Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 500/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 500/2022/HS-PT NGÀY 12/12/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 12 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 379/2022/TLPT-HS ngày 06 tháng 9 năm 2022 đối với bị cáo Đặng Thị S về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Do có kháng cáo của bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 43/2022/HS-ST ngày 01 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 228/2022/QĐXXPT-HS ngày 22 tháng 11 năm 2022.

- Bị cáo:

Họ và tên: Đặng Thị S (tên gọi khác: H), sinh năm 1988 tại tỉnh T Thiên Huế; nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: tỉnh Quảng Nam; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 01/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng B và con bà Trần Thị T; có chồng tên là Lê Thanh T và có 02 con, con lớn sinh năm 2005, con nhỏ sinh năm 2008; tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 28/11/2018, hiện đang bị tạm giạm tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Nam, có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại có kháng cáo:

1. bà Nguyễn Thị Thúy V, sinh năm 1982; nơi đăng ký HKTT: thành phố Đà Nẵng; chỗ ở hiện nay: thành phố Đà Nẵng, có mặt tại phiên tòa.

2. ông Trần D, sinh năm 1977 và bà Phạm Thị Thanh T, sinh năm 1983; cùng trú tại: thôn A, xã D, huyện D, tỉnh Quảng Nam. Người đại diện theo ủy quyền: ông Đặng Ngọc T, sinh năm 1983; trú tại: tỉnh Quảng Nam, có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: bà Võ Thị P, sinh năm 1958; trú tại:

huyện D, tỉnh Quảng Nam, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong khoảng thời gian từ tháng 5/2018 đến tháng 11/2018, do kinh doanh bị thua lỗ dẫn đến không có khả năng trả nợ, Đặng Thị S đã nảy sinh ý định lừa đảo chiếm đoạt tài sản của nhiều người. Thực hiện ý định đó, S nói dối với nhiều người là mình đang kinh doanh bất động sản ở H, T, D, kinh doanh nhà hàng ở H, đổi ngoại tệ và kinh doanh yến sào, công việc đầu tư làm ăn rất thuận lợi để nhiều người tin tưởng cho S vay tiền. Sau khi nhận được tiền, S trích lại một phần để trả lãi cho bị hại và nói là tiền lợi nhuận thu được từ công việc kinh doanh của S nhằm làm cho các bị hại tin tưởng tiếp tục cho S vay với số tiền lớn hơn. Ngoài ra, trong khoảng thời gian trên, S còn dùng thủ đoạn gian dối thông qua việc nâng giá đất lên để các cá nhân đồng ý bán đất cho S, S còn đưa ra thông tin đã có người đồng ý mua lại với giá cao hơn, S đang đầu tư nhiều lô đất nên chưa có tiền mặt vì vậy các bị hại tin tưởng ký các thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho S. Tuy nhiên sau khi nhận được quyền sử dụng đất, S đem bán cho người khác lấy tiền tiêu xài, trả nợ, chiếm đoạt, không trả cho các bị hại như hứa hẹn.

Quá trình điều tra xác định, trong khoảng thời gian từ tháng 5/2018 đến tháng 11/2018, Đặng Thị S đã lừa đảo chiếm đoạt tài sản của 15 bị hại với tổng số tiền là 46.754.424.000 đồng, cụ thể:

Vụ thứ nhất: lừa đảo chiếm đoạt của anh Nguyễn Thành D số tiền 28.870.000.000đ:

