Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 526/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 526/2023/HS-PT NGÀY 30/10/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 30-10-2023, tại trụ sở. Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 339/2023/TLPT-HS ngày 27-9-2023 đối với bị cáo Nguyễn Quang N. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 70/2023/HS-ST ngày 14-8-2023 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng.

- Bị cáo kháng cáo:

Nguyễn Quang N, sinh ngày 16-3-1991 tại Quảng Nam; nơi đăng kýHKTT: Thôn A, huyện Q, tỉnh Quảng Nam; chỗ ở: Số D C, phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: Không; là Đảng viên Đ (đang bị tạm đình chỉ sinh hoạt đảng); con ông Nguyễn Ngọc L và bà Võ Thị X; vợ là Phạm Thị Thanh M và 02 con; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bắt ngày 03-11-2022, hiện đang tạm giam tại Trại giam Công an thành phố Đ, có mặt tại phiên tòa.

- Người tham gia tố tụng có liên quan đến kháng cáo: Bị hại:

1. Anh Võ Xuân H, sinh năm 1991 và chị Vũ Thị T, sinh năm 1990; cùng địa chỉ cư trú: Thôn Q, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Quảng Nam, vắng mặt.

2. Anh Nguyễn Công N1, sinh năm 1997; địa chỉ cư trú: Tổ D, thôn Đ, xã B, huyện T, tỉnh Quảng Nam, vắng mặt.

3. Anh Đặng Văn K, sinh năm 1991; địa chỉ cư trú: Tổ D, thôn Q, xã H, huyện H, thành phố Đà Nẵng, vắng mặt.

4. Ông Hoàng V, sinh năm 1958; địa chỉ cư trú: Thôn P, xã G, huyện G, tỉnh Quảng Trị, vắng mặt.

5. Ông Hoàng Công M1, sinh năm 1987; địa chỉ cư trú: Số B P, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng, vắng mặt.

(Vụ án còn có bị cáo Cao Thanh Â, nhưng không kháng cáo; có 13 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và 01 người làm chứng, nhưng không liên quan đến kháng cáo, nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không triệu tập).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong khoảng thời gian từ năm 2012 đến năm 2022, Cao Thanh  cùng Nguyễn Quang N đã nảy sinh ý định thông qua hình thức xin việc làm, chuyển công tác để chiếm đoạt tài sản.

Lần thứ 01: Khoảng tháng 02-2012, anh Hoàng Cát V1 có nhu cầu xin việc cho em ruột là chị Hoàng Thị Như Y, nên nhờ anh Trần Đình L1 giới thiệu người để xin việc làm cho chị Y.

Ngày 24-3-2012, anh Trần Đình L1 nói đã tìm được người xin việc và dẫn anh V1 đến gặp Cao Thanh  tại một quán Cà phê ở thành phố Đà Nẵng. Tại đây, anh V1 nói với Cao Thanh  muốn xin việc cho em là Hoàng Thị Như Y vào một Ngân hàng Nhà nước tại Đà Nẵng thì  nói “Nếu xin việc tại Ngân hàng của Nhà nước thì chi phí là 150.000.000 đồng, đưa trước 80.000.000 đồng và hai tháng sau có việc thì thanh toán hết số tiền còn lại”, anh V1 đồng ý. Ngày 27-3-2012,  và anh L1 ra nhà ông Hoàng V (là cha ruột của anh Hoàng Cát V1 và chị Hoàng Thị Như Y) ở huyện G, tỉnh Quảng Trị để trao đổi về việc xin việc làm cho chị Y,  nói có anh ruột làm ở Bộ C nên có thể xin được. Nghe vậy, ông V và anh V1 tin tưởng, đồng ý. Ngày 28-3-2012,  gọi điện cho anh V1 nói chuyển tiền, nên cùng ngày ông Hoàng V chuyển cho V1 số tiền 50.000.000 đồng. Ngày 29-3-2012, anh V1 chuyển 50.000.000 đồng từ số tài khoản 711A2209xxxxx của anh V1 mở tại Ngân hàng S - Chi nhánh N2, thành phố Hà Nội vào tài khoản số 0600358xxxxx, mở tại Ngân hàng Sacombank thành phố S của Cao Thanh Â. Ngày 02-4-2012,  gọi điện cho anh V1 nói đang cần tiền gấp và yêu cầu anh V1 chuyển tiếp 10.000.000 đồng vào tài khoản số 711A486xxxxx mở tại Ngân hàng V3 đứng tên Đặng Thị T1. Ngày 03-4-2012, anh V1 tiếp tục chuyển 20.000.000 đồng vào tài khoản Ngân hàng S của Cao Thanh Â. Sau khi nhận đủ 80.000.000 đồng,  hứa hẹn sau hai tháng sẽ xin được việc cho chị Y nhưng hết thời hạn theo thoả thuận,  vẫn không xin việc cho chị Y mà sử dụng số tiền 80.000.000 đồng vào mục đích trả nợ và tiêu xài cá nhân. Sau đó,  liên tục hứa hẹn với gia đình anh V1 sẽ xin việc cho chị Y, nhưng không thực hiện.

