Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 532/2021/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 532/2021/HS-PT NGÀY 16/12/2021 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố H đưa ra xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 251/2021/TLPT-HS ngày 28 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo Trần Thanh T.

Do có kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H đối với bản án hình sự sơ thẩm số 91/2021/HS-ST ngày 24 tháng 3 năm 2021 của Tòa án nhân dân Thành phố H.

- Bị cáo bị kháng nghị:

Trần Thanh T (tên gọi khác: T đen); giới tính: nam; sinh năm: 1987 tại Thành phố H; nơi cư trú: 346/55 Đường P, Phường 11, quận B, Thành phố H; nghề nghiệp: Nhân viên thu gom rác; trình độ học vấn: 12/12; con ông Trần Thanh H và bà Nguyễn Thị M; hoàn cảnh gia đình: chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: không có;

Nhân thân: Ngày 17/4/2020 bị Tòa án nhân dân quận T, Thành phố H, xử phạt 08 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 25/6/2020.

Bị cáo bị bắt, tạm giam trong vụ án khác từ ngày 25/10/2019 (có mặt).

- Người bào chữa chỉ định cho bị cáo Trần Thanh T: Luật sư Đỗ Hải B1, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố H (có mặt).

(Những người bị hại trong vụ án không có kháng cáo, không liên quan đến kháng cáo của bị cáo nên Tòa án không triệu tập).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Thanh T và các ông bà Trần Văn M, Nguyễn Văn D, Thái Thanh T2, Đào Thị Tuyết L1 và Nguyễn Thành N, Bùi Văn T đều là người quen trong xóm “Sở thùng” (chuyên làm đường rác trên địa bàn Thành phố H). Trong đó, các ông D và M có làm đường rác, còn ông N và Thiết hành nghề chạy xe ôm ở đầu đường Đường P giáp với đường Phạm Văn Đồng. Các bà T, L1 và ông D, M hành nghề cho vay, trong xóm ai cũng biết. Riêng ông Phạm Văn P (tên gọi khác B) con bà N (làm nghề thu gom gác và tổ chức chơi hụi) cũng là người quen trong xóm, biết nhau từ lâu nên T am hiểu về gia cảnh của gia đình anh Phước.

Khoảng trước Tết âm lịch năm 2018, T tình cờ gặp đối tượng tên T1 (không rõ lai lịch) có giọng nói ngọng, sứt môi giống anh Phước nên nảy sinh ý định mạo danh anh Phước nhằm vay tiền của những người trong xóm để tiêu xài cá nhân. T mua 01 điện thoại di động và sim điện thoại thuê bao số 0901752204 rồi giao cho T1 sử dụng. T nhờ T1 tự xưng tên “B” gọi điện thoại cho 04 người nói trên vay tiền để sang lại đường rác tại Quận 12. Trong lúc T1 gọi điện nếu 04 người nói trên có hỏi thêm về việc vay tiền làm gì, đời tư gia cảnh của Phước thì T ngồi kế bên nhắc để họ tin tưởng đó là Ba P và cho vay tiền. Sau đó, T nhờ Đào Xuân B hành nghề xe ôm đi lấy tiền giúp. Khi B đến gặp người cho vay tiền, T sẽ gọi điện thoại vào máy của B nói chuyện với người cho vay nhưng thực tế T đưa điện thoại cho T1 nói chuyện. B nhận tiền sẽ trực tiếp đem về cho T. Trường hợp những người vay không chịu đưa tiền do không biết Đào Xuân B thì T sẽ nói T1 gọi điện cho Nguyễn Thành N hoặc Phạm Văn T3 là người hành nghề xe ôm trong xóm đi nhận giúp. Mỗi lần vay tiền thành công thì T trả cho Thiết, Nghĩa 50.000 đồng, cho B từ 100.000 - 200.000 đồng và trả công cho T1 từ 1.000.000 - 2.000.000 đồng, số tiền còn lại T sử dụng tiêu xài cá nhân. Hành vi cụ thể của T như sau:

Vụ thứ nhất: Ngày 25/01/2018, T nhờ T1 tự xưng “Ba P” gọi cho bà Thái Thanh T2 để mượn 100.000.000 đồng, bà T nhận ra giọng của “Ba P” nên đồng ý cho mượn. T nhờ B đến gặp bà T nhận tiền. Đến ngày 27/01/2018 tiếp tục mượn 50.000.000 đồng, lần thứ ba ngày 12/02/2018 T tiếp tục mượn 50.000.000 đồng. Sau đó, T tiếp tục nhờ T1 gọi cho bà T mượn 20.000.000 đồng. Tổng cộng, bà T đã cho T mượn số tiền 220.000.000 đồng. T có viết giấy nhận tiền để B giao lại cho bà T.