Anh D thường đến uống cà phê tại quán cà phê Sạch của S, qua tiếp xúc và nghe S giới thiệu, anh D tin tưởng công việc làm ăn của S rất thuận lợi. Khoảng cuối tháng 9/2018 anh D nghe S rủ góp vốn mua đất tại T để bán lại kiếm lời, S còn nói lô đất này có lợi nhuận cao và đã có người mua nên anh D tin tưởng đồng ý góp cho S số tiền 4.100.000.000 đồng (bốn tỷ một trăm triệu đồng) vào ngày 27/9/2018. S và anh D có ký Hợp đồng vay tiền, S hẹn trong thời hạn 07 ngày (từ ngày 27/9/2018 đến ngày 04/10/2018) sẽ bán đất, chia tiền lãi cho anh D. Khoảng 05 ngày sau, S gặp anh D giả vờ nói rằng S đã bán lại lô đất cho người khác lời được 6.000.000.000 đồng (sáu tỷ đồng) nên chia cho anh D 2.000.000.000 đồng. S hỏi anh D số tiền gốc 4.100.000.000 đồng anh D muốn nhận lại hay là để đầu tư tiếp, anh D thấy S làm ăn có lợi nhuận cao nên đồng ý để cho S vay tiếp. Sau đó, S nhiều lần gặp anh D vay tiền để kinh doanh, mua bán đất, anh D tin tưởng lấy tiền cá nhân có được và vay, mượn thêm của nhiều người để đưa cho S 24.770.000.000 đồng (hai mươi bốn tỷ bảy trăm bảy mươi triệu đồng). Tổng số tiền S đã vay và chiếm đoạt của anh D là 28.870.000.000 đồng (hai mươi tám tỷ tám trăm bảy mươi triệu đồng). Qua điều tra xác định số tiền S chiếm đoạt của anh D không dùng để kinh doanh mua bán đất mà đem trả nợ, S còn dùng một phần để trả cho anh D dưới hình thức chia lãi với số tiền là 5.870.000.000 đồng. Hiện tại S còn chiếm đoạt của anh Nguyễn Thành D số tiền 23.000.000.000 đồng (hai mươi ba tỷ đồng).

Vụ thứ hai: lừa đảo chiếm đoạt của bà Phạm Thị H số tiền 2.500.000.000đ:

Thông qua mối quan hệ quen biết, S nói dối với bà H là đang cần tiền mua lô đất ở xã D để bán lại kiếm lời, do S mới mua nhiều lô đất ở H chưa bán ra kịp nên S thiếu tiền mua lô đất này. S hứa hẹn sau khi mua xong sẽ bán lại trả tiền gốc và chia lãi cho bà H. Từ ngày 03/10/2018 đến 12/10/2018 bà H đã tin tưởng cho S vay với tổng số tiền 2.500.000.000 đồng (hai tỷ năm trăm triệu đồng), có lập Hợp đồng có công chứng. Ngày 20/10/2018 S đưa cho bà H 100.000.000 đồng và nói là lô đất này đã có người mua và đặt cọc. Qua điều tra xác định số tiền S chiếm đoạt của bà H không dùng để kinh doanh mà đem đi trả nợ. Đến nay S còn chiếm đoạt của bà H số tiền 2.400.000.000 đồng (hai tỷ bốn trăm triệu đồng).

Vụ thứ ba: lừa đảo chiếm đoạt của anh Nguyễn Đ số tiền 1.000.000.000đ:

S quen biết ông Đ thông qua công việc môi giới đất đai trước đây. Ngày 15/11/2018 S điện thoại cho ông Đ và nói dối là S đang có nhu cầu mua đất nhưng bị thiếu tiền nên cần vay tiền, ông Đ đồng ý cho S vay số tiền 420.000.000 đồng (Hợp đồng vay tiền có công chứng với thời hạn 05 ngày, từ ngày 15/11/2018 đến ngày 20/11/2018). Cũng với lý do thiếu tiền mua đất, trong ngày 15/11/2018 S vay tiếp của ông Đ số tiền 230.000.000 đồng; ngày 17/11/2018 S vay tiếp ông Đ 350.000.000 đồng. Toàn bộ số tiền vay của ông Đ, S đem tiêu xài và trả nợ hết. Tổng cộng S chiếm đoạt của ông Nguyễn Đ số tiền 1.000.000.000 đồng (một tỷ đồng).

Vụ thứ tư: lừa đảo chiếm đoạt của anh Nguyễn Thành T số tiền 800.000.000đ:

Ngày 18/9/2018 S rủ anh T chung tiền để mua đất tại H, S nói dối lô đất này đã có người mua lại và hẹn một tuần sau sẽ chia cho anh T số tiền lãi là 170.000.000 đồng, anh T đồng ý. Ngày 20/9/2018 S và anh T lập Hợp đồng vay tiền, anh T đưa cho S 800.000.000 đồng nhưng S bảo anh T ghi trên Hợp đồng 970.000.000 đồng (trong đó có 170.000.000 đồng là tiền lãi của việc mua đất). S hẹn trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày 20/9/2018 đến ngày 05/10/2018 sẽ trả. Để anh T tin tưởng, ngày 24/9/2018 S đem đến đưa cho anh T số tiền 170.000.000 đồng và nói là chia tiền lãi trước, còn số tiền gốc 800.000.000 đồng đến ngày 05/10/2018 S sẽ trả. Tuy nhiên đến thời hạn trả nợ S không trả, anh T không liên lạc được với S. Đến nay S còn chiếm đoạt của anh T số tiền 630.000.000 đồng (sáu trăm ba mươi triệu đồng).

