Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 53/2023/HS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 53/2023/HS-PT NGÀY 15/03/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 3 năm 2023, tại Điểm cầu trung tâm trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk và Điểm cầu thành phần tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, xét xử phúc thẩm trực tuyến công khai vụ án hình sự thụ lý số: 40/2023/TLPT-HS ngày 02/02/2023, đối với bị cáo Nguyễn Trần Thành P. Do có kháng cáo của bị cáo với Bản án hình sự sơ thẩm số: 351/2022/HS-ST ngày 21/12/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.

- Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Nguyễn Trần Thành P, sinh năm: 2002, tại tỉnh Đắk Lắk.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: tổ dân phố 6, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; Chỗ ở hiện nay: Hẻm 29 P, phường D, thành phố D, tỉnh Bình Dương;Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Sinh viên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Con ông Nguyễn Thành P1 và bà Trần Thị Nhược T; Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 18/7/2022 đến ngày 11/8/2022. Bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn cho gia đình bảo lĩnh từ ngày 12/8/2022 đến nay (có mặt tại phiên tòa).

- Bị hại:

1. Anh Lê Văn T, sinh năm 2004 (vắng mặt); Địa chỉ: 157 Buôn H, xã E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

2. Chị Nguyễn Thu T2, sinh năm 2002 (vắng mặt); Địa chỉ: Thôn T, xã N, huyện C, tỉnh Đắk Nông.

3. Chị Lê Nguyễn Cẩm T3, sinh năm 2002 (vắng mặt); Địa chỉ: 3/5, phường E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

4. Anh Vũ Ađrơng Đức N, sinh năm 2002 (vắng mặt); Địa chỉ: Buôn E, xã E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Trần Thành P có mối quan hệ bạn bè quen biết với chị Nguyễn Thu T2, sinh năm: 2002, trú tại: Thôn T, xã N, huyện C, tỉnh Đắk Nông; anh Hoàng Anh Đ, sinh năm 2002, trú tại: buôn H, xã E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; Chị Lê Nguyễn Cẩm T3, sinh năm: 2002, trú tại: 3/5, phường E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk và anh Vũ Adrơng Đức N, sinh năm: 2002, trú tại: Buôn E, xã E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Quá trình sinh sống, do thiếu tiền tiêu xài cá nhân nên P nảy sinh ý định lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác bằng cách đưa ra thông tin gian dối là P cần mượn xe mô tô đi chở hàng, hứa hẹn trả tiền thuê xe để người khác tin tưởng giao xe cho P rồi P đem đi cầm cố lấy tiền tiêu xài, cụ thể:

Khoảng 07 giờ 30 phút ngày 17/7/2022, P sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu Apple Iphone 6 plus, màu bạc nhắn tin (qua ứng dụng Messenger) cho chị Nguyễn Thu T2, nói dối chị T2 là P cần mượn xe mô tô của chị T2 để đi chở hàng tại bến xe phía Nam thành phố B, hẹn sẽ trả tiền thuê xe cho chị T2 là 250.000 đồng và trả xe cho chị T2 vào buổi trưa cùng ngày. Do quen biết với P nên chị T tin tưởng, đồng ý và hẹn P đến cổng trường Đại học T, thành phố B và giao chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision, màu đen bạc, biển số 48D1-076.04 của chị T2 cho P mượn để sử dụng. Sau đó, P điều khiển xe mô tô trên đi đến tiệm cầm đồ Z, ở địa chỉ số 257 N, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Tại đây, P gặp anh Nguyễn Duy P (là nhân viên tiệm cầm đồ), P nói muốn cầm cố chiếc xe và đưa giấy chứng nhận đăng ký của xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision, biển kiểm soát 48D1-076.04 (đã có sẵn trong cốp xe) cho anh P kiểm tra, thì anh P1 đồng ý nhận cầm cố chiếc xe mô tô biển kiểm soát 48D1-076.04 với số tiền 6.000.000 đồng.

Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 17/7/2022, P tiếp tục sử dụng điện thoại nhắn tin (qua ứng dụng Messenger) cho anh Hoàng Anh Đ, mượn xe mô tô để đi chở hàng nhưng Đ không có xe nên đã giới thiệu P cho anh Lê Văn T1, sinh năm 2004, trú tại: Buôn H, xã E, thành phố B (là bạn anh Đ). Sau đó, P liên lạc và nói dối với anh T1 là P cần mượn xe mô tô của anh T1 để đi chở hàng tại bến xe phía Nam thành phố B và nói sẽ trả tiền thuê xe cho anh T1 là 250.000 đồng và hẹn 15 giờ chiều cùng ngày sẽ trả xe cho anh T1. Khoảng 12 giờ cùng ngày, anh T1 điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda SH Mode màu nâu trắng, biển kiểm soát 47B2-144.96 đến địa chỉ 363 Phạm Văn Đ, phường T, thành phố B chở P. Trên đường đi, P nói anh T1 đưa xe cho P để đi lấy hàng tại bến xe phía Nam và có chở theo người khác đi cùng nên anh T1 không đi cùng được và đưa trước cho anh T1 số tiền 100.000 đồng. Do tin tưởng P nên anh T1 đã giao xe mô tô cho P. Sau khi nhận xe, P mở cốp xe kiểm tra thấy có Giấy chứng nhận đăng ký xe và điều khiển xe mô tô trên đi đến tiệm cầm đồ Hoàng Gia P1, cầm cố xe mô tô biển kiểm soát 47B2-144.96, được số tiền 32.000.000 đồng.

Khoảng 14 giờ ngày 17/7/2022, P gọi điện thoại cho chị Lê Nguyễn Cẩm T3, nói dối là cần mượn xe mô tô của chị T3 để đi chở hàng ở bến xe phía Nam thành phố B, hẹn trả cho chị T3 trả tiền thuê là 250.000 đồng và trả xe vào buổi chiều tối cùng ngày. Do quen biết P nên chị T3 đã tin tưởng và đồng ý. P nói chị Tú đi xe mô tô đến đường Nguyễn Công T, thành phố B để đón Phát, tại đây P hỏi chị T3 xe này có giấy tờ không thì chị T3 nói không có nên P nói chị T3 tìm xe nào có giấy tờ thì chị T3 chở P về nhà chị T3 ở số 3/5, phường E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk để đổi xe. Tại đây, chị T3 đưa cho P 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đỏ bạc, biển kiểm soát 47N9-4338. P hỏi chị T3 giấy chứng nhận đăng ký xe thì chị T3 nói để trong cốp của xe. Sau đó, P điều khiển xe đến tiệm cầm đồ Z, cầm cố xe mô tô biển kiểm soát 47N9-4338, được số tiền 4.000.000 đồng.

Khoảng 15 giờ cùng ngày, P sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu Apple Iphone 6 plus nhắn tin (qua ứng dụng Messenger) cho anh Vũ Adrơng Đức N, nói dối là mượn xe mô tô của anh N để đi chở hàng, hẹn sẽ trả tiền thuê xe cho N là 250.000 đồng và sẽ trả xe vào buổi tối cùng ngày. Do quen biết nên anh N tin tưởng, đồng ý và giao chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Blade, màu đen đỏ trắng, biển kiểm soát 47H1-573.92 cho P. P mở cốp xe thấy có giấy chứng nhận đăng ký của xe. Sau đó, P điều khiển xe mô tô trên đi đến tiệm cầm đồ Z để cầm cố chiếc xe mô tô biển kiểm soát 47H1- 573.92, được số tiền 8.000.000 đồng.

Đến khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày, anh Lê Văn T1 thấy P đang đi bộ trên đường N, phường T, thành phố B, anh T1 hỏi P về chiếc xe mô tô Honda SH Mode, màu nâu trắng, biển kiểm soát 47B2-144.96 của anh T1 thì P nói đã cầm cố lấy tiền tiêu xài hết. Ngày 17/7/2022, anh T1 đã yêu cầu P đi cùng anh T1 đến Cơ quan Công an để trình báo vụ việc. Quá trình làm việc, P đã khai nhận về hành vi chiếm đoạt tài sản của những người nói trên.

Ngày 18/7/2022, anh Nguyễn Duy P1 đã giao nộp 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision, màu đen bạc, biển kiểm soát 48D1-076.04; 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda SH Mode màu nâu trắng, biển kiểm soát 47B2-144.96; 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đỏ bạc, biển kiểm soát 47N9-4338; 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Blade, màu đen đỏ trắng, biển kiểm soát 47H1- 573.92 và toàn bộ giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột để phục vụ công tác điều tra.