Vụ thứ hai: Ngày 04/02/2018 T nhờ T1 gọi cho Nguyễn Văn D mượn 20.000.000 đồng, B đến nhận và giao cho T. Khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày, T tiếp tục nhờ T1 hỏi mượn thêm 30.000.000 đồng, Bùi Văn T đã tới lấy tiền và giao lại cho T. Tổng cộng T đã nhận của ông D số tiền 50.000.000 đồng.

Vụ thứ ba: Ngày 23/02/2018, T nhờ T1 điện thoại cho ông Trần Văn M hỏi mượn 50.000.000 đồng. Do tin tưởng đó là Ba P nên ông M mang vàng đi đổi lấy số tiền 50.000.000 đồng sau đó giao cho Nguyễn Thành N đưa lại cho B để B giao cho T.

Vụ thứ tư: Ngày 04/3/2018, T nhờ bà T1 gọi cho bà Đào Thị Tuyết L vay tiền để sang lại đường rác Quận 12. Bà L1 đồng ý với thời hạn 01 tuần trả lại. Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 04/3/2018, T1 giả giọng “Ba P” gọi điện thoại cho Bà L1 nói nhờ Nghĩa xe ôm xuống lấy tiền, Bà L1 đồng ý và giao cho Nghĩa số tiền 50.000.000 đồng tại nhà Bà L1. Ngày 05/3/2018, Bà L1 tiếp tục giao số tiền 50.000.000 đồng cho Bùi Văn T để Thiết giao cho T. Ngày 06/3/2018, Bà L1 giao cho Đào Xuân B số tiền 150.000.000 đồng. Cùng ngày, Bà L1 tiếp tục giao cho B số tiền 31.000.000 đồng. Ngày 07/3/2018, Bà L1 gọi vào số điện thoại của T1 đề nghị viết giấy xác nhận vay tiền. Đến 12 giờ, ông B đến nhà Bà L1 lấy giấy xác nhận đem về cho “Ba P” ký và lăn tay và đem lại cho Bà L1. Tổng số tiền T đã nhận của Bà L1 là 331.000.000 đồng. Sau nhiều lần nhận tiền, Bà L1 có lập giấy vay tiền sau đó yêu cầu B ký tên làm chứng đồng thời đem về cho T lăn tay và đưa lại cho Bà L1.

Tại Bản kết luận giám định số 1033/KLGĐ-TT ngày 14/8/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố H kết luận:

- Chữ viết “Phạm Văn P” và dấu vân tay dưới mục “Người vay tên” trên giấy vay tiền của bà Đào Thị Tuyết L là chữ viết và dấu vân tay của Trần Thanh T.

Đối với đối tượng tên T3 (chưa rõ lai lịch) là người giả giọng ông Phạm Văn P, Cơ quan cảnh sát điều tra tiếp tục xác minh làm rõ và xử lý sau.

Đối với Đào Xuân B, Nguyễn Văn N và Bùi Văn T là những người đi nhận tiền của bị hại giao cho T nhưng không biết T thực hiện hành vi nhạm tội nên Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các đoi tượng trên.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 91/2021/HS-ST ngày 24 tháng 3 năm 2021 của Tòa án nhân dân Thành phố H, đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Trần Thanh T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 54 và Điều 56 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Trần Thanh T 08 (tám) năm tù. Tổng hợp với hình phạt 08 tháng tù của Bản án số 34/2020/HS-ST ngày 17/4/2020 của Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố H, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 08 (tám) năm 08 (tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 25/10/2019.

(Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù của Bản án số 34/2020/HS-ST ngày 17/4/2020 của Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố H theo Giấy chứng nhận chấp hành xong án phạt tù số 147/GCN ngày 25/6/2020 của Cơ quan Thi hành án hình sự Công an Thành phố H).

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 7/4/2021, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H có Văn bản số 20/QĐ-VKS-P2, kháng nghị một phần bản án sơ thẩm về việc áp dụng pháp luật đối với bị cáo Trần Thanh T và đề nghị xét xử phúc thẩm theo hướng áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự phạm tội nhiều lần theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự và không áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Trần Thanh T.

