TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
BẢN ÁN 550/2023/HS-PT NGÀY 17/07/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 17 tháng 7 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 331/2023/TLPT-HS ngày 30 tháng 3 năm 2023 đối với bị cáo Phạm Thị N, do có kháng cáo của bị cáo, người bị hại đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 18/2023/HS-ST ngày 14/02/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định.
* Bị cáo có kháng cáo, bị kháng cáo:
Phạm Thị N; giới tính: Nữ; tên gọi khác: Không; sinh ngày: 01/03/1968, tại huyện X, tỉnh Nam Định; nguyên quán: Xã X, huyện X, tỉnh Nam Định; nơi đăng ký thường trú: Xóm A, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 10/10; nghề nghiệp: Tự do; tiền án, tiền sự: Chưa; con ông: Phạm Ngọc N1 (liệt sĩ) và bà Nguyễn Thị L; sinh năm:
1946; có chồng là Vũ Văn T; sinh năm: 1966; bị cáo có 03 con, con lớn nhất sinh năm 1987, con nhỏ nhất sinh năm 1999; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 15/09/2022. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh N. Có mặt.
* Người bào chữa cho bị cáo theo chỉ định: Bà Đỗ Thị Minh T1, Luật sư thuộc Công ty L8 và cộng sự, Đoàn luật sư tỉnh Nam Định. Có mặt.
* Người bị hại có kháng cáo:
- Bà Phạm Thị O; Sinh năm: 1963; địa chỉ: Xóm B, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định. Vắng mặt.
- Chị Mai Thị L1; Sinh năm: 1989; địa chỉ: Xóm B, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định. Vắng mặt.
- Bà Lê Thị H; Sinh năm: 1960; địa chỉ: Xóm B, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định. Có mặt.
- Chị Lại Thị H1; Sinh năm: 1972; địa chỉ: Xóm B, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định. Có mặt.
- Bà Nguyễn Thị C; Sinh năm: 1962; địa chỉ: Xóm B, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định. Vắng mặt.
- Bà Đỗ Thị K; Sinh năm: 1965; địa chỉ: Xóm B, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định. Vắng mặt.
- Ông Vũ Kiên T2; Sinh năm: 1968; địa chỉ: Xóm B, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định. Có mặt.
- Bà Mai Thị L2; Sinh năm: 1968; địa chỉ: Xóm B, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định. Có mặt.
- Bà Mai Thị Thanh M; Sinh năm: 1968; địa chỉ: Xóm B, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định. Có mặt.
- Bà Phạm Thị T3; Sinh năm: 1963; địa chỉ: Xóm B, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định. Có mặt.
- Bà Phạm Thị Kim O1; Sinh năm: 1965; địa chỉ: Xóm B, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định. Có mặt.
- Chị Vũ Hồng N2; Sinh năm: 1977; địa chỉ: Xóm B, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định. Có mặt.
- Chị Mai Thị X; Sinh năm: 1970; địa chỉ: Xóm B, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định. Có mặt.
- Bà Nguyễn Thị N3; Sinh năm: 1953; địa chỉ: Xóm B, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định. Có mặt.
- Chị Nguyễn Việt H2; Sinh năm: 1980; địa chỉ: Xóm B, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định. Vắng mặt.
- Chị Phạm Thị D; Sinh năm: 1989; địa chỉ: Xóm B, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định. Vắng mặt.
- Chị Phạm Thị N4; Sinh năm: 1982; địa chỉ: Xóm B, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định. Có mặt.
- Chị Mai Thị T4; Sinh năm: 1975; địa chỉ: Xóm B, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định. Có mặt.
- Bà Phạm Thị H3; Sinh năm: 1966; địa chỉ: Xóm B, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định. Có mặt.
- Chị Nguyễn Thị H4; Sinh năm: 1972; địa chỉ: Xóm B, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định. Có mặt.
- Chị Phạm Thị N5; Sinh năm: 1984; địa chỉ: Xóm B, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định. Có mặt.
