Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 56/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ QUẢNG NGÃI, TỈNH QUẢNG NGÃI

BẢN ÁN 56/2023/HS-ST NGÀY 17/05/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Các ngày 16 và ngày 17 tháng 5 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Q mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 59/2023/TLST - HS ngày 03 tháng 4 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 114/2023/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 4 năm 2023 đối với các bị cáo:

1. Hồ Đắc T, sinh ngày 30 tháng 9 năm 1996 tại thành phố Đà Nẵng.

Nơi cư trú: Tổ 23, phường N, quận H, thành Phố Đà Nẵng, nghề nghiệp: Phụ hồ; trình độ văn hoá (học vấn): 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con bà Hồ Thị Diệu O, cha không xác định; chưa có vợ; tiền sự: Không; Tiền án: Có 01 tiền án. Ngày 13/01/2020, bị Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 03/2020/HS-ST.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp tạm giam từ ngày 24/3/2022 đến nay. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Q; có mặt tại phiên tòa.

2. Hồ Văn Tr, sinh ngày 27 tháng 7 năm 1997 tại thành phố Đà Nẵng.

Nơi cư trú: Tổ 23, phường N, quận H, thành Phố Đà Nẵng, nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hoá (học vấn): 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Hồ Văn H và bà Hứa Thị Như N; có vợ tên Huỳnh Thị Minh Ng và 02 đứa con sinh năm 2018 và 2021; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo Hồ Văn Tr bị áp dụng biện pháp tạm giam từ ngày 13/02/2023 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Q; có mặt.

Bị hại:

1. Bà Phạm Thị Ánh K, sinh năm 1991; địa chỉ: Tổ dân phố L, phường T, thành phố Q, tỉnh Q, có mặt.

2. Chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1997; địa chỉ thường trú: Thôn 02, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Nam. Nơi ở hiện tại: Tổ 29, phường H, quận C, Thành phố Đà Nẵng, có mặt.

3. Bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1986; địa chỉ: Thôn T, xã B, huyện Bình Sơn, tỉnh Q, vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Anh Nguyễn Công Ch, sinh năm 1991;

+ Anh Nguyễn Chính T1, sinh năm 2000;

Cùng địa chỉ hộ khẩu thường trú: Thôn P, xã Q, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, anh Ch có mặt, anh T1 vắng mặt.

+ Ông Hồ Văn H, sinh năm 1972; địa chỉ: Tổ 23, phường Nam Dương, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, có mặt.

+ Anh Đỗ Huy H1, sinh năm 1999; địa chỉ: Tổ 48, phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng, có mặt.

+ Ông Nguyễn Văn Đ1, sinh năm 1990; địa chỉ: Tổ dân phố L, phường T, thành phố Q, tỉnh Q, có mặt.

+ Nguyễn Thị Y, sinh năm 1983; địa chỉ: Tổ 7, phường L, thành phố Q, tỉnh Q, có mặt.

