ liên quan đến vụ việc, tuy nhiên ông Hoàng Tu không nhận giấy mời và từ chối làm việc với Cơ quan Công an. Ông Tu không có yêu cầu gì và cam kết sẽ không có khiếu kiện, khiếu nại về sau. Vì vậy, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Lâm Đồng không đủ căn cứ để xử lý hành vi của Nguyễn Hữu C liên quan đến vụ việc này.
+ Chiếm đoạt của ông Đỗ Thành S, sinh năm: 1987; HKTT: Thôn 6, xã Tân Lâm, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng số tiền 119.000.000 đồng (Một trăm mười chín triệu đồng). Tuy nhiên người tố cáo là bà Nguyễn Thị Yến Nh, sinh năm: 1995, nơi thường trú: Tổ 7, phường L, thành phố Bảo L (là người sống chung với Đỗ Thành S, theo lời bà Nh thì ông S ủy quyền cho bà tố cáo) gửi đơn tố cáo Nguyễn Hữu C. Quá trình điều tra, Cơ quan CSĐT đã nhiều lần triệu tập ông S lên làm việc, bà Nguyễn Thị Yến Nh đã nhiều lần nhận giấy triệu tập và thông báo cho ông S nhưng ông S không lên làm việc, hiện không có mặt tại địa phương. Ngày 09/06/2023, bà Nh có đơn xin rút đơn tố cáo Nguyễn Hữu C, không yêu cầu xử lý vụ việc. Vì vậy, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Lâm Đồng không đủ căn cứ để xử lý hành vi của Nguyễn Hữu C liên quan đến vụ việc này.
Đối với chủ tài khoản ngân hàng Vietcombank số 0561000X290 là tài khoản của anh Trần Quốc T, sinh năm: 1984, HKTT: số 54, đường Lê Hồng Ph, phường 1, thành phố Bảo L. Anh T làm nghề kinh doanh dịch vụ cầm đồ và nhận gửi chuyển tiền qua tài khoản ngân hàng có thu phí tại thành phố Bảo L. Thời điểm trước khi xảy ra sự việc, C đến cầm cố tài sản tại cửa tiệm cầm đồ của anh T, do đó C đã dùng số tài khoản của anh T để sử dụng trong quá trình thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản nêu trên. Tuy nhiên, bản thân T không biết, không liên quan đến việc trao đổi, thoả thuận giữa C với bị hại; không có mối quan hệ gì với những chủ tài khoản C yêu cầu nhận tiền, chuyển tiền; không biết số tiền trên là do C phạm tội mà có, khi phạm tội, bị cáo đã giới thiệu với bị hại, bị cáo tên T và cung cấp số tài khoản tên T cho phù hợp. Vì vậy, không có căn cứ để xem xét trách nhiệm đối với Trần Quốc T trong vụ án này.
Đối với số tiền chiếm đoạt của các bị hại, Nguyễn Hữu C trình bày, ngoài việc sử dụng để tiêu xài cá nhân và trả tiền nợ cho tiện cầm đồ thì bị cáo còn sử dụng để chuyển vào các game đánh bài Online trên mạng, tuy nhiên C không nhớ về App chơi game cũng như các tài khoản đăng nhập các game này, không nhớ đã chuyển tiền vào các tài khoản nào để chơi game đánh bài. Chủ tài khoản nhận tiền là Trần Quốc T trình bày, do T làm nghề kinh doanh dịch vụ cầm đồ và nhận gửi, chuyển tiền qua tài khoản ngân hàng, hàng ngày giao dịch chuyển khoản cho rất nhiều khách hàng với nhiều tài khoản khác nhau, vì vậy ông T không nhớ chính xác số tài khoản nào mà C đã yêu cầu ông chuyển tiền vào nên Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Lâm Đồng đã tách ra tiếp tục kiểm tra, xác minh xử lý sau.
[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm tương ứng với số tiền phải tiếp tục bồi thường theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu C phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
2. Về hình phạt: Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015; xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu C 13 (mười ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 12/8/2022.
3. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 46, Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 2015, các Điều 584, 586, 587 khoản 1 Điều 589 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Buộc bị cáo Nguyễn Hữu C có trách nhiệm bồi thường cho anh Trần Thế M số tiền 156.000.000đ; chị Vương Thị Thùy D số tiền 54.000.000đ; Nguyễn Thế Q số tiền 20.000.000đ; Trương Văn Tr số tiền 10.000.000đ; Nguyễn Thái Duy Ph số tiền 40.000.000đ; Nguyễn Hữu C số tiền 14.000.000đ; Nguyễn Ngọc Th số tiền 20.000.000đ; Vũ Ngọc Kh số tiền 12.500.000đ; ông Vũ Văn V số tiền 8.000.000đ; Nguyễn Nhật Tr số tiền 22.000.000đ; Mai Trần Anh D số tiền 42.400.000đ; Nguyễn Tiến B số tiền 24.000.000đ; Trần M L số tiền 39.000.000đ; Vũ Văn Hi số tiền 20.000.000đ; Phạm Ngọc B số tiền 16.000.000đ.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.
Tr hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
4. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 - Tịch thu sung ngân sách Nhà nước tài sản bị cáo dùng vào việc phạm tội:
01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen; Imei: 355870668943316, không gắn sim; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu xanh; Imei: 353220820923230, không gắn sim; 01 (một) điện thoại Nokia màu trắng. Số imei: 353164111211907. Gắn sim 1 số: 097X2997, gắn sim 2 số: 0948X306;
- Trả lại bị cáo 01 (một) thẻ ATM mang tên Nguyễn Hữu C-ngân hàng VIETCOMBANK, số thẻ: 452404186700820; 01 (một) sim di động của mạng Viettel 4G có các số: 8984048000336157190; 01 (một) sim di động mạng Vinaphone có các số 898402000 – Vinaphone – 1124X1029.
- Tiếp tục tạm giữ số tiền 29.800.000đ (hai mươi chín triệu tám trăm nghìn đồng) để đảm bảo thi hành án.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 15/9/2023; Số tiền theo biên lai thu tiền số 0000409 ngày 14/9/2023)
5. Về án phí: Áp dụng các Điều 135; 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo Nguyễn Hữu C phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 26.508.500 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí M để xét xử phúc thẩm. Người vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật. Người liên quan chỉ được quyền kháng cáo phần có liên quan./.
Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 62/2023/HS-ST
Số hiệu: | 62/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Lâm Đồng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/11/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về