- Chị Lục Thị N6; Sinh năm: 1982; địa chỉ: Xóm B, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định. Có mặt.
- Chị Mai Thị T5; Sinh năm: 1972; địa chỉ: Xóm B, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định. Vắng mặt.
- Anh Đỗ Chí L3; Sinh năm: 1983; địa chỉ: Xóm B, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định. Vắng mặt.
- Bà Vũ Thị H5; Sinh năm: 1962; địa chỉ: Xóm B, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định. Có mặt.
- Chị Đỗ Thị H6; Sinh năm: 1970; địa chỉ: Xóm B, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định. Có mặt.
- Bà Phạm Thị L4; Sinh năm: 1965; địa chỉ: Xóm B, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định. Có mặt.
- Bà Nguyễn Thị H7; Sinh năm: 1960; địa chỉ: Xóm B, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định. Có mặt.
- Chị Phan Thị Thu H8; Sinh năm: 1992; địa chỉ: Xóm B, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định. Vắng mặt.
- Chị Phạm Thị D1; Sinh năm: 1973; địa chỉ: Xóm B, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định. Vắng mặt.
- Bà Phạm Thị T6; Sinh năm: 1951; địa chỉ: Xóm B, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định. Vắng mặt.
- Bà Đoàn Thị T7; Sinh năm: 1962; địa chỉ: Xóm B, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định. Vắng mặt.
- Chị Trần Thị N7; Sinh năm: 1969; địa chỉ: Xóm B, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định. Có mặt.
- Chị Phạm Thị L5; Sinh năm: 1981; địa chỉ: Xóm B, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định. Vắng mặt.
- Chị Nguyễn Thị N8; Sinh năm: 1974; địa chỉ: Xóm B, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định. Vắng mặt.
- Chị Mai Thị N9; Sinh năm: 1981; địa chỉ: Xóm B, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định. Có mặt.
- Bà Phạm Thị Đ; Sinh năm: 1950; địa chỉ: Xóm B, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định. Có mặt.
- Chị Trần Thị V; Sinh năm: 1971; địa chỉ: Xóm B, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định. Vắng mặt.
- Bà Đỗ Thị C1; Sinh năm: 1964; địa chỉ: Xóm B, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định. Có mặt.
- Chị Đặng Thị H9; Sinh năm: 1972; địa chỉ: Xóm B, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định. Có mặt.
- Chị Trần Thị N10; Sinh năm: 1975; địa chỉ: Xóm B, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định. Vắng mặt.
- Chị Nguyễn Trung Đ1; Sinh năm: 1984; địa chỉ: Xóm B, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định. Vắng mặt.
- Bà Phạm Thị M1; Sinh năm: 1967; địa chỉ: Xóm B, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định. Có mặt.
- Bà Phạm Thị T8; Sinh năm: 1962; địa chỉ: Xóm C, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định. Có mặt.
- Bà Phạm Thị H10; Sinh năm: 1955; địa chỉ: Xóm C, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định. Vắng mặt.
- Chị Mai Thị T9; Sinh năm: 1970; địa chỉ: Xóm D, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định. Có mặt.
- Chị Nguyễn Thị L6; Sinh năm: 1981; địa chỉ: Xóm E, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định. Có mặt.
- Chị Mai Thị H11; Sinh năm: 1972; địa chỉ: Xóm A, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định. Có mặt.
- Bà Mai Thị T10; Sinh năm: 1963; địa chỉ: Xóm A , xã X, huyện X, tỉnh Nam Định. Vắng mặt.
- Chị Nguyễn Thị P; Sinh năm: 1974; địa chỉ: Xóm A , xã X, huyện X, tỉnh Nam Định. Có mặt.
- Chị Mai Thị T11; Sinh năm: 1970; địa chỉ: Xóm A , xã X, huyện X, tỉnh Nam Định. Vắng mặt.