+ Chị Huỳnh Thị Minh Ng, sinh năm 1998; địa chỉ: K90 H14 01C N, phường N, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Quá trình sử dụng mạng xã hội Facebook, Hồ Đắc T biết có nhiều tài khoản đăng bán kít test nhanh Covid-19 và biết đã có người bị lừa thông qua việc mua bán kít test nhanh Covid-19 nên đã nảy sinh ý định lừa người khác bằng thủ đoạn bán kít test nhanh trên facebook cá nhân nhằm chiếm đoạt tài sản. Hồ Đắc T đã thực hiện các vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản, cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Ngày 07/3/2022, Hồ Đắc T đưa cho Hồ Văn Tr 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) nhờ Tr mua 01 (một) sim điện thoại. Sau khi mua sim điện thoại số thuê bao 076652xxxx, Tr đưa cho T để kích hoạt sim. Sau đó, T mượn điện thoại di động hiệu XIAOMI POCO X3 PRO của Tr để tạo tài khoản Facebook tên “V” rồi tháo sim ra, trả điện thoại cho Tr. Sau khi tạo tài khoản Facebook “V”, T đăng tải thông tin bán kít xét nghiệm test nhanh Covid-19 trên nhóm Facebook “Mua bán Thiết bị Y tế Đà Nẵng” và một số nhóm mua bán thiết bị y tế khác. Đến khoảng 13 giờ ngày 08/3/2022, Phạm Thị Ánh K sử dụng tài khoản Facebook tên “T” thấy bài đăng bán kít test nhanh với giá rẻ nên nhắn tin hỏi giá và đặt mua. Chị K đặt mua 1.500 kít test Vũ Hán với số tiền 63.000.000 đồng (Sáu mươi ba triệu đồng). Sau khi thỏa thuận với chị K, T lên mạng Facebook tìm mua 1.500 kít test Vũ Hán, một tài khoản Facebook đồng ý bán cho T. T yêu cầu người bán chở đến địa chỉ số 01 Nhơn Hoà Phước, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng để xem hàng. Sau đó, T nhắn tin cho chị K. Chị K nhờ người quen đến đại chỉ trên để xem hàng. Khi xác nhận chị K đã xem hàng xong, T qua nhà Tr hỏi mượn tài khoản ngân hàng của Tr để nhận chuyển tiền lừa đảo được của K. Tr hỏi T thì biết được T lừa đảo chiếm đoạt được tiền của người khác, vì sợ bị lộ nên Tr nói với T “vợ cầm điện thoại đi nên không có mã OTP”.

Sau đó Tr nói với T lên mạng tìm người hành nghề dịch vụ giao nhận tiền chuyển khoản có trả phí để nhận tiền chuyển khoản; nghe vậy T liên hệ với anh Nguyễn Công Ch làm dịch vụ giao nhận tiền chuyển khoản có trả phí. Nguyễn Công Ch cho T số tài khoản 030245678xxxx của Ch mở tại Ngân hàng Quân đội. Thắng nhắn tin số tài khoản này cho chị K. Do tài khoản của Ch bị lỗi nên không chuyển tiền được, T liên lạc lại với Ch thì Ch cho tài khoản ngân hàng TMCP Á Châu số 287xxxx của em ruột là Nguyễn Chính T1, sau khi có được tài T nhắn tin số tài khoản này cho K. Chị K nhờ Nguyễn Văn Đ1, Nguyễn Thị Y chuyển vào tài khoản trên 02 lần, lần 01: 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng), lần 2:

13.000.000 đồng (Mười ba triệu đồng), tổng cộng là 63.000.000 đồng (Sáu mươi ba triệu đồng). Sau khi chuyển số tiền 63.000.000 đồng vào tài khoản tên Nguyễn Chính Tr nhưng người bán không giao hàng vì cho rằng chưa nhận được tiền. Chị K không liên lạc được với T vì sau khi biết chị K đã chuyển tiền, T chặn số điện thoại, Facebook của chị K; lúc này chị K mới biết mình đã bị lừa. Hồ Đắc T liên lạc với Nguyễn Công Ch hẹn địa điểm nhận tiền.