Kết luận định giá tài sản số 129/KL-HĐĐGTS ngày 30/7/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Buôn Ma Thuột kết luận:

01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision, màu đen bạc, biển kiểm soát 48D1-076.04, đã qua sử dụng (tài sản đã được thu hồi) trị giá 6.000.000 đồng (Sáu triệu đồng).

01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda SH Mode màu nâu trắng, biển kiểm soát 47B2-144.96, đã qua sử dụng (tài sản đã được thu hồi) trị giá 43.800.000 đồng (Bốn mươi ba triệu tám trăm nghìn đồng).

01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đỏ bạc, biển kiểm soát 47N9-4338, đã qua sử dụng (tài sản đã được thu hồi) trị giá 5.500.000 đồng (Năm triệu năm trăm nghìn đồng).

01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Blade, màu đen đỏ trắng, biển kiểm soát 47H1-573.92, đã qua sử dụng (tài sản được thu hồi) trị giá 12.000.000 đồng (Mười hai triệu đồng).

Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là: 67.300.000 đồng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 351/2022/HS-ST ngày 21/12/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh ắk ắk đã quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Trần Thành P phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 174; Điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Nguyễn Trần Thành P 03 (ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù, tính từ ngày bắt thi hành án. Được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/7/2022 đến ngày 11/8/2022.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, trách nhiệm dân sự, án phí và quyền kháng cáo theo quy định.

Ngày 22/12/2022, bị cáo Nguyễn Trần Thành P kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Trần Thành P khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Bản cáo trạng và Bản án hình sự sơ thẩm cũng như lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra.

Quá trình tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát xác định Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Nguyễn Trần Thành P về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 174 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tuy nhiên, mức hình phạt 03 năm tù là có phần nghiêm khắc, vì bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo, sửa Bản án sơ thẩm về hình phạt, xử phạt bị cáo Phát từ 02 năm đến 02 năm 03 tháng tù và đồng thời giữ nguyên các Quyết định khác của Bản án sơ thẩm.

Bị cáo Nguyễn Trần Thành P không tranh luận gì, chỉ xin Hội đồng xét xử phúc thẩm giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo hưởng án treo để được tiếp tục đi học Đại học.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận: Do ý thức coi thường pháp luật, coi thường quyền sở hữu tài sản của người khác, nên trong cùng một ngày từ 07 giờ 30 phút đến 15 giờ ngày 17/7/2022, bị cáo P đã lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác bằng cách đưa ra tng tin gian dối là P cần mượn xe mô tô đi chở hàng, hứa hẹn trả tiền thuê xe để người khác tin tưởng là sự thật và giao xe cho P rồi P đem đi cầm cố lấy tiền tiêu xài. Tổng giá trị tài sản là 04 chiếc xe mô tô mà bị cáo Nguyễn Trần Thành P chiếm đoạt của 04 bị hại là 67.300.000 đồng.

Do đó, Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột xét xử bị cáo Nguyễn Trần Thành P về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, thì thấy: Xét mức hình phạt 03 (ba) năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm tuyên phạt bị cáo Nguyễn Trần Thành P là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, tác động xấu đến tình hình trật tự trị an xã hội, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân, chỉ trong một thời gian ngắn mà bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội nhiều lần. Do vậy, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự do hành vi phạm tội của mình gây ra; mặc dù bị cáo là sinh viên và có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và sau khi phạm tội bị cáo cùng gia đình đã bồi thường đầy đủ cho các bị hại, được các bị hại bãi nại cho bị cáo, bị cáo phạm tội lần đầu nhưng do bị cáo phạm tội nghiêm trọng, thực hiện hành vi phạm tội nhiều lần nên bị cáo không đủ điều kiện để được hưởng án treo theo quy định của pháp luật. Vì vậy, không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo, cần giữ nguyên Bản án sơ thẩm về hình phạt.

[3] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Về án phí phúc thẩm: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Nguyễn Trần Thành P phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự, Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Trần Thành P, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm về hình phạt.

[2] Điều luật áp dụng, tội danh và mức hình phạt:

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Trần Thành P phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 174; Điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Trần Thành P 03 (ba) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù, tính từ ngày bắt thi hành án và được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/7/2022 đến ngày 11/8/2022.

[3] Về án phí phúc thẩm: Bị cáo Nguyễn Trần Thành P phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

248
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 53/2023/HS-PT

Số hiệu:53/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về