- Chị Đỗ Thị T12; Sinh năm: 1971; địa chỉ: Xóm A , xã X, huyện X, tỉnh Nam Định. Vắng mặt.
- Bà Bùi Thị H12; Sinh năm: 1968; địa chỉ: Xóm E, xã H, huyện H, tỉnh Nam Định. Vắng mặt.
- Chị Trần Thị B; Sinh năm: 1973; địa chỉ: Xóm E, xã H, huyện H, tỉnh Nam Định. Vắng mặt.
- Chị Ngô Thị Quỳnh T13; Sinh năm 1975; địa chỉ: Tổ G, thị trấn X, huyện X, tỉnh Nam Định. Có mặt.
- Chị Phạm Thị T14; Sinh năm: 1976; địa chỉ: Xóm E, xã H, huyện H, tỉnh Nam Định. Vắng mặt.
- Chị Mai Thị H13; Sinh năm: 1972; địa chỉ: Tổ A, thị trấn X, huyện X, tỉnh Nam Định. Vắng mặt.
- Chị Bùi Thị L7; Sinh năm: 1985; địa chỉ: xã H, huyện H, tỉnh Nam Định. Vắng mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những người bị hại: Luật sư Nguyễn Thị S, Luật sư thuộc Văn phòng L9, Đoàn luật sư thành phố H. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Phạm Thị N là chủ các dây phường, hội bằng hình thức góp tiền, vàng từ năm 2005, những người tham gia chơi chủ yếu ở xã X, huyện X, tỉnh Nam Định. N cùng những người tham gia chơi phường quy ước chơi phường như sau:
Đối với mỗi dây phường góp tiền (sau đây gọi tắt là phường tiền) có 15 suất chơi, đối với mỗi dây phường góp vàng (sau đây gọi tắt là phường vàng) có 20 suất chơi; thời gian nộp phường vàng, phường tiền vào ngày 15, ngày 30 âm lịch hàng tháng. Phường tiền thì mỗi tháng người chơi phải đóng 1 lần, phường vàng thì 2 đến 3 tháng người chơi phải đóng 1 lần, mỗi dây phường đến kỳ nộp phường chỉ có 01 người được lĩnh.
Về tiền lãi được quy định: Đối với phường tiền ai đã lấy thì từ tháng sau đó sẽ phải nộp số tiền theo suất tham gia và tiền lãi là 150.000đồng/1.000.000 đồng/1 tháng, đối với phường vàng tiền lãi là 0,15 chỉ/1chỉ/2 tháng cho người lấy sau. Khi người tham gia chơi đến kỳ nhận phường, N sẽ thu tiền gốc và lãi của những người cùng chơi trả cho người đến lượt lĩnh và người lĩnh sẽ trả công cho N là 01 tháng tiền lãi đã thu của người lấy trước.
Từ năm 2003 đến năm 2019, N đã làm chủ nhiều các dây phường tiền và đã trả tiền lãi, tiền gốc theo đúng thời gian quy định. Những người tham gia chơi phường có thể chuyển tiền cho N vào số tài khoản “3205555539xxx” của Ngân hàng A và số tài khoản “10880010396x” của Ngân hàng V2 đều mang tên Phạm Thị N hay N trực tiếp đến nhà của những người chơi để thu tiền, hoặc người chơi phường mang tiền đến nhà để nộp cho N. Tuy nhiên, trong quá trình chơi phường, một số cá nhân đã lấy tiền phường nhưng không đóng tiếp nên để có tiền đủ trả cho những người lấy sau trong dây phường, N đã vay mượn tiền để trả cho những người đến thời hạn lĩnh mặc dù N chưa thu đủ tiền, vàng của những người cùng chơi.