Vụ thứ năm: lừa đảo chiếm đoạt của anh Lâm Viết H số tiền 900.000.000đ:

Ngày 17/11/2018 Đặng Thị S đến nhà anh H để vay tiền. S nói dối anh H là S đang cần vay tiền để mua đất để bán lại kiếm lời, anh H đồng ý cho S vay số tiền 900.000.000 đồng. S hẹn đến ngày 19/11/2018 sẽ trả (có giấy mượn tiền). Tuy nhiên đến thời hạn trả nợ thì S không trả và hẹn sang ngày 20/11/2018 trả, sau đó S bỏ đi khỏi địa phương, anh H không liên lạc được. Số tiền vay của anh H, S đem tiêu xài và trả nợ hết. Đến nay S còn chiếm đoạt của anh H số tiền 900.000.000 đồng (chín trăm triệu đồng).

Vụ thứ sáu: lừa đảo chiếm đoạt của chị Phan Thị L số tiền 631.000.000đ:

Khoảng đầu tháng 8/2018 chị L đi làm từ thiện ở Quảng Trị có gặp và quen biết Đặng Thị S. S nói với chị L là S đang kinh doanh yến và đổi ngoại tệ có lợi nhuận cao nên rủ chị L chung vốn làm ăn. Chị L tin tưởng và nhiều lần đưa tiền góp vốn cho S. Từ ngày 17/8/2018 đến ngày 24/10/2018 S đã nhận tiền của chị L và chiếm đoạt, cụ thể như sau:

+ Ngày 17/8/2018 chị L đưa cho S 650.000.000 đồng, sau 10 ngày S đem đến chia cho chị L 130.000.000 đồng và nói dối là tiền lời. S còn nợ lại 520.000.000 đồng;

+ Ngày 03/9/2018 chị L đưa cho S 380.000.000 đồng, sau đó 10 ngày S đến đưa chị L 200.000.000 đồng; ngày 13/10/2018 S đưa chị L 123.000.000 đồng và nói dối là cho chị L ứng trước tiền lời. S còn nợ lại 57.000.000 đồng;

+ Ngày 13/10/2018 chị L đưa cho S 100.000.000 đồng, S gửi lại chị L 50.000.000 đồng và nói dối là tiền kinh doanh yến có lời. S còn nợ lại 50.000.000 đồng;

+ Ngày 01/10/2018 chị L đưa cho S 800.000.000 đồng để S mua lô đất ở H. Khoảng 10 ngày sau S đưa chị L 400.000.000 đồng, S còn nợ lại 400.000.000 đồng;

+ Ngày 17/10/2018 S nói với chị L là có người cần tiền trả Ngân hàng nên bán rẻ lô đất, S nói chị L đưa tiền cho S để mua rồi bán lại kiếm lời. Chị L đồng ý đưa cho S 1.450.000.000 đồng. Ngày 18/10/2018 chị L bảo S đưa chị L đi công chứng nhưng sau đó thấy giá đất quá cao, không rẻ như S nói nên chị L không đồng ý góp vốn và bảo S đưa tiền lại. S đưa lại cho chị L 1.400.000.000 đồng, S còn nợ 50.000.000 đồng;

+ Ngày 24/10/2018 S vay của chị L 20.000.000 đồng và mua của chị L 1,1kg yến thành phẩm với giá 34.000.000 đồng, tổng cộng 54.000.000 đồng.

Trong khoảng thời gian này S trả cho chị L số tiền 500.000.000 đồng, S nói đây là tiền lời từ việc chung vốn làm ăn để L tin tưởng.

Đến tháng 11/2018 chị L đi tìm hiểu thông tin thì được biết S không có đầu tư kinh doanh như S đã nói nên chị L đòi lại tiền, S hứa trong vòng 10 ngày sẽ trả lại nhưng sau đó S bỏ đi khỏi địa phương, chị L không liên lạc được. Tổng cộng S vay của chị L số tiền 3.434.000.000 đồng, đến nay S đã trả được 2.803.000.000 đồng, S còn chiếm đoạt của chị L số tiền 631.000.000 đồng (sáu trăm ba mươi mốt triệu).

