Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 532/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG 

BẢN ÁN 532/2023/HS-PT NGÀY 17/11/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 11 năm 2023, tại Điểm cầu trung tâm Trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng kết nối với Điểm cầu thành phần tại Trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, xét xử phúc thẩm trực tuyến công khai vụ án hình sự thụ lý số 518/2023/TLPT-HS ngày 23 tháng 10 năm 2023 đối với bị cáo Nguyễn Ngọc Anh K về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản‖.

Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 89/2023/HS-ST ngày 05 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.

- Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Nguyễn Ngọc Anh K; Tên gọi khác: Không; sinh ngày 10/3/1997, tại tỉnh Quãng Ngãi; nơi cư trú: Thôn C, xã Đ, huyện M, tỉnh Quảng Ngãi.Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 12/12. Họ tên cha: Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1967; họ tên mẹ: Nguyễn Thị Như Y, sinh năm 1967; Bị cáo có vợ là Nguyễn Thị Phương D, sinh năm 1994; bị cáo có 01 con, sinh năm 2021. Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày27/02/2023 tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đắk Lắk cho đến nay – Có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Ngọc Anh K: Ông Nguyễn Đức D1– Luật sư thuộc Công ty Luật TNHH MTV Đ – Đoàn Luật sư tỉnh Đắk Lắk; địa chỉ: Tp. T, tỉnh Đắk Lắk– Có mặt

- Bị hại có kháng cáo: Ông La Quang D2, sinh năm 1968; Địa chỉ: TDP 10, thị trấn E, huyện E1, tỉnh Đắk Lắk.

Ngoài ra trong vụ án còn có những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan khác nhưng không có kháng cáo.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Bản án sơ thẩm, các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến phiên tòa, nội dung vụ án được xác định như sau:

Nguyễn Ngọc Anh K sinh năm 1997, trú tại Thôn C, xã Đ, huyện M, tỉnh Quảng Ngãi, là cháu rể của ông La Quang D2, sinh năm 1977, trú tại tổ dân phố 10, thị trấn E, huyện E1, tỉnh Đắk Lắk. Vào khoảng cuối năm 2020, ông La Quang D2 gọi điện thoại cho Nguyễn Ngọc Anh K nhờ tìm mua cho ông D2 một chiếc xe ô tô, loại xe Mazda CX5 để ông D2 sử dụng, với giá tiền từ 600.000.000 đồng (Sáu trăm triệu đồng) đến 700.000.000 đồng (Bảy trăm triệu đồng) và K đồng ý. Thời điểm này, do đang vay nợ ở bên ngoài và vay tiền qua các ứng dụng trên mạng chưa trả được, nên khi được ông D2 nhờ tìm mua xe ô tô, K đã nảy sinh ý định chiếm đoạt số tiền của ông D2 để trả nợ và tiêu xài mục đích cá nhân. Để thực hiện, qua tìm hiểu K biết Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại dịch vụ vận tải V (Công ty V), địa chỉ tại 202 – 204 đường số 1, khu dân cư N, phường A, quận B, thành phố Hồ Chí Minh, là công ty chuyên cho thuê xe ô tô tự lái tại Thành phố Hồ Chí Minh, có chiếc xe ô tô Mazda CX5 màu trắng, biển kiểm soát 51F – xxxxx cho thuê, nên K đã liên hệ với ông Khương Hữu Anh K1, sinh năm 1995, trú tại 80 đường 6, khu phố 5, phường T2, thành phố T3, thành phố Hồ Chí Minh, là nhân viên Công ty V đi thuê chiếc xe trên. K nói với anh K1 là do ông D2 mới được lên chức, nên vợ ông D2 muốn mua một chiếc xe ô tô Mazda CX5 để tặng cho ông D2. Tuy nhiên, hiện tại vợ ông D2 chưa đủ tiền nên chỉ thuê xe ô tô để ông D2 sử dụng trước. Khi có được thông tin chiếc xe ô tô Mazda CX5, biển kiểm soát 51F – xxxxx, K gọi điện thoại nói với ông D2 là K đã kiếm được xe ô tô cho ông D2 và hẹn ông D2 trực tiếp xuống thành phố Hồ Chí Minh xem xe ô tô. Sau đó, ông D2 xuống thành phố Hồ Chí Minh để trực tiếp xem xe, tuy nhiên do lúc này đang có người thuê chiếc xe ô tô trên, nên K đã không cho ông D2 trực tiếp xem xe ô tô mà chỉ dựa hình xe ô tô cho ông D2 xem và nói chủ xe muốn bán với giá tiền là 680.000.000 đồng (Sáu trăm tám mươi triệu đồng). Ngoài ra, để ông D2 tin tưởng, K còn nói với ông D2 là đã nhờ anh K1 là người hiểu biết về xe ô tô kiểm tra xe cho ông D2. Ông D2 xem hình ảnh xong và nghe K nói như trên thì đồng ý mua chiếc xe ô tô này.