Lần thứ 02: Tháng 6-2019, Cao Thanh  đến Khách sạn C1 tại số C A, phường M, quận N, thành phố Đà Nẵng thuê Phòng số 205 do ông Hoàng Công M1 làm chủ. Trong lúc thuê phòng, do cần tiền tiêu xài cá nhân,  giới thiệu “ làm xưởng gỗ tại thị xã Đ” và cần bán 01 (một) bộ phản 04 (bốn) tấm,  có chụp hình bằng tin nhắn Zalo gửi hình ảnh  đang đứng trong xưởng gỗ, anh M1 tin tưởng đồng ý mua phản gỗ với giá 60.000.000 đồng.  yêu cầu anh M1 phải đặt cọc 35.000.000 đồng, ngày 29-6-2019, anh M1 chuyển 35.000.000 đồng từ tài khoản số 02710010xxxxx Ngân hàng V4 của anh M1 qua tài khoản số 6311000064xxxx Ngân hàng B của Cao Thanh  tại Khách sạn C1. Sau khi nhận tiền,  viết Giấy nhận cọc và đưa cho anh M1 giữ. Tối cùng ngày,  hẹn anh M1 xuống quán Cà phê gần khách sạn, yêu cầu anh M1 cọc tiếp 10.000.000 đồng, anh M1 đồng ý, trực tiếp đưa 10.000.000 đồng cho Â.  hẹn thời gian 01 tháng sau sẽ vận chuyển bộ phản đến Khách sạn và thanh toán số tiền còn lại. Đến hẹn, anh M1 yêu cầu  chuyển bộ phản gỗ, nhưng  liên tục thất hứa. Sau nhiều lần, anh M1 yêu cầu hối thúc thì  dọn đồ bỏ đi.

Lần thứ 3: Cuối năm 2019, trong một lần dự tiệc tất niên xóm tại đường C, phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng, Nguyễn Quang N gặp anh Võ Xuân H. Quá trình nói chuyện, N biết anh H công tác tại Công an tỉnh Q, xa gia đình, N đặt vấn đề, hứa hẹn nhờ người xin cho H chuyển công tác từ Công an tỉnh Q về Công an thành phố Đ. N liên hệ với Cao Thanh  để nhờ  xin cho H và  đồng ý. Khi gặp anh H,  thể hiện mình là người có nhiều mối quan hệ quen biết, đưa thông tin gian dối rằng  có thể lo được cho H. Ngày 13-01-2020, Cao Thanh  điện thoại cho anh H yêu cầu anh H chuyển 50.000.000 đồng để gặp Giám đốc Công an thành phố Đ. Cùng ngày, anh H chuyển 50.000.000 đồng vào tài khoản số 333010265xxxx Ngân hàng MB của N. N chuyển 35.000.000 đồng vào tài khoản số 6311000064xxxx Ngân hàng BIDV của  và giữ lại 15.000.000 đồng. Ngày 14-01-2020,  gọi điện cho N yêu cầu chuyển số tiền còn lại cho Â, thì N chuyển vào tài khoản BIDV số 6311000064xxxx của  thêm 10.000.000 đồng, giữ lại 5.000.000 đồng để tiêu xài cá nhân.

Ngày 16-01-2022,  điện thoại yêu cầu anh H tiếp tục chuyển cho  110.000.000 đồng để lo tiếp việc, đồng thời  gọi điện cho N để N qua nhà anh H nói chuyện và hối thúc anh H chuyển tiền. Sau đó, anh H chuyển cho N 100.000.000 đồng (chuyển hai lần, mỗi lần 50.000.000 đồng) vào tài khoản số 333010265xxxx Ngân hàng MB của N. Sau khi nhận được tiền từ anh H, N chuyển vào tài khoản số 6311000064xxxx Ngân hàng BIDV của  số tiền 95.000.000 đồng, số tiền 5.000.000 đồng còn lại, N giữ tiêu xài cá nhân.