Vụ thứ bảy: lừa đảo chiếm đoạt của anh Lê Xuân V số tiền 680.000.000đ:

Ngày 09/11/2018 S đến gặp anh V và nói dối là S đang đầu tư mua đất bán lại kiếm lời, nhưng hiện S đang thiếu tiền mặt nên nói anh V cho S vay số tiền 680.000.000 đồng, Hợp đồng vay có công chứng. S hẹn đến ngày 16/11/2018 sẽ trả lại. Tuy nhiên sau khi nhận được tiền, S đem tiêu xài, trả nợ hết. Đến nay S chiếm đoạt của anh V số tiền 680.000.000 đồng (sáu trăm tám mươi triệu đồng).

Vụ thứ tám: lừa đảo chiếm đoạt của anh Trần Thanh S số tiền 500.000.000đ: Ngày 14/11/2018 S đến gặp anh S để vay tiền. S nói dối là S kinh doanh mua bán đất nhưng thiếu tiền nên anh S đồng ý cho S vay số tiền 500.000.000 đồng, Hợp đồng vay có công chứng. S hẹn đến ngày 19/11/2018 sẽ trả lại. Tuy nhiên sau khi nhận được tiền S tiêu xài hết. Đến nay S chiếm đoạt của anh S số tiền 500.000.000 đồng (năm trăm triệu đồng).

Vụ thứ chín: lừa đảo chiếm đoạt của anh Nguyễn Ngọc S số tiền 300.000.000đ:

Ngày 07/11/2018 S đến gặp và rủ anh S chung vốn mua đất tại thôn A, xã D, anh S đồng ý góp cho S 300.000.000 đồng. S hẹn 15 ngày sẽ bán đất và trả tiền gốc, chia lãi cho anh S. Tuy nhiên sau khi nhận được tiền S tiêu xài hết. Đến nay S chiếm đoạt của anh S số tiền 300.000.000 đồng (ba trăm triệu đồng).

Vụ thứ mười: lừa đảo chiếm đoạt của anh Nguyễn Hà T số tiền 390.000.000 đồng:

Ngày 02/5/2018 S rủ vợ chồng anh Nguyễn Hà T, chị Lê Thị M góp vốn đầu tư mua bán đất kiếm lời, vợ chồng anh T, chị M đồng ý góp cho S 200.000.000 đồng để mua đất. Sau khoảng 02 tháng S đem đến đưa cho anh T số tiền 150.000.000 đồng, S nói đây là tiền lời từ việc đầu tư mua đất, còn tiền gốc S nói giữ lại để đầu tư tiếp. Đến tháng 9/2018 S điện thoại cho anh T nói tiền lời đợt này là 230.000.000 đồng, cộng với 200.000.000 đồng tiền gốc là 430.000.000 đồng nhưng chưa có tiền vì người mua đất có người nhà chết nên chưa giao dịch được, S hẹn cuối tháng 10/2018 sẽ giao tiền. Đến ngày 16/11/2018 S gọi điện năn nỉ vợ chồng anh T cho vay thêm 190.000.000 đồng, S hẹn 02 ngày sẽ trả, vợ chồng anh T đồng ý. Nhưng sau khi nhận 190.000.000 đồng thì S chiếm đoạt, không trả như đã hứa hẹn. Tổng cộng S chiếm đoạt của vợ chồng anh T, chị M số tiền 390.000.000 đồng. S đã trả được 150.000.000 đồng, còn 240.000.000 đồng (hai trăm bốn mươi triệu đồng) chưa trả.

Vụ thứ 11: lừa đảo chiếm đoạt của anh Võ Minh T số tiền 200.000.000đ:

S nói dối với anh T là S đang kinh doanh hoán đổi ngoại tệ rất thuận lợi, có lợi nhuận cao nên rủ anh T góp tiền để làm và chia lợi nhuận. Ngày 05/6/2018 anh Võ Minh T góp cho S 200.000.000 đồng, thời hạn góp vốn là 01 năm. Sau khi nhận tiền, ngày 05/7/2018 S đưa cho anh T 20.000.000 đồng và ngày 06/8/2018 S đưa thêm 22.000.000 đồng. Tổng cộng S đưa anh T 42.000.000 đồng và nói dối với anh T rằng đây là tiền lời từ việc kinh doanh hoán đổi ngoại tệ, đối với số tiền gốc thì S hẹn đến hạn sẽ trả. Tuy nhiên đến hẹn S không trả mà chiếm đoạt của anh T số tiền 158.000.000 đồng (một trăm năm mươi tám triệu đồng).