Sau đó, ông D2 về lại tỉnh Đắk Lắk và ngày 27/11/2020 ông D2 đã chuyển 03 lần với tổng số tiền 300.000.000 đồng (Ba trăm triệu đồng) vào tài khoản số 04401012981257 của Nguyễn Ngọc Anh K mở tại Ngân hàng Hàng Hải - Chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh. Sau khi nhận được số tiền 300.000.000 đồng (Ba trăm triệu đồng) từ ông D2, ngày 06/01/2021 K đã đến Công ty V thuê xe ô tô biển kiểm soát 51F – xxxxx với giá 53.000.000 đồng (Năm mươi ba triệu đồng), hai bên có lập hợp đồng dịch vụ thể hiện (thời gian thuê là 02 tháng, kể từ ngày 12/01/2021 đến ngày 11/3/2021). Sau khi thuê được xe, K gọi ông D2 xuống Thành phố Hồ Chí Minh để nhận xe ô tô biển kiểm soát 51F – xxxxx và điều khiển di về tỉnh Đắk Lắk sử dụng. Ngày 05/3/2021, do hết thời hạn thuê xe, nên K tiếp tục ký Hợp đồng dịch vụ thuê xe ô tô trên với Công ty V, giá thuê xe là 25.000.000 đồng (thời gian thuê là 01 tháng, kể từ ngày 12/3/2021 đến ngày 11/4/2021). Đầu tháng 4/2021, K liên lạc với Công ty V đề nghị tiếp tục thuê xe ô tô trên để sử dụng, Công ty V đồng ý. Tuy nhiên, do thời gian này đang dịch bệnh Covid-19 nên hai bên chỉ liên lạc và thống nhất với nhau bằng điện thoại, chứ không lập hợp đồng.