Sau đó, giữa  và N có mâu thuẫn về tiền bạc, cãi nhau nên cắt liên lạc.  cũng không liên hệ với anh H để yêu cầu chuyển tiền như trước. Lúc này, do cần tiền tiêu xài, N vẫn đưa thông tin gian dối với anh H là đang tiếp tục lo việc cho anh H. Trong ngày 21-01-2022, anh H sử dụng ứng dụng Viettel Pay chuyển vào tài khoản số 333010265xxxx Ngân hàng MB của N 25.000.000 đồng. Ngày 23-01- 2020, anh H đã giao thêm 20.000.000 đồng cho N bằng tiền mặt tại nhà của anh H. Đến tháng 8-2020, N đến gặp anh H, yêu cầu anh H đưa 30.000.000 đồng để N và  tiếp tục lo việc cho anh H. Từ đó đến nay, N liên tục hứa hẹn về việc chuyển công tác cho anh H, nhưng do thời gian đã lâu mà N không xin chuyển công tác cho mình, nên vợ chồng anh H yêu cầu trả lại tiền, nhưng N luôn né tránh hoặc hứa hẹn.

Như vậy, N cùng  chiếm đoạt 150.000.000 đồng, N chiếm đoạt số tiền 75.000.000 đồng.

Lần thứ 04: Khoảng đầu tháng 6-2022, Nguyễn Công N1 thông qua giới thiệu của người bạn tên Nguyễn Quang H1 gặp và nhờ Cao Thanh  xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với lô đất 400 m2 của anh N1 tại xã B, huyện T, tỉnh Quảng Nam. Ân nói dối là có quen biết với nhiều cán bộ địa chính và các cán bộ làm trong Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Q và xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cho nhiều người rồi.  đưa ra chi phí để giúp gia đình anh N1 được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với 400 m2 đất ở là 140.000.000 đồng, nhưng do điều kiện kinh tế khó khăn, anh N1 không đồng ý. Lúc này,  tiếp tục nói là có cách để xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong đó 300 m2 đất thổ cư, còn lại 100 m2 đất trồng cây với chi phí là 60.000.000 đồng và cam đoan trong vòng 04 tháng sẽ có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thì anh N1 đồng ý.

Ngày 28-7-2022,  gọi điện cho anh N1 nói cần tiền chốt hồ sơ và đi nhờ người làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, yêu cầu chuyển cho  20.000.000 đồng,  gửi số tài khoản 0188897xxxx Ngân hàng MB, tên chủ tài khoản là Trần Minh H2. Sau khi anh H2 nhận được số tiền trên,  yêu cầu anh H2 chuyển khoản đến số tài khoản 010119835xxxx Ngân hàng MB của Â. Ngày 03-8-2022,  tiếp tục nói anh N1 chuyển 20.000.000 đồng vào số tài khoản 505152535xxxx Ngân hàng MB, tên chủ tài khoản là Trương Văn P và nói dối anh N1 là để nhờ người làm giúp. Tin tưởng Â, anh N1 chuyển tiền vào số tài khoản trên, sau khi nhận được tiền,  nói anh P chuyển 15.000.000 đồng qua tài khoản Ngân hàng cho Nguyễn Quang H1, còn lại 5.000.000 đồng, anh P giao lại cho  bằng tiền mặt. Toàn bộ số tiền này,  nhờ anh H1 chuyển khoản trả nợ cho Â. Anh N1 nhiều lần hỏi  thủ tục xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất như thế nào? thì  cứ hứa hẹn, tránh né, kéo dài thời gian. Khi biết  bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận C, thành phố Đà Nẵng khởi tố về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, anh N1 biết mình bị lừa nên gửi đơn trình báo.

Lần thứ 05: Ngày 02-4-2022, Đặng Thanh V2 bị Công an huyện H bắt tạm giam về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, anh Đặng Văn K (anh trai ruột của V2) liên hệ với Cao Thanh  và nhờ  giúp V2 giảm án,  nói dối là đi gặp lãnh đạo ngành Công an và Tòa án để xin giảm nhẹ hình phạt cho V2 mức án từ 02 (hai) năm đến 03 (ba) năm.

Ngày 10-4-2022, anh Đặng Văn K chuyển 100.000.000 đồng vào số tài khoản 010119835xxxx Ngân hàng MB của  (02 lần, mỗi lần 50.000.000 đồng).

Ngày 12-4-2022, Cao Thanh  gọi điện cho anh K yêu cầu chuyển thêm 120.000.000 đồng và nói dối là để  đi gặp Lãnh đạo Cơ quan Công an. Ngày 15- 4-2022, anh K chuyển vào số tài khoản 010119835xxxx của  số tiền 50.000.000 đồng. Ngày 18-4-2022, anh K tiếp tục chuyển khoản vào tài khoản của  40.000.000 đồng và giao trực tiếp cho  20.000.000 đồng.

Ngày 07-5-2022,  liên hệ với anh K hứa hẹn xin cho V2 được hưởng án treo với chi phí là 350.000.000 đồng và yêu cầu K giao thêm cho  140.000.000 đồng nữa, anh K đồng ý. Cùng ngày, anh K nhờ chú ruột là ông Nguyễn Văn H3 chuyển vào tài khoản của  100.000.000 đồng và ngày 09-5-2022, anh K chuyển khoản vào tài khoản của  50.000.000 đồng.