Theo N khai: đến cuối năm 2019, N đã phải bỏ tổng số tiền khoảng 11.920.000 đồng (gồm tiền cá nhân và tiền đi vay) để bù vào số tiền do những người lấy phường trước nhưng không đóng để trả cho những người lấy sau (bút lục từ số 1480 đến 1482, số A, 1638). Do vay ngoài phải trả lãi cao nên đến năm 2019, N mất khả năng kiểm soát về kinh tế và cũng không có điều kiện khả năng để trả nợ cho những người tham gia chơi phường hội với N. Mặc dù đang nợ số tiền khoảng 10 tỷ đồng, bản thân không còn điều kiện, khả năng để thanh toán nhưng N che giấu việc mất kiểm soát thu chi các dây phường, vẫn gian dối về việc tổ chức các dây phường, tự dựng lên các dây phường không có thật để tiếp tục huy động nhiều người góp tiền, vàng để có tiền, vàng trả nợ cho những người tham gia các dây phường vàng, tiền trước đó đến thời hạn lĩnh và trả lãi cho các khoản vay của N. Từ tháng 1/2020 đến tháng 5/2022 âm lịch (tức từ tháng 2/2020 đến tháng 6/2022 dương lịch), N đã gian dối về việc tổ chức các dây phường tiền, vàng, lấy danh nghĩa thu phường tiền, vàng chiếm đoạt của 102 bị hại với tổng số tiền là 20.952.367.000 đồng và 861,3 chỉ vàng 9999.
Đến tháng 5/2022, một số người đã góp tiền chơi phường, vàng đến kỳ được lĩnh đã yêu cầu N thanh toán nhưng N không hoàn trả và tuyên bố vỡ nợ (Bút lục số 1505). Các bị hại đã làm đơn tố cáo Phạm Thị N cùng chồng là Vũ Văn T có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản và cung cấp các giấy biên nhận góp tiền, vàng có chữ ký của N trong đó có 13 giấy biên nhận góp tiền, vàng có chữ ký của ông Vũ Quốc T15. Tại Bản kết luận giám định số 1499/KL-KTHS ngày 11/11/2022 của Phòng K1 - Công an tỉnh N xác định: Chữ ký đứng tên N trong các giấy biên nhận do N ký ra, chữ ký đứng tên T15 trong các Giấy biên nhận do ông T15 ký ra.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 18/KL-HĐĐGTS ngày 01/11/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự tỉnh Nam Định xác định: 861,3 chỉ vàng có giá trị 4.478.737.000 đồng.
Tại Cơ quan điều tra, N thừa nhận hành vi phạm tội như nêu trên và khai nhận: việc tổ chức các dây phường tiền, vàng do một mình N thực hiện. Trong quá trình thu tiền phường, có lần người dân đến nộp nhưng N đi vắng nên ông T15 đã thu giúp và đưa lại cho N. Toàn bộ số tiền chiếm đoạt N đã sử dụng để trả cho những cá nhân của các dây phường trước đến hạn lấy và trả lãi vay ngoài.
Tại Cơ quan điều tra, ông Vũ Quốc T15 khai nhận: Bản thân làm nghề kinh doanh vận tải, biết N đứng lên làm chủ phường hội nhưng không biết cụ thể N tổ chức như thế nào. Khoảng cuối năm 2021, đầu năm 2022, do dịch C2 nên ông ở nhà thì có một số lần người dân đến nộp tiền phường, do vợ ông không có nhà nên ông nhận hộ và đã đưa lại cho N. Đến khoảng đầu tháng 5 N nói với ông đang nợ rất nhiều người và nói ông rút tiền tiết kiệm, bán xe để N lấy tiền trả nợ, thì ông mới biết N bị vỡ nợ. Tháng 6/2022, ông đã rút tiền tiết kiệm đưa cho N trả nợ và bán xe đưa cho con trai là Q trả nợ cho N. Lúc này ông cũng được biết tháng 3/2022, Q đã đưa cho N 2 tỷ để N trả nợ và kinh doanh.
