Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 55/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH PT

BẢN ÁN 55/2023/HS-PT NGÀY 07/08/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 07 tháng 8 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh PT đưa ra xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 79/2023/TLPT-HS ngày 30 tháng 6 năm 2023 do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Ngọc A đối với Bản án hình sơ thẩm số 27/2023/HS-ST ngày 26 tháng 5 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện PN, tỉnh PT đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Thị Ngọc A, sinh ngày 26/5/2004 tại tỉnh Vĩnh Phúc;

tên gọi khác: không; nơi ĐKHKTT: Khu Nam Tiến, thị trấn Phong Ch, huyện PN, tỉnh PT; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Quốc V và bà Nguyễn Thị Thu H; Chồng, con: chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 146/HS-ST ngày 22/6/2021 Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội xử phạt 08 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” Ngày 29/9/2021 Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội ra Quyết định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm số 614/2021/HSPT-QĐ. Tại bản án hình sự sơ thẩm số 143/HS-ST ngày 28/12/2021 Tòa án nhân dân huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội xử 06 tháng tù về tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản”. Ngày 19/12/2020 Công an quận Hoàn K, thành phố H ra quyết định xử phạt hành chính số 09 về hành vi “Dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản của người khác”. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 24/3/2023 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam công an tỉnh PT.

Bị hại: Anh Lý Văn T, sinh năm 1992; HKTT: Thôn Nà Chuồng, xã Ninh H, huyện Vị X, tỉnh Hà G; Chỗ ở hiện nay: Khu Tầm Vông, thị trấn Phong Ch, huyện PN, tỉnh PT (Tòa án không triệu tập) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Quốc V, sinh năm 1979 (là bố đẻ của bị cáo A); Đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Khu Nam Tiến, thị trấn Phong Ch, huyện PN, tỉnh PT (Tòa án không triệu tập)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 05/2022, do bị cáo không có việc làm nên bị cáo nảy sinh ý định lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Qua tìm hiểu trên mạng, bị cáo thấy có hình thức đặt mua hàng qua mạng và thanh toán khi nhận hàng. Do vậy, ngày 25/5/2022, bị cáo sử dụng điện thoại di động OPPO bên trong có lắp thẻ sim số 0784.223.6xx để vào trang thương mại điện tử Shopee đặt mua 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 13 Pro, 256GB, Blue tại gian hàng Shopdunk với giá tiền là 28.951.000 đồng. Khi mua hàng, bị cáo lấy tên người mua hàng là Trương Mỹ Linh, địa chỉ: Nhà nghỉ Thúy Vân, 35, đường Nam Tiến, thị trấn Phong Ch, huyện PN, tỉnh PT, số điện thoại 0784.223.6xx. Khoảng 08 giờ ngày 01/6/2022, anh Lý Văn T, sinh năm 1992; Nơi ĐKHKTT: Thôn Nà Chuồng, xã Ninh H, huyện Vị X, tỉnh Hà G; Chỗ ở hiện nay: Khu Tầm Vông, thị trấn Phong Ch, huyện PN, tỉnh PT được chị Triệu Thị Ng, sinh năm 1992; địa chỉ: khu 6A, phường Nông T, thành phố Việt T, tỉnh PT là quản lý chi nhánh của công ty TNHH Shopee Express có địa chỉ: khu 7, thị trấn Phong Ch, huyện PN, tỉnh PT phân công đi giao hàng điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 13 Pro, 256GB, Blue như trên cho bị cáo.

Đến khoảng 9h30 phút cùng ngày, anh T sử dụng số điện thoại 0989.625.xxx của mình gọi điện đến số điện thoại 0784.223.6xx của Ngọc A để giao hàng. Sau khi nhận điện thoại bị cáo nói với anh Tđịa điểm giao hàng là ở đoạn đường quốc lộ 2 đoạn lối rẽ vào nhà nghỉ Thúy V thuộc khu 4, thị trấn Phong Ch, huyện PN, tỉnh PT. Lúc này bị cáo sử dụng zalo có tên “Strawberryyyyyy” của bị cáo nhắn đến tài khoản zalo có tên “Lý Tứ” của anh Thỏi số tài khoản ngân hàng của anh Tđể thanh toán chiếc điện thoại bằng cách thức chuyển khoản cho anh T. Sau khi bị cáo nhận được số tài khoản 1018733456xx Ngân hàng Viettinbank của anh Tthì bị cáo đã lên mạng và tìm mẫu thông báo giao dịch của ngân hàng Tpbank gửi cho khách hàng. Bị cáo đã soạn sẵn nội dung “178510 CHUYEN TIEN LY VAN TU 1018733456xx VIETTINBANK 28951000VND ND MY LINH CHUYEN TIEN”, “(TPBANK) 01/6/2022; Giao dich so 178510 tu tai khoan TRUONG MY LINH 03484952xxx giao dich thanh cong 28.951.000VND SD KHA DUNG: 45.049.000VND ND: MY LINH CHUYEN TIEN” và lưu giữ ở phần ghi chú trong điện thoại mà bị cáo đang sử dụng. Đồng thời bị cáo lưu số điện thoại bị cáo đang sử dụng trong danh bạ điện thoại thành TPBANK. Sau đó bị cáo điều khiển xe đạp điện đi từ nhà thuộc khu Nam Tiến, thị trấn Phong Ch, huyện PN, tỉnh PT đến địa điểm đã hẹn anh Tđể nhận điện thoại.