Đại diện Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm phát biểu: Xét thấy các lần thực hiện hành vi phạm tội của bị cáo Trần Thanh T đều chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu truy cứu trách hình sự. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng thêm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự phạm tội nhiều lần theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, không áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự và xử phạt bị cáo mức hình phạt từ 12 đến 13 năm tù.

Luật sư bào chữa cho bị cáo phát biểu: Tổng số tiền bị cáo chiếm đoạt là 651.000.000 đồng được thực hiện nhiều lần và là tổng số của các lần phạm tội cộng lại, trong đó không có lần nào số tiền chiếm đoạt từ 500.000.000 đồng trở lên. Do đó luật sư cho rằng bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng là phạm tội nhiều lần như kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại phiên tòa phúc thẩm. Đồng thời bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bồi thường toàn bộ số tiền đã chiếm đoạt cho người bị hại, do đó Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự là có căn cứ. Vì vậy, Luật sư đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa bị cáo Trần Thanh T thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung của bản án sơ thẩm đã nhận định đó là trong khoảng thời gian từ cuối tháng 01 đến đầu tháng 3 năm 2018 bằng thủ đoạn giả làm người quen biết với các bị hại Thái Thanh T2, Nguyễn Văn D, Trần Văn M và Đào Tuyết L1, bị cáo Trần Thanh T đã bàn bạc, cấu kết cùng một người tên Phước (không rõ nhân thân lai lịch) gọi điện vay của những bị hại nêu trên nhiều lần rồi chiếm đoạt số tiền 651.000.000 đồng.

Lời khai nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai có trong hồ sơ vụ án, lời khai của những người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, đồng thời phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó Tòa án nhân dân Thành phố H xét xử bị cáo Trần Thanh T về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Xét kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, thực hiện thủ đoạn phạm tội tinh vi, trong một thời gian dài, chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn, giả mạo danh xưng người khác làm xói mòn lòng tin trong cộng đồng dân cư nơi bị cáo cư trú, ảnh hưởng đến uy tín, danh dự người mà bị cáo và đồng phạm mạo danh, gây mất an ninh trật tự tại địa phương.

Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo hoàn toàn nhận thức được việc làm của mình là vi phạm pháp luật, nhưng chỉ vì lòng tham nên trong thời gian từ ngày 25/01/2018 đến ngày 07/3/2018 Trần Thanh T đã nhiều lần thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, mỗi lần số tiền chiếm đoạt đều trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự. Các lần thực hiện hành vi phạm tội đó đều chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu truy cứu trách hình sự. Do đó ngoài việc tính tổng tài sản chiếm đoạt để xác định khung hình phạt thì bị cáo còn phải chịu thêm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là phạm tội nhiều lần quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự mới đúng quy định. Vì thế kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H về áp dụng pháp luật được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Tuy nhiên xét thấy, quá trình điều tra và xét xử bị cáo thành khẩn khai báo ăn năn hối cải và đã khắc phục toàn bộ tài sản chiếm đoạt cho những người bị hại. Do đó vẫn đủ điều kiện để được áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự và mức hình phạt mà cấp sơ thẩm đã tuyên phạt là phù hợp với tính chất, mức độ do hành vi và hậu quả mà bị cáo gây ra. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H và quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại phiên tòa.

[3] Quan điểm của người bào chữa cho bị cáo đề nghị không áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là phạm tội nhiều lần, không được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355 và Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

2. Chấp nhận một phần kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H. Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 91/2021/HS-ST ngày 24 tháng 3 năm 2021 của Tòa án nhân dân Thành phố H về áp dụng pháp luật.

Tuyên bố: Bị cáo Trần Thanh T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 54 và Điều 56 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Trần Thanh T 08 (tám) năm tù. Tổng hợp với hình phạt 08 tháng tù của Bản án số 34/2020/HS-ST ngày 17/4/2020 của Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố H, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 08 (tám) năm 08 (tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 25/10/2019.

(Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù của Bản án số 34/2020/HS-ST ngày 17/4/2020 của Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố H theo Giấy chứng nhận chấp hành xong án phạt tù số 147/GCN ngày 25/6/2020 của Cơ quan Thi hành án hình sự Công an Thành phố H).

3. Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 532/2021/HS-PT

Số hiệu:532/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về