Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 54/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 54/2023/HS-ST NGÀY 16/10/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 12 và 16 tháng 10 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Hà Nam mở phiên toà xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 51/2023/HSST ngày 31/8/2023; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 48/2023/QĐXXST-HS ngày 07/9/2023 và Quyết định hoãn phiên toà số 24/2023/HSST- QĐ ngày 22 tháng 9 năm 2023 đối với bị cáo:

Nguyễn Bá H, sinh năm:1983; nơi cư trú: Tổ 5, phường Lê Hồng Ph, thành phố Ph, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; trình độ học vấn: 12/12; con ông: Nguyễn Bá A và bà Nguyễn Thị Th; có vợ Ninh Thị Vân A (đã ly hôn); con: Có 01 con sinh năm 2011; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 14/8/2022 đến ngày 22/8/2022 chuyển tạm giam. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Nam, có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Bá H: Ông Nguyễn Đình Thi -Luật sư Công ty Luật TNHH Hà Nam thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Hà Nam; địa chỉ: 196 đường Trường Chinh, phường Hai Bà Trưng, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam; có mặt.

Người bị hại:

- Anh Vũ Mạnh C, sinh năm 1986; nơi cư trú: Tổ dân phố T, phường Duy M, thị xã Duy T, tỉnh Hà Nam vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Anh Nguyễn Duy B, sinh năm 1981; nơi cư trú: Tổ dân phố Đôn L, 1 phường Yên B, thị xã Duy T, tỉnh Hà Nam; có mặt.

- Chị Lê Thị H, sinh năm 1984; nơi cư trú: Tổ dân phố Nguyễn Hữu T, phường Đồng V, thị xã Duy T, tỉnh Hà Nam; có mặt.

- Chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1989; nơi cư trú: Tổ dân phố B, phường Yên B, thị xã Duy T, tỉnh Hà Nam; có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Chị Bùi Thị Thanh H, sinh năm 1980; nơi cư trú: Tổ dân phố Nguyễn Hữu T, phường Đồng V, thị xã Duy T, tỉnh Hà Nam vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Anh Bùi Xuân T, sinh năm 1984; nơi cư trú: Thôn Giáp Nh, phường Bạch Th, thị xã Duy T, tỉnh Hà Nam; có mặt.

- Bà Nguyễn Thị Th, sinh năm 1961; nơi cư trú: Tổ 5, phường Lê Hồng Ph, thành phố Phủ L, tỉnh Hà Nam; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong thời gian từ tháng 01/2020 đến tháng 11/2021, Nguyễn Bá H là Phó Trưởng phòng kinh doanh của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) - Chi nhánh Đồng Văn Hà Nam II đã đưa ra thông tin gian dối về việc cần vay tiền để đáo hạn ngân hàng cho khách để nhiều người tin tưởng giao tiền cho H, cụ thể:

1. Anh Vũ Mạnh C, sinh năm 1986; trú tại tổ dân phố Tú, phường Duy M, thị xã Duy T, tỉnh Hà Nam, ngày 03/01/2020 và ngày 23/4/2020 anh C sử dụng tài khoản số 16001012459X mở tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (MSB) - Chi nhánh Hà Nam chuyển 70 triệu đồng vào tài khoản số 2907207000X của H mở tại Ngân hàng Agribank; ngày 27/10/2021 anh C tiếp tục sử dụng tài khoản số 1600101245X9 chuyển 100 triệu đồng vào tài khoản số 0901000X013 của H mở tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) - Chi nhánh Hà Nam. Sau khi nhận 170 triệu đồng của anh C, H không sử dụng để đáo hạn ngân hàng cho khách mà tiêu xài cá nhân.

Ngày 19/11/2021, H sử dụng tài khoản số 0901000X013 của H chuyển số tiền 10 triệu đồng vào tài khoản số 1600101245X9 của anh C để trả tiền lãi cho anh C.