Khoảng 17 giờ 30 phút cùng ngày, T qua nhà nói Tr chở đến công viên 29/3 để nhận tiền lừa đảo được. Tr đưa xe mô tô cho T điều khiển xe chở Tr đi lấy tiền; khi đi đến đầu đường Nguyễn Văn Linh, thành phố Đà Nẵng thì điện thoại T hết pin. T hỏi Tr mượn điện thoại nhưng Tr không có. Sau đó Tr nói T đến chỗ làm của cha Tr là ông Hồ Văn H để mượn điện thoại. T chở Tr đến quán cà phê “Út Tịch” nơi cha ruột của Tr đang làm. Tr vào mượn điện thoại và đưa cho T lắp sim vào để liên lạc với người nhận tiền. T tiếp tục điều khiển xe chở Tr đến công viên 29/3, đến nơi T dừng xe và đi bộ qua bên kia đường gặp người nhận tiền, Tr ở lại trông xe. Sau khi nhận tiền và trả phí cho Ch, T chở Tr về nhà, khoảng 15 phút sau, T qua nhà đưa cho Tr 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng) còn lại số tiền 42.750.000 đồng T sử dụng tiêu xài cá nhân Vụ thứ hai: Cũng trong ngày 08/3/2022, Nguyễn Thị L (sinh năm 1997, HKTT: Thôn 02, xã T, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam) sử dụng Facebook “L” nhắn tin đến tài khoản Facebook “V” của T hỏi mua kit test nhanh Covid-19; giữa T và chị L thoả thuận giá. Sau khi chị L đồng ý mua 1.000 kít test nhanh Covid-19 Vũ Hán giá 43.500.000 đồng (Bốn mươi ba triệu năm trăm ngàn đồng) thì T liên hệ với một tài khoản Facebook (T không nhớ tên) hỏi mua 1.000 kít test Vũ Hán và yêu cầu người bán chở kít đến số 02/31 đường Đinh Thị Hoà, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng. Lúc này, T thông tin cho chị L đến địa chỉ trên để xem và nhận hàng, đồng thời cho chị L số điện thoại 076652xxxx và 0785100737 để liên lạc. Sau đó, T liên lạc với Nguyễn Công Ch nhờ anh Ch nhận tiền chuyển khoản, rút giùm. Anh Ch cho T tài khoản ngân hàng Quân đội số 030245678xxxx (MBBank), T nhắn cho chị L số tài khoản này. Sau đó, chị L đến địa chỉ do T cung cấp kiểm tra hàng thì gặp người đàn ông (Không xác định lai lịch) và hỏi mua kit test theo hướng dẫn của T, rồi một người phụ nữ chở đến 01 (một) thùng kít test, chị L kiểm tra đủ lượng kít đặt mua nên chuyển 43.500.000 đồng (Bốn mươi ba triệu năm trăm ngàn đồng) vào tài khoản ngân hàng (MBBank) số 030245678xxxx của Nguyễn Công Ch. Sau khi chuyển tiền, Nguyễn Thị L bê thùng kít test lên xe và đưa hình chuyển khoản thành công số tiền 43.500.000đ qua internetbanking cho người đàn ông xem, thì người đàn ông nói không quen với người nhận tiền và không cho chị L nhận hàng, chị L liên lạc lại tài khoản facbook “V” nhưng bị chặn thì biết là bị lừa. Còn Hồ Đắc T liên lạc với anh Ch lấy 43.500.000 đồng (Bốn mươi ba triệu năm trăm ngàn đồng), trả phí 100.000 đồng (Một trăm ngàn đồng) cho Ch. Số tiền chiếm đoạt T sử dụng tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ ba: Ngày 11/3/2022, Cũng với hành vi và thủ đoạn như trên, Hồ Đắc T đổi tài khoản Facebook “V” thành “Lê Hoàng Vũ”. Chị Nguyễn Thị Đ sử dụng Facebook “Dương Đào” nhắn tin và thoả thuận hỏi T mua 57 hộp kít test Vũ Hán, giá 44.460.000 đồng (Bốn mươi bốn triệu bốn trăm sáu mươi ngàn đồng). Sau khi thoả thuận, T nhắn tin cho chị Đ số lượng kít test Vũ Hán không đủ, thì chị Đ nói không mua. Sau đó, T hạ giá bán kít hiệu Lap là 39.000 đồng/kít, chị Đ đồng ý mua 32 hộp kít test Vũ Hán và 25 hộp kít test Lap, số tiền 44.460.000 đồng (Bốn mươi bốn triệu bốn trăm sáu mươi ngàn đồng). Hồ Đắc T nhắn cho chị Đ số tài khoản ngân hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam (Techcombank) số 1903605296xxx của anh Đỗ Huy H là người làm dịch vụ giao nhận tiền có trả phí. Sau khi nhờ người quen ở thành phố Đà Nẵng kiểm tra hàng, Nguyễn Thị Đ chuyển 44.460.000 đồng (Bốn mươi bốn triệu bốn trăm sáu mươi ngàn đồng) vào tài khoản của Đỗ Huy H. Sau khi xác nhận tiền đã vào tài khoản của H thì T khoá Facebook “Lê Hoàng Vũ”, tắt điện thoại, rồi liên lạc với anh H rút tiền mang đến đường Nguyễn Hoàng, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng đưa cho T. Sau khi nhận tiền, Hồ Đắc T trả cho H 150.000 đồng (Một trăm năm mươi ngàn đồng). Số tiền còn lại, T tiêu xài cá nhân.