Sau khi nhận xe, ngày 12/01/2021, ngày 25/02/2021 và ngày 12/3/2021, ông D2 đã chuyển thêm 03 lần với tổng số tiền 380.000.000 đồng (Ba trăm tám mươi triệu đồng) vào tài khoản số 04401012981257 của K để trả đủ số tiền mua chiếc xe ô tô trên. Sau khi đưa đủ tiền, ông D2 nhiều lần liên hệ qua điện thoại yêu cầu K rút hồ sơ gốc của chiếc xe ô tô biển kiểm soát 51F — xxxxx để sang tên cho ông D2 nhưng K đã lấy nhiều lý do để né tránh. Đến khoảng tháng 4/2022, Công ty V yêu cầu K đưa chiếc xe ô tô biển kiểm soát 51F – xxxxx về trả lại Công ty vì Công ty đã hết hạn thuê xe ô tô biển kiểm soát 51F – xxxxx với chủ xe là ông Quách Vĩnh P, sinh năm 1987, trú tại 2.12 CC2-B, khu nhà ở NS, ấp 3A, xã B1, huyện B2, thành phố Hồ Chí Minh. K nói dối với ông D2 đưa xe ô tô biển kiểm soát 51F – xxxxx xuống thành phố Hồ Chí Minh cho K làm thủ tục rút hồ sơ gốc, mục đích để ông D2 đưa xe ô tô biển kiểm soát 51F – xxxxx xuống thành phố Hồ Chí Minh để trả lại cho Công ty V. Khi ông D2 đưa xe ô tô từ tỉnh Đắk Lắk xuống thành phố Hồ Chí Minh, K đi thuê chiếc ô tô khác, loại xe Mitsubisi, biển kiểm soát 51G – xxxxx của Công ty V (hai bên không lập hợp đồng) đưa cho ông D2 nói ông D2 điều khiển về lại tỉnh Đắk Lắk, khi nào K rút được hồ sơ sẽ điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 51F – xxxxx về tỉnh Đắk Lắk giao cho ông D2 và lấy lại xe ô tô 51G – xxxxx. Ông D2 đồng ý, sau đó K mang xe ô tô 51F – xxxxx trả lại cho Công ty V và dặn ông K1 nếu ông D2 có hỏi thì nói lại là do xe đến thời hạn bảo hành, sửa chữa nên phải mang lên thành phố Hồ Chí Minh lại để 147 bảo hành do xe vẫn chưa được sang tên (do không biết mục đích của K nên K1 đã đồng ý). Sau đó, do thấy K không giao xe ô tô biển kiểm soát 51F - xxxxx lại cho mình, ông D2 tìm hiểu và phát hiện sự việc nêu trên nên đã làm đơn tố cáo toàn bộ hành vi của K. Đối với xe ô tô biển kiểm soát 51G - xxxxx ông D2 đã trả lại cho Công ty V.

Đối với tổng số tiền 680.000.000 đồng K nhận từ ông D2, K đã dùng một phần tiền để trả tiền thuê xe ô tô biển kiểm soát 51F 1xxxxx cho Công ty V và dùng vào mục đích cá nhân hết (tiền thuê nhà, thuê xe cá nhân khác, trả lãi và trả các khoản nợ cá nhân...).

Tại Bản cáo trạng số 109/CT-VKS-P3 ngày 03 tháng 8 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk, truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc Anh K về tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015.

Từ những nội dung đã được xác định nêu trên, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 89/2023/HS-ST ngày 05 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc Anh K phạm tội"Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" 2. Về hình phạt:

Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc Anh K 12 (Mười hai) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giam 27/2/2023.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về phần trách nhiệm dân sự, án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 13/ 9/2023 bị cáo bị cáo Nguyễn Ngọc Anh K kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 20/9/2023 bị hại, ông La Quang D2 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên phúc thẩm, bị cáo bị cáo Nguyễn Ngọc Anh K và bị hại, ông La Quang D2 giữ nguyên kháng cáo.

Kiểm sát viên của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử tại phiên tòa phát biểu quan điểm đối với vụ án như sau:

- Về tố tụng, Hội đồng xét xử, những người tiến hành và tham gia tố tụng khác đã thực hiện và tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự;

- Về nội dung, sau khi phân tích nội dung vụ án, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của bị cáo bị cáo Nguyễn Ngọc Anh K và bị hại, ông La Quang D2 sửa Quyết định về hình phạt tại Bản án sơ thẩm, giảm cho bị cáo một phần hình phạt.

Luật sư bào chữa cho bị cáo tranh luận: Luật sư đồng ý với quan điểm của đại diện viện kiểm sát đã đề nghị và trình bày, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, đã khai báo thành khẩn trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, đã bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bị hại, được bị hại làm đơn bãi nại và xin giảm nhẹ hình phạt. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử, áp dụng Điều 54, khoản 3 Điều 174 Bộ luật hình sự, chấp nhận kháng cáo của bị cáo và bị hại, ông La Quang D2, xử dưới mức thấp nhất của khung hình phạt liền kề đối với bị cáo.