2. Nguyễn Duy B, sinh năm 1981; trú tại tổ dân phố Đôn L, phường Yên B, thị xã Duy T, tỉnh Hà Nam, ngày 27/8/2021, H trực tiếp làm Hợp đồng tín dụng và báo cáo đề xuất giải ngân kiêm giấy nhận nợ cho anh B với nội dung chuyển số tiền 200 triệu đồng cho chị Bùi Thị Thanh H. Sau đó, H giải ngân chuyển số tiền 200 triệu đồng đến tài khoản số 7710105886X của chị Bùi Thị 2 Thanh H, sinh năm 1980; trú tại tổ dân phố Nguyễn Hữu T, phường Đồng V, thị xã Duy T mở tại Ngân hàng TMCP Quân đội - Chi nhánh Hà Nam (MB) để trả nợ chị H mà không sử dụng để đáo hạn ngân hàng cho khách.

3. Chị Lê Thị H, sinh năm 1984; trú tại tổ dân phố Nguyễn Hữu T, phường Đồng V, thị xã Duy T, tỉnh Hà Nam, sau khi chị H nói với chị H về việc H muốn vay số tiền 300 triệu đồng, chị H đứng ra bảo lãnh, chị H đồng ý; ngày 06/9/2021, chị H sử dụng tài khoản số 21091984X88 mở tại Ngân hàng MB chuyển số tiền 300 triệu đồng đến tài khoản số 0901000X013 của H mở tại Ngân hàng Vietcombank. Sau khi nhận được tiền, H không sử dụng để đáo hạn ngân hàng cho khách mà trả cho anh Bùi Xuân T, sinh năm 1984; trú tại thôn Giáp Nh, phường Bạch Th, thị xã Duy T 20 triệu đồng, số tiền 280 triệu đồng còn lại H tiêu xài cá nhân. Sau đó, H tiếp tục nhờ chị H hỏi vay của chị H 70 triệu đồng, chị H đồng ý. Ngày 14/9/2021, chị H sử dụng tài khoản số 21091984X88 mở tại Ngân hàng MB chuyển 70 triệu đồng vào tài khoản số 7710105886X của chị H mở tại Ngân hàng MB, chị H đã chuyển 70 triệu đồng vào tài khoản số 0901000X013 của H mở tại Ngân hàng Vietcombank để cho H vay. Nhận được tiền, H không sử dụng để đáo hạn ngân hàng mà tiêu xài cá nhân. Ngày 08/10/2021, H viết Giấy vay tiền và đưa cho chị H giữ.

4. Chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1989; trú tại tổ dân phố B, phường Yên B, thị xã Duy T, tỉnh Hà Nam, ngày 19/11/2021 sử dụng tài khoản số 821000089X mở tại Ngân hàng Vietcombank để chuyển 100 triệu đồng vào tài khoản 0901000X013 của H mở tại Ngân hàng Vietcombank. Nhận được tiền, H không sử dụng để đáo hạn ngân hàng cho khách mà trả cho anh Vũ Mạnh C số tiền 10 triệu đồng, anh Bùi Xuân T 15 triệu đồng, số tiền 75 triệu đồng còn lại H tiêu xài cá nhân.

Ngày 04/5/2022, 21/8/2022, 16/10/2022 và ngày 28/4/2023, chị Nguyễn Thị L, chị Lê Thị H, anh Vũ Mạnh C và anh Nguyễn Duy B gửi đơn tới Cơ quan Công an thị xã Duy Tiên tố cáo hành vi lừa đảo chiếm đoạt tiền của Nguyễn Bá H.

Căn cứ tài liệu điều tra, ngày 14/8/2022 Cơ quan điều tra Công an thị xã Duy T ra Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Nguyễn Bá H. Quá trình thi hành lệnh không thu giữ đồ vật, tài liệu gì có liên quan đến vụ án.