Như vậy, Hồ Đắc T chiếm đoạt của các bị hại Phạm Thị Ánh K, Nguyễn Thị L, Nguyễn Thị Đ tổng số tiền là 150.960.000 đồng (Một trăm năm mươi triệu chín trăm sáu mươi nghìn đồng).

Ngoài ra, trong quá trình điều tra Hồ Đắc T còn khai nhận trước đó vào tháng 02 năm 2022, cũng với hành vi và thủ đoạn như trên, Hồ Đắc T đã thực hiện 04 (bốn) vụ lừa đảo chiếm đoạt được tổng số tiền 195.000.000 đồng. Cơ quan điều tra đã thông báo tìm bị hại, nhưng đến nay vẫn chưa xác định được nên không có cơ sở để xem xét xử lý.

Bản cáo trạng số 75/CT-VKS ngày 02/4/2023, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Q đã truy tố các bị cáo Hồ Đắc T, Hồ Văn Tr về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự và đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo là thành khẩn khai báo, bồi thường thiệt hại, người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt; tình tiết tăng nặng đối với bị cáo Hồ Đắc T là tái phạm, phạm tội 02 lần trở lên.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Q giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 174, các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, các điểm g, h, l (lợi dụng dịch bệnh) khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 58, Điều 38 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Hồ Đắc T từ 03 (ba) năm đến 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù.

Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 174, các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm l khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 58, Điều 38 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Hồ Văn Tr từ 02 (hai) năm đến 02 9hai) năm 03 (ba) tháng tù.

Và đề nghị về phần dân sự, xử lý vật chứng.

Bị cáo Hồ Đắc T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã truy tố, bị cáo nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật, nguy hiểm cho xã hội; bị cáo không có ý kiến tranh luận gì, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt.

Bị cáo Hồ Văn Tr thừa nhận có hành vi giúp cho Hồ Đắc T như: Mua hộ sim điện thoại, cho mượn điện thoại hiệu XIAOMI POCO X3 PRO để thắng tạo tài khoản Facebook, bảo T mượn tài khoản của những người làm nghề nhận chuyển tiền có thu phí, mượn điện thoại của ông H đưa cho T để liên lạc và đưa xe mô tô cho T để cùng đi đến địa điểm nhận tiền, được T chia 20.000.000 đồng từ số tiền lừa được. Bị cáo chỉ biết T lừa tiền người khác từ lúc T mượn xe và nhờ cùng đi tìm người nhận tiền giúp để lấy tiền. Bị cáo thừa nhận hành vi giúp sức của bị cáo là vi phạm pháp luật, biết Hồ Đắc T lừa tiền của người khác mà vẫn nhận số tiền 20.000.000 đồng để tiêu xài cá nhân nên xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Q, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Q, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị hại Nguyễn Thị Đ vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Chính Tr vắng mặt. Xét thấy bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã có lời khai trong hồ sơ vụ án, việc vắng mặt của họ không ảnh hưởng và gây trở ngại đến quá trình xét xử vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 292 của Bộ luật tố tụng hình sự vẫn tiến hành xét xử theo thủ tục chung.