Tại Cơ quan cảnh sát điều tra, anh Vũ Văn Q1, chị Vũ Thị Thu V1, chị Vũ Thị Hương G (là con của N) khai báo: Do ở xa nên không biết việc tổ chức thu tiền phường của N. Tài sản của các anh, chị có được đều do tự mua, N không hỗ trợ gì. Khoảng tháng 3/2022, N hỏi vay tiền nên anh Q1 đã gửi cho N 2 tỷ đồng.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 18/2023/HSST ngày 14/02/2023, Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Phạm Thị N phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm g, i khoản 1 Điều 52; điểm s, x khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 BLHS.
Xử phạt bị cáo Phạm Thị N 20 (hai mươi) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15/9/2022.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, nghĩa vụ thi hành án, án phí sơ thẩm và thông báo quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 28/2/2023, bị cáo Phạm Thị N kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Ngày 27,28/2/2023, các bị hại kháng cáo đề nghị tăng hình phạt đối với bị cáo và xử lý chồng của bị cáo N là Vũ Văn T tội “Che dấu tội phạm”.
Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo rút kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Các bị hại giữ nguyên kháng cáo đề nghị tăng hình phạt đối với bị cáo và đề nghị xử lý chồng bị cáo là Vũ Văn T về hành vi che dấu tội phạm.
Luật sư bào chữa cho bị cáo: Đề nghị đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo. Mức hình phạt đối với bị cáo là tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo. Việc xem xét trách nhiệm của chồng bị cáo: Cần phải có thêm chứng cứ, tại cấp phúc thẩm không có chứng cứ gì mới đối với ông Vũ Văn T do đó chưa đủ cơ sở để xem xét trách nhiệm hình sự của ông T. Luật sư bào chữa cho người bị hại: Đề nghị tuyên bị cáo tù chung thân vì bị cáo có 02 tình tiết tăng nặng tại điểm g, i khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự, bị cáo chỉ nên được áp dụng điểm s, x khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Số tiền một số bị hại nói là chênh lệch là do có hợp đồng vay nên là quan hệ dân sự, do đó không có kháng cáo về số tiền.
Bị cáo phạm tội với nhiều người.
Về ông T: Đề nghị các bị hại làm đơn gửi cơ quan điều tra xem xét trách nhiệm của ông T vì không có tài liệu mới, ông T không có mặt nên không có điều kiện làm rõ tại cấp phúc thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội phát biểu quan điểm:
+ Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo N. + Xét kháng cáo của các bị hại: Bị cáo phạm tội Đặc biệt nghiêm trọng. Bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, x khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự: Khai báo thành khẩn, là con liệt sỹ: Bác là liệt sỹ, bà là Bà mẹ Việt Nam anh hùng.
Mức án 20 năm là tương xứng với tính chất mức độ, hậu quả của vụ án, nhân thân của bị cáo, không có tình tiết tăng nặng mới đối với bị cáo.
Đối với kháng cáo đề nghị xử lý hình sự về hành vi che dấu tội phạm đối với chồng bị cáo: Người bị hại có thể tiếp tục đề nghị Cơ quan điều tra xem xét trách nhiệm của ông Vũ Văn T. Căn cứ Điều 348 Bộ luật Tố tụng Hình sự, khoản 1 điểm a Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng Hình sự. Đề nghị: Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên hình phạt đối với bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu tại hồ sơ vụ án được tranh tụng tại phiên tòa, hội đồng xét xử nhận định như sau:
Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Phạm Thị N kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Người bị hại kháng cáo đề nghị tăng hình phạt đối với bị cáo đồng thời đề nghị xem xét xử lý ông Vũ Văn T (chồng của bị cáo N) về hành vi “Che dấu tội phạm”. Sau khi xem xét, Hội đồng xét xử thấy:
[1]. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo rút kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Hội đồng xét xử đình chỉ đối với kháng cáo của bị cáo.