Quá trình điều tra vụ án, anh Nguyễn Duy B giao nộp 01 bản báo cáo đề xuất giải ngân kiêm giấy nhận nợ số giải ngân 2907-LDS-202101950 đề ngày 278/8/2021 (bản chính); 01 Giấy xác nhận nhân thân đề ngày 01/9/2022; 01 bản phô tô Hợp đồng tín dụng số 2907LAV202100563 đề ngày 21/6/2021. Chị Lê Thị H giao nộp 13 đoạn hội thoại nhắn tin trên ứng dụng Zalo giữa chị H và H có nội dung chị H liên lạc bảo H trả tiền; 01 bản phô tô giấy vay tiền đề ngày 08/10/2021; 01 bản hạch toán chi tiết của tài khoản ngân hàng mang tên Lê Thị 3 H từ ngày 01/8/2021 đến ngày 01/11/2021; 01 bản chính giấy vay tiền đề ngày 08/10/2021. Chị Nguyễn Thị L giao nộp 06 tờ giấy khổ A4 in hình ảnh thể hiện nội dung tin nhắn giữa chị L và H từ ngày 19/11/2021 đến ngày 17/02/2022; 05 tờ giấy khổ A4 in hình ảnh thể hiện nội dung tin nhắn giữa tài khoản Zalo của chị L và H có nội dung chị L liên lạc bảo H trả tiền. Chị Bùi Thị Thanh H giao nộp: 01 sổ hạch toán chi tiết của tài khoản số 7710105886X mở tại Ngân hàng MB Bank mang tên Bùi Thị Thanh H từ ngày 01/9/2021 đến 01/10/2021. Chị Trương Thị Thanh V - sinh năm 1987, trú tại tổ dân phố Đôn L, phường Yên B, thị xã Duy T (là vợ anh B) giao nộp: 08 tờ giấy khổ A4 in hình ảnh thể hiện nội dung tin nhắn liên quan đến việc đòi số tiền 200 triệu đồng H vay của anh B từ tài khoản Zalo “Thanhvang Đènled” đến tài khoản Zalo “A H Ngân Hàng”. Bà Nguyễn Thị Th - sinh năm 1961, trú tại tổ 5, phường Lê Hồng Ph, thành phố Phủ L (là mẹ đẻ của H) giao nộp: 01 bản sao Quyết định giải quyết việc dân sự số 02/2015/QĐVDS-ST ngày 26/02/2016 của TAND thành phố Phủ L về việc công nhận thuận tình ly hôn và nuôi con chung giữa Nguyễn Bá H và chị Ninh Thị Vân A; 02 bản sao Huy chương chiến sỹ vẻ vang hạng nhì, hạng ba mang tên Nguyễn Bá A (là bố đẻ của H); 01 Đơn xin xác nhận ông Nguyễn Bá A được tặng thưởng Huy chương chiến sỹ vẻ vang hạng nhì, hạng ba nhưng do sơ suất nên nhầm tên là Nguyễn Bá Ả; 03 bản sao Huy chương chiến sỹ giải phóng hạng nhất, nhì và ba, 01 bản sao Huy chương kháng chiến hạng nhất, 01 bản sao Huy chương chiến công hạng ba đều mang tên Nguyễn Như H (là ông ngoại của H);

01 bản sao Huy chương vì sự nghiệp phát triển nông thôn, 01 bản sao Huy chương kháng chiến hạng ba mang tên bà Phạm Thị V (là bà nội của H); 01 bản sao Huy chương vì sự nghiệp giáo dục, 01 bản sao Huy chương kháng chiến hạng ba mang tên Nguyễn Bá B (là ông nội của H). Ngân hàng Agribank - Chi nhánh Đồng Văn Hà Nam II cung cấp 01 bản sao Quyết định số 115/QĐ- NHNoHNaII-TH ngày 14/02/2022 của Ngân hàng Agribank - Chi nhánh Hà Nam về việc chấm dứt hợp đồng lao động đối với Nguyễn Bá H.

Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hà Nam đã trưng cầu Viện Pháp y tâm thần Trung ương tiến hành giám định tình trạng tâm thần của Nguyễn Bá H; trưng cầu Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hà Nam tiến hành giám định tài liệu đối với Giấy nhận tiền đề ngày 08/10/2021 ký hiệu A so sánh với mẫu chữ viết, chữ ký của Nguyễn Bá H.

Tại bản Kết luận giám định số 499/KLGĐ ngày 03/8/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hà Nam kết luận: “Chữ viết, chữ ký đứng tên Nguyễn Bá H trên mẫu cần giám định ký hiệu A so với chữ viết, chữ ký của Nguyễn Bá H trên mẫu so sánh ký hiệu M1, M2 do cùng một người viết, ký ra.” Tại bản Kết luận giám định pháp y tâm thần theo trưng cầu số 199/KLGĐ ngày 04/7/2023 của Viện Pháp y tâm thần Trung ương kết luận:

“Trước, trong khi thực hiện hành vi phạm tội bị can Nguyễn Bá H không mắc bệnh tâm thần.

4 Tại thời điểm giám định bị can Nguyễn Bá H mắc bệnh tâm căn suy nhược, bệnh ở giai đoạn thuyên giảm. Theo phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10 năm 1992 bệnh có mã số F48.0.

Tại các thời điểm trên bị can đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi.” Sao kê lịch sử giao dịch tài khoản xác định: Ngày 27/8/2021, tài khoản số 7710105886X mở tại Ngân hàng MB của Bùi Thị Thanh H nhận được số tiền 200 triệu đồng, người chuyển Nguyễn Duy B; tài khoản số 0901000X013 mở tại Ngân hàng Vietcombank của Nguyễn Bá H nhận được tổng số tiền 370 triệu đồng của chị Lê Thị H và chị Bùi Thị Thanh H, nhận số tiền 100 triệu đồng của chị Nguyễn Thị L, nhận số tiền 100 triệu đồng của anh Vũ Mạnh C; tài khoản số 2907207000X mở tại Ngân hàng Agribank của Nguyễn Bá H nhận tổng số tiền 70 triệu đồng của anh Vũ Mạnh C.

Ngân hàng Agribank - Chi nhánh Đồng Văn Hà Nam II xác định: Từ ngày 01/01/2021 đến ngày 14/02/2022, Nguyễn Bá H không làm hồ sơ đáo hạn ngân hàng cho khách hàng nào.

Về trách nhiệm dân sự: Anh Vũ Mạnh C yêu cầu Nguyễn Bá H trả số tiền 170 triệu đồng; Nguyễn Duy B yêu cầu H trả số tiền 200 triệu đồng; chị Lê Thị H yêu cầu H trả số tiền 370 triệu đồng; chị Nguyễn Thị L yêu cầu H trả số tiền 100 triệu đồng.

Cáo trạng số 61/CT-VKS-P2 ngày 29/8/2023 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Nam truy tố bị cáo Nguyễn Bá H về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Nam tham gia phiên tòa giữ nguyên nội dung Cáo trạng truy tố đối với bị cáo. Đề nghị HĐXX áp dụng điểm a khoản 4, khoản 5 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 50; khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Bá H từ 07 năm đến 08 năm tù, hình phạt bổ sung phạt bị cáo từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng sung ngân sách Nhà nước. Ngoài ra còn đề nghị về trách nhiệm dân sự và quyền kháng cáo cho bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác.

Quan điểm của Luật sư Nguyễn Đình Thi bào chữa cho bị cáo Nguyễn Bá H: Nhất trí về tội danh và điều khoản như Cáo trạng đã truy tố; tuy nhiên đề nghị HĐXX xem xét đến nhân thân, hoàn cảnh gia đình của bị cáo để xem xét, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo cũng như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

Bị cáo Nguyễn Bá H khai nhận hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Nam đã truy tố và nhất trí với bào chữa của Luật sư cũng như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Nam, đề nghị Hội đồng xét xử, xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an tỉnh Hà Nam, điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Nam, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2]. Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung của bản kết luận điều tra và cáo trạng đã truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của các bị hại; những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Trong khoảng thời gian từ tháng 03/01/2020 đến tháng 11/11/2021, Nguyễn Bá H đã đưa ra thông tin gian dối không đúng sự thật về việc cần tiền đáo hạn ngân hàng cho khách hàng để chiếm đoạt tiền của anh Vũ Mạnh C, anh Nguyễn Duy B, chị Lê Thị H và chị Nguyễn Thị L với tổng số tiền là 840.000.000 đồng.

Hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Bá H đã phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự như Viện kiểm sát truy tố là đúng người, đúng tội.

Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác với số lượng tiền lớn, gây bức xúc cho rất nhiều người bị hại và làm mất trật tự an toàn xã hội. Vì vậy cần xử lý nghiêm minh đối với bị cáo để cải tạo, giáo dục và phòng ngừa chung cho xã hội.

[3]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Nguyễn Bá H đã có hành vi lừa đảo nhận tiền nhiều lần đối với nhiều người bị hại nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại giai đoạn điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bản thân bị cáo tác động đến gia đình bồi thường một phần thiệt hại cho người bị hại; gia đình bị cáo có công với cách mạng, bị cáo có ông nội Nguyễn Bá B được tặng Huy chương vì sự nghiệp giáo dục và nhiều Huân chương kháng chiến hạng 3, ông ngoại Nguyễn Như H được tặng nhiều Huân chương chiến sỹ giải phóng, bà nội Phạm Thị V được tặng thưởng nhiều Huân chương kháng chiến, người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên bị cáo được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Do vậy, khi lượng hình Hội đồng xét xử sẽ cân nhắc xem xét hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi 6 phạm tội mà bị cáo đã gây ra, để xử bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt theo quy định tại khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Nam cũng như một số ý kiến của người bị hại anh Nguyễn Duy B và chị Lê Thị H không có ý kiến gì với bản luận tội của Viện kiểm sát đối với bị cáo về phần hình phạt.

[4] Về hình phạt bổ sung: Cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 174 Bộ luật Hình sự.

[5]. Về trách nhiệm dân sự: Những người bị hại đề nghị bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại gồm: Anh Nguyễn Mạnh C số tiền 170.000.000 đồng, anh Nguyễn Duy B số tiền 200.000.000 đồng, chị Lê Thị H số tiền 370.000.000 đồng và chị Nguyễn Thị L số tiền 100.000.000 đồng.

Đối với số tiền gia đình bị cáo Nguyễn Bá H đã nộp 50.000.000 đồng theo biên lai thu tiền số AA/2021/0001219 ngày 06 tháng 10 năm 2023 và số tiền 30.000.000 đồng nộp ngày 16/10/2023 theo biên lai thu tiền số AA/2021/0001229, tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Hà Nam. Tổng cộng 80.000.000 đồng được giữ lại để trả cho các bị hại.

[6]. Về các vấn đề khác:

- Quá trình điều tra Nguyễn Bá H khai nhiều lần vay tiền của anh Bùi Xuân T để đáo hạn ngân hàng cho khách, hứa hẹn vài ngày sau trả lại tiền. Từ ngày 29/6/2020 đến ngày 28/4/2021, anh T sử dụng tài khoản số 2907205X031 mở tại Ngân hàng Agribank nhiều lần chuyển tổng số tiền 550 triệu đồng vào tài khoản số 2907207000X của H mở tại Ngân hàng Agribank. Tuy nhiên, H khai từ ngày 06/9/2021 đến ngày 19/11/2021, H sử dụng tài khoản số 0901000X013 của H mở tại Ngân hàng Vietcombank nhiều lần chuyển tổng số 555 triệu đồng vào tài khoản số 2907205X031 của anh T mở tại Ngân hàng Agribank để trả nợ cho anh T. Tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Duy Tiên, anh T khai nhiều lần chuyển khoản cho H vay tiền nhưng không viết giấy tờ gì. Đến nay, H còn nợ anh Tiến 780 triệu đồng, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hà Nam nhiều lần triệu tập anh T đến làm việc nhưng anh T đều không có mặt tại địa phương. Sao kê lịch sử giao dịch tài khoản xác định anh T chuyển khoản cho H vay số tiền 550 triệu đồng; H đã chuyển khoản cho anh T số tiền 555 triệu đồng, do anh T không đến làm việc nên chưa đủ cơ sở kết luận H chiếm đoạt 550 triệu đồng của anh T.