[3] Về hành vi phạm tội của các bị cáo:

Tại phiên tòa, bị cáo Hồ Đắc T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Q đã truy tố. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra, truy tố; phù hợp với lời khai của các bị hại và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định: Hồ Đắc T không hành nghề buôn bán kít test Covid-19 nhưng để có tiền tiêu xài, bị cáo tạo tài khoản facebook và sử dụng tài khoản Facebook copy nội dung tin bài bán kít test nhanh Covid-19 của tài khoản Facebook khác rồi đăng trên Facebook “V”, “Lê Hoàng Vũ” của T. Khi có người hỏi mua thì T nhắn tin qua Facebook, Zalo trao đổi, thoả thuận giá, hạ giá, cung cấp địa chỉ cho người mua kiểm tra hàng, làm cho người mua tin việc bán kít test Covid-19 của bị cáo T là thật, nên chuyển tiền vào tài khoản ngân hàng do T cung cấp. Sau khi xác nhận người mua đã chuyển tiền, Hồ Đắc T chặn điện thoại, chặn facebook, rồi nhờ người nhận và rút tiền qua tài khoản ngân hàng có trả phí (Shipper) để lấy tiền. Với hành vi và thủ đoạn như trên, từ ngày 08/3/2022 đến ngày 11/3/2022, Hồ Đắc T đã chiếm đoạt của Phạm Thị Ánh K số tiền 63.000.000 đồng (Sáu mươi ba triệu đồng), Nguyễn Thị L số tiền 43.500.000 đồng (Bốn mươi ba triệu năm trăm nghìn đồng) và Nguyễn Thị Đ 44.460.000 đồng (Bốn mươi bốn triệu bốn trăm sáu mươi nghìn đồng). Tổng cộng là 150.960.000 đồng (Một trăm năm mươi triệu chín trăm sáu mươi nghìn đồng).

Hồ Văn Tr biết rõ Hồ Đắc T thực hiện hành vi lừa đảo để chiếm đoạt tài sản qua tài khoản facebook, nên đã chỉ có T tìm người làm dịch vụ nhận chuyển tiền có thu phí (Shipper) để nhận tiền giùm, mượn điện thoại của cha ( ông Hoành) để thắng liên lạc, sử dụng xe mô tô chở T đi nhận 63.000.000đ (Sáu mươi ba triệu đồng) từ việc lừa đảo của chị Phạm Thị Ánh K và được chia số tiền 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng); mặc dù tại phiên tòa Hồ Văn Tr khai lý do trí không cho T mượn số tài khoản để T cung cấp cho người mua hàng chuyển tiền là do không có mã OTP, Tr không nói với T là sợ bị lộ, chỉ biết T lừa tiền của người khác từ thời điểm Thắng nhờ Tr chở đến Công viên 29/3 Đà Nẵng để nhận tiền. Hồi đồng xét xử xét thấy lời khai nại của Hồ Văn Tr tại phiên tòa mâu thuẫn với các lời khai, bản tự khai của Tr các ngày 18, 19, 20 tháng 3 năm 2023 tại Phòng An ninh mạng và phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao Công an tỉnh Q (PA05); tại các bút lục trên Tr khai nhận “chiều ngày 07/3/2023 Hồ Đắc T...qua nhà tôi nhờ tôi mua một sim điện thoại để về tạo lập facebook, mục đích để lừa đảo qua mạng bằng hình thức bằng hình thức mua bán kit xét nghiệm, tôi đồng ý và mua 01 sim điện thoại...”. Như vậy Hồ Văn Tr đã biết T lừa đảo chiếm đoạt tài sản người khác bằng hành vi bán kít test trên facebook nên Tr không giám cho T mượn số tài khoản để T nhận chuyển tiền mà bảo thắng tìm người làm nghề nhận chuyển tiền có thu phí nên có đủ cơ sở kết luận Hồ Văn Tr đồng phạm với Hồ Đắc T với vai trò giúp sức trong vụ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản của Phạm Thị Ánh K vào ngày 08/3/2022.