[2]. Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Phạm Thị N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của phù hợp với các tài liệu tại hồ sơ vụ án, lời khai của người bị hại, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Từ tháng 2/2020 đến tháng 6/2020, mặc dù đang còn nợ số tiền khoảng 10 tỷ đồng, bản thân đã không còn khả năng thanh toán nhưng Phạm Thị N đã che dấu việc mất kiểm soát thu chi các dây phường, tự dựng lên các dây phường không có thật để chiếm đoạt tiền vàng với tổng giá trị 25.431.104.000 đồng của 102 người bị hại. Với hành vi trên, bị cáo bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, không oan.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác, xâm phạm trật tự xã hội gây tâm lý hoang mang, gây phẫn nộ trong nhân dân. Hành vi của bị cáo thể hiện sự gian dối để người bị hại tin và giao tài sản cho bị cáo để bị cáo chiếm đoạt tài sản của họ. Số tiền bị cáo chiếm đoạt là rất lớn. Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng. Sau khi phạm tội không có ý thức khắc phục hậu quả. Hành vi của bị cáo cần phải bị xử lý nghiêm trước pháp luật mới đủ tác dụng giáo dục riêng, phòng ngừa chung.
[3]. Xét kháng cáo của người bị hại đề nghị tăng hình phạt đối với bị cáo. Sau khi xem xét, Hội đồng xét xử thấy:
Trong vụ án này, bị cáo đã dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt số tiền rất lớn, bị cáo chưa bồi thường khắc phục hậu quả cho người bị hại. Bị cáo phải chịu 02 tình tiết tăng nặng được quy định tại điểm g, i Điều 52 Bộ luật Hình sự: “phạm tội 2 lần trở lên” và “phạm tội đối với người đủ 70 tuổi trở lên”.
Bên cạnh đó, bị cáo cũng được hưởng các tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo là con liệt sỹ, bà nội của bị cáo là Bà mẹ Việt Nam anh hùng, sức khỏe bị cáo yếu có bệnh thận, bị cáo phạm tội lần đầu, những tình tiết giảm nhẹ này được quy định tại điểm s, x khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Với những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo N 20 năm tù là tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả của vụ án, nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ được áp dụng đối với bị cáo.
Tại cấp phúc thẩm, không có tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ mới được áp dụng đối với bị cáo. Do đó, Hội đồng xét xử thấy không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của người bị hại đề nghị tăng hình phạt đối với bị cáo. Cần giữ nguyên mức hình phạt của bản án sơ thẩm.
[4]. Xét kháng cáo của người bị hại đề nghị xem xét xử lý hành vi “Che dấu tội phạm” của ông Vũ Văn T. Sau khi xem xét, Hội đồng xét xử thấy: Tài liệu tại hồ sơ vụ án, quá trình tranh tụng tại phiên tòa, có căn cứ xác định ông T tham gia quản lý điều hành các hội phường tiền, vàng. Tại thời điểm trước khi xảy ra vụ án, ông T không biết bị cáo Ngọc m khả năng thanh toán, không biết bị cáo dựng lên các dây phường không có thật để thu tiền, vàng. Do đó, việc đề nghị xem xét xử lý ông Vũ Văn T về hành vi “Che dấu tội phạm” là chưa có cơ sở. Người bị hại có quyền làm đơn đề nghị Cơ quan điều tra xem xét trách nhiệm của ông Vũ Văn T theo quy định của pháp luật.
Từ những đánh giá, phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo và kháng cáo của bị hại. Cần giữ nguyên bản án sơ thẩm. Các quy định của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[5]. Về án phí:
+ Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
+ Người bị hại không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Vì các lẽ trên, Căn cứ Điều 348, điểm a khoản 1 Điều 355, 356 Bộ luật Tố tụng hình sự;
QUYẾT ĐỊNH
1. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Phạm Thị N; không chấp nhận kháng cáo của người bị hại. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 18/2023/HSST ngày 14/02/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định.
Tuyên bố: Bị cáo Bị cáo Phạm Thị N phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174, điểm s, x khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự;
Xử phạt bị cáo Phạm Thị N 20 (hai mươi) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15/9/2022.
2. Về án phí: Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Người bị hại không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 550/2023/HS-PT
Số hiệu: | 550/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/07/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về