- Ngoài ra bị cáo Nguyễn Bá H khai anh Vũ Mạnh C, chị Nguyễn Thị L, anh Bùi Xuân T cho H vay tiền với lãi suất 2000 đồng/1 triệu/1 ngày; chị Lê Thị H bảo H viết thêm 20 triệu đồng là tiền lãi vào Giấy vay tiền đề ngày 08/10/2021 nhưng anh C, chị L, anh T đều không thừa nhận nội dung này; chị Hà trình bày khi H viết Giấy vay tiền đề ngày 08/10/2021 thì H tự viết thêm số tiền 20 triệu đồng và bảo sẽ trả thêm cho chị Hà 20 triệu đồng do đến hẹn mà H chưa trả được tiền. Ngoài lời khai của H không có tài liệu chứng cứ nào khác 7 nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hà Nam không đủ căn cứ xử lý anh C, chị L, anh T, chị H về hành vi “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” là có căn cứ.

- Đối với việc chị Bùi Thị Thanh H nhận bảo lãnh để chị Lê Thị H cho Nguyễn Bá H vay tổng số 370 triệu đồng nhưng chị Hoa không biết H dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tiền của chị H nên chị H không đồng phạm với H về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

[7] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Bá H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm a khoản 4, khoản 5 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 50; khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự; Điều 135 và Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Bá H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Xử phạt Nguyễn Bá H 08 (Tám) năm tù; thời hạn tù tính từ ngày 14/8/2022.

2. Về hình phạt bổ sung: Phạt bị cáo Nguyễn Bá H 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng) sung ngân sách Nhà nước.

3. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 584, Điều 585, Điều 589 Bộ luật Dân sự.

Ghi nhận gia đình bị cáo Nguyễn Bá H nộp số tiền 50.000.000 đồng theo biên lai thu tiền số AA/2021/0001219 ngày 06 tháng 10 năm 2023 và 30.000.000 đồng nộp ngày 16/10/2023 theo biên lai thu tiền số AA/2021/0001229, tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Hà Nam. Tổng cộng 80.000.000 đồng (Tám mươi triệu đồng) được giữ lại để trả cho các bị hại cụ thể: Anh Nguyễn Mạnh C số tiền 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng), anh Nguyễn Duy B số tiền 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng), chị Lê Thị H số tiền 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng), chị Nguyễn Thị L số tiền 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng).

Sau khi đối trừ bị cáo còn phải tiếp tục bồi thường cho các bị hại cụ thể:

- Anh Vũ Mạnh C số tiền 160.000.000 đồng (Một trăm sáu mươi triệu đồng).

- Anh Nguyễn Duy B số tiền 180.000.000 đồng (Một trăm tám mươi triệu đồng).

- Chị Lê Thị H số tiền 340.000.000 đồng (Ba trăm bốn mươi triệu đồng).

- Chị Nguyễn Thị L số tiền 80.000.000 đồng (Tám mươi triệu đồng).

4. Về án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng), án phí dân sự sơ thẩm bị cáo phải chịu 30.800.000 đồng (Ba mươi triệu tám trăm nghìn đồng).

5. Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người bị hại có đơn yêu cầu cho đến khi thi hành xong khoản tiền bồi thường thiệt hại nêu trên thì hàng tháng bị cáo phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật dân sự tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, có quyền yêu cầu thi hành, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

6. Án xử công khai sơ thẩm bị cáo, người bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

49
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 54/2023/HS-ST

Số hiệu:54/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/10/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về