Vụ thứ 12: Đối với chị Nguyễn Thị Thúy V; vợ chồng bà Nguyễn Thị L, ông Nguyễn Văn D:

Với thủ đoạn gian dối như trên. Ngày 05/11/2018 S vay của chị V số tiền 500.000.000 đồng để kinh doanh mua bán đất và hẹn đến ngày 04/01/2019 sẽ trả. Tuy nhiên sau khi nhận được 500.000.000 đồng của chị V, S dùng để trả nợ hết. Đến thời hạn trả nợ S không trả, chị V không liên lạc được. Đến nay S còn chiếm đoạt của chị V số tiền 500.000.000 đồng.

Ngoài ra, khoảng tháng 10/2018 do cần tiền trả nợ nên S nghe tin vợ chồng bà Nguyễn Thị L ông Trần Văn D cần bán lô đất tại thửa đất số 02 - B1, tờ bản đồ số QH13, diện tích 297m2 tại Khu tái định cư ven biển D thuộc thôn Tây Sơn Đ, xã D, huyện D, nên S nhiều lần đến nhà vợ chồng bà L, ông D hỏi mua đất. Để chiếm đoạt được lô đất trên, S đã nâng giá đất lên cao hơn so với giá thực tế khoảng từ 12.000.000đồng/m2 lên 12.500.000đ/m2 nên gia đình bà L, ông D thống nhất bán cho S với số tiền 3.712.500.000 đồng (thực tế tại thời điểm mua đất S đang thiếu nợ rất nhiều người và không có tiền). Khi làm thủ tục sang tên thì S nói dối là S đang đầu tư nhiều lô đất khác ở H, T nên không có tiền mặt, S xin nợ lại và khi làm thủ tục xong thì S giao tiền. Nghe vậy bà L, ông D tin tưởng cho S nợ lại. S viết giấy nợ vợ chồng bà L, ông D số tiền 3.712.500.000 đồng (ba tỷ bảy trăm mười hai triệu năm trăm ngàn đồng), S hẹn đến ngày 15/11/2018 sẽ trả. Gia đình bà L tin tưởng ký các thủ tục để sang tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) cho S.

Sau khi có được GCNQSDĐ. Ngày 16/11/2018 S làm thủ tục chuyển nhượng cho chị Nguyễn Thị Thúy V với giá 3.267.000.000 đồng. Chị V kiểm tra thấy tên GCNQSDĐ đứng tên S nên đồng ý nhận chuyển nhượng và chị V đã chuyển số tiền này cho Đặng Thị S. Khi Đặng Thị S đang tiến hành các thủ tục chuyển nhượng thì vợ chồng bà L, ông D biết được S đã lừa dối nên có đơn tố cáo S (hiện nay Cơ quan CSĐT đã tạm giữ GCNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất của thửa đất số 02 - B1, tờ bản đồ số QH13, diện tích 297m2 tại Khu tái định cư ven biển D thuộc thôn Tây Sơn Đ, xã D, huyện D).

Vụ thứ 13: S chiếm đoạt của vợ chồng anh Trần D, chị Phạm Thị Thanh T số tiền 2.000.000.000 đồng:

Giữa S với anh Trần D và chị Phạm Thị Thanh T có quan hệ họ hàng. Ngày 21/10/2018 S đến nhà gặp anh D và nói dối là S mua 02 lô đất tại H nhưng còn thiếu một ít tiền và 02 lô đất này đã có người đặt cọc mua lại của S với giá cao hơn để anh D tin tưởng cho S mượn tiền. Do anh D nói không có tiền mặt, nên S đặt vấn đề cho S mượn GCNQSDĐ để S chụp lại và tìm người cho vay tiền, đồng thời hứa với vợ chồng anh D sau khi bán được đất sẽ không để vợ chồng anh D thiệt thòi. Do trước đây vợ chồng anh D cũng đã dùng quyền sử dụng đất của mình để đứng ra vay tiền của người khác và đưa cho S mượn và S đã trả đầy đủ nên vợ chồng anh D đã đồng ý.