Khi anh Tgặp bị cáo, anh xác nhận bị cáo đúng là người mình phải giao hàng thì anh Tcó giao cho bị cáo 01 kiện hàng, bên ngoài được bọc bởi một hộp bìa cát tông có ghi là điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 13 Pro, 256GB, Blue cho khách hàng có tên là Trương Mỹ Linh, địa chỉ: Nhà nghỉ Thúy Vân, 35, đường Nam Tiến, thị trấn Phong Ch, huyện PN, tỉnh PT với số tiền là 28.951.000 đồng, thanh toán bằng hình thức thu tiền khi giao hàng. Sau khi nhận hàng bị cáo vào ứng dụng tin nhắn điện thoại, chọn người nhận có tên TPBANK lưu trong danh bạ điện thoại, soạn nội dung tin nhắn là nội dung bị cáo đã soạn sẵn như trên (lưu giữ ở phần ghi chú trong điện thoại) và ấn gửi tin. Khi điện thoại của bị cáo nhận được tin nhắn với nội dung tin nhắn như trên thì bị cáo đã xóa nội dung tin nhắn gửi đi, chỉ giữ lại nội dung tin nhắn nhận. Lúc này nội dung tin nhắn bị cáo nhận được thể hiện TPBANK thông báo bị cáo đã chuyển khoản thành công số tiền 28.951.000 đồng đến số tài khoản Viettinbank của anh T. Thực chất bị cáo không có số tài khoản nào của Tpbank và bị cáo cũng không chuyển tiền cho anh T. Sau đó bị cáo mở tin nhắn vừa nhận được từ “TPBANK” trong mục tin nhắn của điện thoại mình cho anh Txem. Bị cáo chụp lại màn hình phần tin nhắn này rồi gửi lại cho anh Tđể anh Ttin tưởng. Khi anh Tnói với bị cáo chưa nhận được tiền thanh toán thì bị cáo nói với anh Tlà tài khoản mình bị trừ tiền rồi. Do anh Ttin tưởng nên anh đã đồng ý để bị cáo mang kiện hàng chứa điện thoại đi.

Tại kết luận định giá tài sản số 71 ngày 08/11/2022 của hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện PN xác định giá trị chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 13 Pro, 256GB, Blue là 29.000.000 đồng Tại cơ quan điều tra bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu ở trên và giao nộp 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 13 Pro, 256GB, Blue, số imei: 353631307511845, bên trong có lắp sim số 0963.208.1xx Tại bản án hình sự sơ thẩm số 27/2023/HSST ngày 26 tháng 5 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện PN, tỉnh PT đã quyết định:

Căn cứ khoản 1 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a, b khoản 3 Điều 106, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, Điều 13 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/11/2019 của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao, xử:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Ngọc A phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Ngọc A 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 24/3/2023.

Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo Nguyễn Thị Ngọc A.

Bản án còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo và các vấn đề khác đúng quy định của pháp luật.

Ngày 07/6/2023, bị cáo Nguyễn Thị Ngọc A có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh PT trình bày quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử, căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự.

Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số: 27/2023/HSST ngày 26 tháng 5 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện PN, tỉnh PT.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh luận; trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Kháng cáo của bị cáo trong hạn luật định, đơn hợp lệ được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Về những chứng cứ xác định hành vi phạm tội của bị cáo: Tại cơ quan điều tra, phiên tòa sơ thẩm và phiên tòa phúc thẩm, bị cáo đều khai nhận đã có hành vi phạm tội nêu trên. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ căn cứ xác định:

Ngày 01/6/2022, tại thị trấn Phong Ch, huyện PN, tỉnh PT, bị cáo đã thực hiện thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của anh Lý Văn T, sinh năm 1992; Nơi ĐKHKTT: Thôn Nà Chuồng, xã Ninh H, huyện Vị X, tỉnh Hà G; Chỗ ở hiện nay: Khu Tầm Vông, thị trấn Phong Ch, huyện PN, tỉnh PT là 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 13 Pro, 256GB, Blue trị giá 29.000.000 đồng. Hành vi phạm tội của bị cáo đủ dấu hiệu cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng:

Hành vi của của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó xâm phạm đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn. Tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo để xử phạt bị cáo 12 tháng tù là phù hợp với pháp luật. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, tuy nhiên tại phiên toà phúc thẩm bị cáo không xuất trình được thêm tình tiết giảm nhẹ khác để Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo. Do vậy, không có căn cứ xem xét giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Thị Ngọc A.

[4] Viện kiểm sát nhân dân tỉnh PT đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm, xét thấy đề nghị của Viện kiểm sát phù hợp với pháp luật nên được chấp nhận [5] Án phí phúc thẩm: Kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí phúc thẩm.

[6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử không xem xét, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị .

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1]. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Ngọc A.

Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số: 27/2023/HSST ngày 26/5/2023 của Tòa án nhân dân huyện PN, tỉnh PT.

[2]. Về tội danh, Điều luật áp dung và hình phạt.

Căn cứ khoản 1 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, Điều 48 Bộ luật hình sự.

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Ngọc A phạm tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Ngọc A 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 24/3/2023.

Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo Nguyễn Thị Ngọc A.

[3]. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết của Ủy ban thường vụ quốc hội số 326/2016/NQ-UBTVQH ngày 30/12/2016.

Bị cáo Nguyễn Thị Ngọc A phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm hình sự và 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí phúc thẩm hình sự.

[4]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị .

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

13
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 55/2023/HS-PT

Số hiệu:55/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:07/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về