Bị cáo không tranh luận bổ sung gì thêm mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào Bản án sơ thẩm, các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên toà, xem xét kháng cáo của bị cáo, Hội đồng xét xử, xét thấy:

[1]. Về tố tụng: Kháng cáo của bị cáo Nguyễn Ngọc Anh K và bị hại ông La Quang D2 là hợp lệ, trong thời hạn luật định, do vậy, Hội đồng xét xử, xét xử phúc thẩm đối với vụ án theo quy định của của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Xem xét về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Ngọc Anh K đã khai nhận về hành vi phạm tội như Bản án sơ thẩm đã xác định, có cơ sở kết luận: Do có quan hệ quen biết trước đó với bị cáo Nguyễn Ngọc Anh K, ông La Quang D2 đã liên lạc với bị cáo tìm mua giúp cho ông D2 một chiếc xe ô tô, lợi dụng quan hệ đó, trong khoảng thời gian từ cuối năm 2020 đến tháng 4/2022, vì mục đích cần tiền trả nợ và tiêu xài cá nhân, Nguyễn Ngọc Anh K đã đưa ra thông tin gian dối về việc đã tìm và mua xe ô tô giúp cho ông La Quang D2, do tin tưởng, ông D2 đã nhiều lần chuyển cho bị cáo K với tổng số tiền là 680.000.000 đồng (sáu trăm tám mươi triệu đồng). Sau khi nhận được tiền thì bị cáo Nguyễn Ngọc Anh K đã chiếm đoạt và sử dụng để trả nợ, tiêu xài cá nhân hết số tiền nói trên.

Với hành vi và hậu quả nêu trên, tại Bản án sơ thẩm đã xét xử bị cáo Nguyễn Ngọc Anh K về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3]. Xem xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Ngọc Anh K và bị hại ông La Quang D2, xét thấy: Theo hồ sơ vụ án, bị cáo Nguyễn Ngọc Anh K là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, có hoàn cảnh gia đình khó khăn (Có xác nhận của chính quyền địa phương), trong quá trình điều tra đã thành khẩn khai báo và tác động gia đình bồi thường toàn bộ số tiền đã chiếm đoạt 680.000.000 đồng cho bị hại, thể hiện sự ăn năn hối cải và khắc phục hậu quả của vụ án một cách triệt để. Bị cáo được bị hại kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, không phạm vào tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào, số tiền chiếm đoạt nằm ở trên mức khởi điểm của điều luật, quá đình điều tra, bị cáo đã tác động gia đình bồi thường toàn bộ, trường hợp của bị cáo đủ điều kiện xem xét áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự, để xử phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt liền kề đối với bị cáo. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt 12 năm, 06 tháng tù đối với bị cáo là quá nghiêm khắc, do vậy, Hội đồng xét xử xem xét đánh giá lại tính chất hành vi, hậu quả tội phạm, thiện chí khắc phục, bồi thường dân sự triệt để trong vụ án và tình tiết giảm nhẹ mới tại phiên tòa phúc thẩm, thống nhất quan điểm của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa và luận cứ của người bào chữa cho bị cáo, chấp nhận kháng cáo của bị cáo và bị hại, giảm cho bị cáo một phần hình phạt, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật, giúp cho bị cáo sớm trở về hòa nhập với cộng đồng xã hội.

Với nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng thêm khoản 1, Điều 54 Bộ luật hình sự, xử phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng để quyết định hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Ngọc Anh K.

[4]. Do chấp nhận kháng cáo nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5].Các Quyết định khác của Bản án sơ thẩm về xử lý vật chứng, trách nhiệm dân sự, án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử không xem xét.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b, khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự, chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Ngọc Anh K và của bị hại ông La Quang D2, sửa Quyết định về hình phạt tại Bản án hình sự sơ thẩm số 89/2023/HS-ST ngày 05 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đối với bị cáo Nguyễn Ngọc Anh K.

1. Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1, Điều 54, Điều 38 Bộ luật hình sự.

2. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Ngọc Anh K 10 (Mười) năm tù, về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 27/2/2023.

3. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Ngọc Anh K không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác về xử lý vật chứng và án phí sơ thẩm được thi hành theo Bản án hình sự sơ thẩm số 89/2023/HS-ST ngày 05 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

327
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 532/2023/HS-PT

Số hiệu:532/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về