Ngày 22/10/2018 S điện thoại cho anh Trần H nói chuyện về việc có lô đất ở xã D có người cần bán, nhưng anh H nói không có tiền mua. Lúc đó có Anh Dương Thanh T (là bạn anh H) đang có nhu cầu mua đất, nên khi nghe anh H nói vậy thì đã cùng anh H đi gặp S để xem đất. S dẫn anh H và anh T tới nhà anh D, sau khi được anh D đưa đi xem đất thì anh T đã thỏa thuận mua với giá 1.500.000.000 đồng, tuy nhiên vợ chồng anh D chưa đồng ý. Vì trước đó S có nói vợ chồng anh D đứng ra vay tiền để cho S vay lại, nên anh D đã nói anh T cho vợ chồng anh D vay số tiền 1.500.000.000 đồng thời hạn 01 (một) tháng. Nếu trong 01 tháng có tiền thì vợ chồng anh D sẽ trả anh T 1.800.000.000 đồng, còn không có tiền trả thì sẽ chuyển nhượng quyền sử dụng đối với thửa đất trên cho anh T.

Cùng ngày vợ chồng anh D cùng anh Dương Thanh T, Đặng Thị S đến Văn phòng công chứng Tạ Hải Y (H) để công chứng vay tiền. Trong đó vợ chồng anh Trần D ký Hợp đồng vay anh Dương Thanh T số tiền 1.800.000.000 đồng, kèm theo Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của thửa đất số 172 (diện tích 304m2 ở xã D, huyện D) hai bên đã ký sẵn. Sau khi vợ chồng anh D ký Hợp đồng vay tiền của anh T thì S cũng làm Hợp đồng vay tiền của vợ chồng anh D với số tiền 1.800.000.000 đồng. Tuy nhiên số tiền thực tế vợ chồng anh D vay của anh T và sau đó S vay lại của vợ chồng anh D là 1.500.000.000 đồng, nhưng các bên thống nhất trên giấy tờ là 1.800.000.000 đồng.

Buổi chiều cùng ngày anh T điện thoại cho anh D để đưa khoản tiền này, nhưng anh D đã điện thoại cho S tới gặp anh T để nhận tiền. Anh T yêu cầu S viết giấy nhận tiền giúp anh D rồi đưa cho S số tiền là 1.500.000.000 đồng. Sau khi nhận được số tiền trên S không dùng để đầu tư mua đất như S nói mà lấy tiền tiêu xài, trả nợ nên không có tiền trả cho vợ chồng anh D. Đến hạn trả nợ, vợ chồng anh D không có tiền trả cho anh T nên anh T đã gửi đơn khởi kiện vợ chồng anh D tại Tòa án nhân dân huyện D để giải quyết.

Ngoài ra, ngày 15/11/2018 S đến nhà vợ chồng anh D nói dối với vợ chồng anh D là có một người ở H mua hồ nuôi tôm của anh Nguyễn Thành T và nhờ S đặt cọc 500.000.000 đồng cho anh T, nhưng do anh T chưa làm được giấy tờ nên người đàn ông đó yêu cầu lấy lại tiền cọc. Vì S thỏa thuận với người đàn ông đó nếu trả lại tiền cọc trễ thì bị phạt gấp đôi có nghĩa là S phải trả lại cho người đó 1.000.000.000 đồng, nên nhờ vợ chồng anh D cho S mượn 500.000.000 đồng, sau 05 ngày S sẽ trả lại. Vợ chồng anh D tin tưởng nên cho S mượn 500.000.000 đồng. Tuy nhiên sau khi chiếm đoạt số tiền này S đem trả nợ và tiêu xài cá nhân. Qua xác minh anh Nguyễn Thành T không nhận tiền đặt cọc mua hồ tôm như S nói. Đến nay anh Lê Thanh T (chồng của S) đã trả cho vợ chồng anh D được 250.000.000 đồng. S còn chiếm đoạt của anh D số tiền 250.000.000 đồng. Như vậy tổng số tiền S lừa đảo chiếm đoạt của vợ chồng anh D 2.000.000.000 đồng, S đã trả 250.000.000 đồng số tiền còn lại S chưa trả là 1.750.000.000 đồng.