Ngày 05-10-2022, Â tiếp tục yêu cầu anh K đưa thêm 50.000.000 đồng. Sau đó, Â nói anh Nguyễn Quang H1 đến nhà anh K nhận 50.000.000 đồng và đem về giao lại cho Â. Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 70/2023/HS-ST ngày 14-8-2023, Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng:

Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 174; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

khoản 1 Điều 54 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

Nguyễn Quang N 04 (bốn) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 03-11-2022.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về tội danh, hình phạt (13 năm tù) đối với Cao Thanh Â; quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

- Ngày 25-8-2023, Nguyễn Quang N kháng cáo xin giảm hình phạt.

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Nguyễn Quang N kháng cáo bản án. Đơn kháng cáo của bị cáo là trong thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, do đó Hội đồng xét xử quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm.

Tại phiên tòa, bị cáo giữ nguyên kháng cáo; đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo; giữ nguyên quyết định của bản án hình sự sơ thẩm về trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

Bị cáo tranh luận công khai; nói lời sau cùng bị cáo tỏ ra ăn năn, hối hận về hành vi phạm tội của mình và đề nghị được giảm hình phạt.

[2]. Xét kháng cáo của bị cáo:

[2.1]. Về tội danh:

Cao Thanh  không có nghề nghiệp, nhưng để có tiền tiêu xài,  đã tự đưa ra những thông tin gian dối như có nhiều mối quan hệ quen biết với những người có thẩm quyền để xin việc làm, xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, xin chuyển công tác, xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo… nhằm làm cho người khác tin tưởng để giao tiền rồi chiếm đoạt. Trong khoảng thời gian từ tháng 02-2012 đến tháng 4-2022, trên địa bàn huyện G, tỉnh Quảng Trị và thành phố Đà Nẵng,  đã nhiều lần đưa ra thông tin gian dối để chiếm đoạt của vợ chồng anh Võ Xuân H, chị Vũ Thị T, anh Nguyễn Công N1, ông Đặng Văn K, ông Hoàng V, ông Hoàng Công M1 với tổng số tiền là 725.000.000 đồng.

Mặc dù, Nguyễn Quang N biết Cao Thanh  không có nghề nghiệp ổn định và cũng không có khả năng xin chuyển công tác cho ông Võ Xuân H từ Công an tỉnh Q về công tác tại Công an thành phố Đ, nhưng vì muốn có tiền, N đã câu kết với Cao Thanh Â, đưa ra thông tin gian dối hứa lo xin việc cho ông H, làm cho vợ chồng ông Võ Xuân H, bà Vũ Thị T tin tưởng giao tiền rồi cùng  chiếm đoạt tổng số tiền là 225.000.000 đồng.

Với hành vi phạm tội nêu trên, Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng kết án Nguyễn Quang N về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 3 Điều 174 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2.2]. Về hình phạt:

Quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, Nguyễn Quang N có đủ nhận thức để đánh giá, phân biệt được việc làm của mình, nhưng do muốn có tiền tiêu xài cá nhân, bị cáo đã cùng với Cao Thanh  thực hiện hành vi gian dối để chiếm đoạt của vợ chồng anh Võ Xuân H 225.000.000 đồng. Do đó, cần xử phạt bị cáo hình phạt nghiêm khắc, nhưng do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; quá trình điều tra tự nguyện nộp lại số tiền đã chiếm đoạt và được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt; nhân thân lần đầu phạm tội và trước đó bị cáo có thời gian phục vụ trong quân đội. Vì vậy, Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xử phạt bị cáo 04 năm tù (dưới mức thấp nhất của khung hình phạt) là thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật.

Bị cáo kháng cáo xin giảm hình phạt, nhưng tại Tòa án cấp phúc thẩm không cung cấp được tài liệu để chứng minh có thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; đồng thời, hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp rất nghiêm trọng; xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân; ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự, trị an địa phương và gây nhiều dư luận xấu trong nhân dân. Vì vậy, để cải tạo giáo dục đối với bị cáo, cũng như ngăn chặn và phòng ngừa chung đối với loại tội phạm này, Hội đồng xét xử phúc thẩm không giảm hình phạt cho bị cáo.

Như vậy, kháng cáo của bị cáo đã được Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét và không có cơ sở để chấp nhận.

[3]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không xem xét.

[4]. Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận, nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Quang N. - Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 70/2023/HS-ST ngày 14-8-2023 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng.

2. Về trách nhiệm hình sự:

Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 174; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

khoản 1 Điều 54 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

Nguyễn Quang N 04 (bốn) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 03-11-2022.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Về án phí hình sự phúc thẩm:

Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Bị cáo Nguyễn Quang N phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

168
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 526/2023/HS-PT

Số hiệu:526/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/10/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về