Hành vi dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác tổng số tiền 150.960.000 đồng nên đã phạm tội “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm c, khoản 2 Điều 174 Bộ luật hình sự. Vì vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Q truy tố các bị cáo Hồ Đắc T, Hồ Văn Tr là đúng người, đúng tội và phù hợp với quy định của pháp luật.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[4.1] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo Hồ Đắc T đã bị Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng xử phạt 09 tháng tù về tội trộm cắp tài sản tại bản án số 03/2020/HS-ST ngày 13/01/2020, đã chấp hành xong hình phạt nhưng chưa được xóa án tích, bị cáo lợi dụng tình hình dịch bệnh Covid -19 diễn biến phức tạp, thời điểm đầu năm 2022 nhu cầu sử dụng kít test nhanh cao, số lượng kít test tại một số địa phương khan hiếm cục bộ; lợi dụng tình hình trên bị cáo đã 03 lần thực hiện hành vi phạm tội nên nên thuộc trường hợp tái phạm, phạm tội 02 lần trở lên và lợi dụng dịch bệnh để phạm tội quy định tại các điểm g, h, l khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Bị cáo Hồ Văn Tr đồng phạm nên phải chịu tình tiết lợi dụng dịch bệnh để phạm tội quy định tại điểm l khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[4.2] Về tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo đã thành khẩn khai báo, đã bồi thường thiệt hại cho những người bị hại nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Các bị cáo Hồ Đắc T, Hồ Văn Tr là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự; nên cần phải xử phạt tù và cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo tu dưỡng, rèn luyện trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Hồ Đắc T đã trả lại cho chị Phạm Thị Ánh K 43.000.000 đồng; Nguyễn Thị Đ 44.460.000 đồng (Bốn mươi bốn triệu bốn trăm sáu mươi ngàn đồng); Hồ Văn Tr đã trả lại cho chị K số tiền 20.000.000 đồng.

Chị K và Đ không yêu cầu gì thêm. Nguyễn Thị L đã nhận 23.000.000đ (Hai mươi ba triệu đồng), số tiền còn lại 20.500.000 đồng (Hai mươi triệu năm trăm ngàn đồng), chị L yêu cầu T tiếp tục bồi thường nên buộc Hồ Đắc T phải bồi thường cho chị Nguyễn Thị L số tiền 20.500.000 đồng .

[6] Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu nộp Ngân sách nhà nước: Điện thoại di động, nhãn hiệu XIAOMI REDMI NOTE 10 5G, màu xanh, bên trong có 02 sim điện thoại được đựng trong túi niêm phong mã số PS3 2015860.

- Đối với điện thoại di động nhãn hiệu XIAOMI POCO X3 PRO, màu đen và điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA, màu đen cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu là chị Huỳnh Thị Minh Ng và Ông Hồ Văn H; chị Ng và ông H không có yêu cầu gì nên không xem xét.

[7] Đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát về tội danh, các tình tiết giảm nhẹ, loại hình phạt đối với bị cáo phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[8] Các bị cáo phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt:

Tuyên bố bị cáo Hồ Đắc T, Hồ Văn Tr phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 174, các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, các điểm g, h, l khoản 1 Điều 52, Điều 38 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Hồ Đắc T từ 04 năm 06 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị bắt tạm giam là ngày 24/3/2022 Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 174, các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm l khoản 1 Điều 52, Điều 38 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Hồ Văn Tr từ 02 năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị bắt tạm giam là ngày 13/02/2023.

2. Về trách nhiệm dân sự:

Căn cứ Điều 48 Bộ luật hình sự; buộc Hồ Đắc T phải bồi thường cho chị Nguyễn Thị L số tiền 20.500.000 đồng.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015;

Tịch thu nộp Ngân sách nhà nước: 01 Điện thoại di động, nhãn hiệu XIAOMI REDMI NOTE 10 5G, màu xanh, bên trong có 02 sim điện thoại được đựng trong túi niêm phong mã số PS3 2015860.

Vật chứng trên có đặc điểm theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 15 tháng 5 năm 2023 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Q với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Q.

4. Về án phí: Căn cứ vào Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo Hồ Đắc T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và 1.025.000 đồng án phí dân sự; bị cáo Hồ Văn Tr phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015; các bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

17
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 56/2023/HS-ST

Số hiệu:56/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Quảng Ngãi - Quảng Ngãi
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:17/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về