Vụ thứ 14: chiếm đoạt của chị Nguyễn Song Thu T số tiền 1.000.000.000đ:

Giữa Đặng Thị S và chị T quen biết nhau. Trước đây S thường mượn tiền của chị T và trả đúng hẹn. Tháng 5/2018 do S thiếu nợ nhiều người và bị những người này đòi tiền, trong khi đó S không còn khả năng tài chính để trả nợ, nên S nảy sinh ý định lừa đảo chiếm đoạt tiền của chị T. S nói dối với chị T là kinh doanh bất động sản có lãi để chị T tin tưởng tiếp tục cho S mượn tiền. Mỗi khi trả lại tiền cho chị T, S đều đưa thêm cho chị T một khoản tiền (ngoài tiền trả nợ) và nói là tiền kinh doanh có lãi làm cho chị T càng tin tưởng và tiếp tục cho S mượn số tiền lớn hơn. Sau nhiều lần cho S mượn tiền, đến tháng 10/2018 số tiền S chiếm đoạt của chị T là 1.000.000.000 đồng.

Số tiền lừa đảo chiếm đoạt được của các bị hại S khai là đã dùng để mua 01 máy xay cà phê trị giá 115.000.000 đồng và đầu tư 100.000.000 đồng vào Nhà hàng Bếp Nhà, H. Nhưng do S thiếu tiền của chị Trần Diễm My (sinh năm 1991, trú tại Cẩm Phô, H) nên S đã viết giấy ủy quyền cho My nhận toàn bộ tài sản trên. Ngoài ra, S đem tiền lừa đảo về nói dối với anh Lê Thanh T (chồng của S) là tiền do S kinh doanh có lời và đưa cho anh T nhiều lần, tổng số tiền là 650.000.000 đồng. Sau khi phát hiện S nợ tiền chị Lê Thị Sáng (bạn S, không rõ lai lịch), T đã trả cho chị Sáng 600.000.000 đồng, trả cho vợ chồng anh Trần D 250.000.000 đồng.

Ngày 28/11/2018, Đặng Thị S đến Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Quảng Nam đầu thú, khai nhận hành vi phạm tội như trên.

* Kết luận định giá tài sản số 679/CV-HĐ ngày 17/3/2020 của H đồng định giá tài sản trong TTHS tỉnh Quảng Nam: giá thị trường của thửa đất số 02 - B1, tờ bản đồ số QH13, diện tích 297m2 tại Khu tái định cư ven biển D tại thời điểm tháng 10/2018 là 1.392.000 đồng/m2 x 297m2 = 413.424.000 đồng.

* Kết luận định giá tài sản số 679/CV-HĐ ngày 17/3/2020 của H đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự tỉnh Quảng Nam: giá thị trường của thửa đất số 172, tờ bản đồ số 04, diện tích 304m2 ở xã D, huyện D tại thời điểm tháng 10/2018 là 540.000 đồng/m2 x 304m2 = 164.160.000 đồng.

Với nội dung trên, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 43/2022/HS-ST ngày 01/8/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam đã quyết định:

1. Về trách nhiệm hình sự:

Về tội danh: tuyên bố bị cáo Đặng Thị S phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Về hình phạt: áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Xử phạt: bị cáo Đặng Thị S 17 (mười bảy) năm tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam 28/11/2018.

2. Về trách nhiệm dân sự: áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 589 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Buộc bị cáo Đặng Thị S có nghĩa vụ bồi thường tài sản đã chiếm đoạt cho các bị hại với tổng số tiền là 36.956.000.000đ (ba mươi sáu tỷ chín trăm năm mươi sáu triệu đồng), cụ thể số tiền bị cáo S phải bồi thường cho các bị hại là: anh Nguyễn Thành D số tiền 23.000.000.000đ (hai mươi ba tỷ đồng); bà Phạm Thị H số tiền 2.400.000.000đ (hai tỷ bốn trăm triệu đồng); anh Nguyễn Đ số tiền 1.000.000.000đ (một tỷ đồng); anh Nguyễn Thành T số tiền 630.000.000đ (sáu trăm ba mươi triệu đồng); anh Lâm Viết H số tiền 900.000.000đ (chín trăm triệu đồng); chị Phạm Thị L số tiền 631.000.000đ (sáu trăm ba mươi mốt triệu đồng); anh Lê Xuân V số tiền 680.000.000đ (sáu trăm tám mươi triệu đồng); anh Trần Thanh S số tiền 500.000.000đ (năm trăm triệu đồng); anh Nguyễn Ngọc S số tiền 300.000.000đ (ba trăm triệu đồng); anh Nguyễn Hà T số tiền 240.000.000đ (hai trăm bốn mươi triệu đồng); anh Võ Minh T số tiền 158.000.000đ (một trăm năm mươi tám triệu đồng); chị Nguyễn Thị Thúy V số tiền 3.767.000.000đ (ba tỷ bảy trăm sáu mươi bảy triệu đồng); vợ chồng anh Trần D, chị Phạm Thị Thanh T số tiền 1.750.000.000đ (một tỷ bảy trăm năm mươi triệu đồng); bà Nguyễn Song Thu T số tiền 1.000.000.000đ (một tỷ đồng) Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 09 và 11 tháng 8 năm 2022 bà Võ Thị P, bà Nguyễn Thị Thúy V, ông Trần D và bà Phạm Thị Thanh T kháng cáo bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa cấp phúc thẩm:

Bị hại Nguyễn Thị Thúy V, Trần D, Phạm Thị Thanh T và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Võ Thị P trình bày giữ nguyên kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng phát biểu: Bị cáo S tạo niềm tin, đưa ra thông tin gian dối chiếm đoạt quyền sử dụng đất của vợ chồng ông D. Như vậy, giao dịch dân sự giữa bị cáo S và ông D vô hiệu do vi phạm điều cấm. Sau đó S dùng tài sản do phạm tội mà có bán cho bà V với giá 3 tỷ 2 trăm triệu cũng vô hiệu. Do đó Tòa án sơ thẩm tuyên trả lại quyền sử dụng đất cho ông D, bà L là đúng và bị cáo trả lại tiền cho bà V là đúng quy định pháp luật. Ông D vay tiền của ông T, sau đó cho bị cáo vay lại nên tòa án sơ thẩm xác định ông D là bị hại là đúng. Bị cáo lừa bà P để chiếm đoạt thửa đất trị giá 72 triệu đồng bằng cách nâng giá lên 1 tỷ 4 trăm triệu để mua. Tuy nhiên bị cáo đã trả cho bà P 400 triệu đồng cao hơn gấp nhiều lần giá trị thửa đất, nên bị cáo không có yếu tố chiếm đoạt đối với bà P. Đề nghị HĐXX không chấp nhận kháng cáo của bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Bà V trình bày: tôi mua đất của bị cáo S khi bị cáo S đã có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nên giao dịch giữa tôi với bị cáo S là ngay tình. Đề nghị bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho tôi.

Bà P: tôi là bị hại chứ không phải người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Mong HĐXX xem xét.

Người đại diện theo ủy quyền của ông Trần D, bà Phạm Thị Thanh T không tranh tụng.

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tố tụng: ngày 09 và 11 tháng 8 năm 2022 bà Võ Thị P, bà Nguyễn Thị Thúy V, ông Trần D, bà Phạm Thị Thanh T kháng cáo Bản án hình sự sơ thẩm số 43/2022/HS-ST ngày 01/8/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam. Như vậy, kháng cáo của bị hại và của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là trong thời hạn luật định được Hội đồng xét xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2]. Tại phiên toà xét xử hôm nay bị cáo Đặng Thị S trình bày hành vi phạm tội của mình, thể hiện: Trong khoảng thời gian từ ngày 02/5/2018 đến ngày 20/11/2018 Đặng Thị S đã có hành vi dùng thủ đoạn gian dối, đưa ra thông tin không đúng sự thật, hứa hẹn chia lợi nhuận cao trong kinh doanh cho các bị hại và làm cho các bị hại tin tưởng giao tài sản gồm tiền, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bị cáo. Trong khoảng thời gian ngắn bị cáo đã chiếm đoạt của 15 bị hại (gồm Nguyễn Thành D; Phạm Thị H; Nguyễn Đ; Nguyễn Thành T; Lâm Viết H; Phạm Thị L; Lê Xuân V; Trần Thanh S; Nguyễn Ngọc S; Nguyễn Hà T; Võ Minh T; Nguyễn Thị Thúy V; vợ chồng Nguyễn Thị L, Trần Văn D; vợ chồng Trần D, Phạm Thị Thanh T; Nguyễn Song Thu T) với tổng số tiền 46.754.424.000 đồng. Như vậy, lời khai nhận tội nêu trên của bị cáo Đặng Thị S phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình tố tụng tại cấp sơ thẩm; phù hợp với lời khai của các bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, các bản Kết luận giám định và những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng: Bản án hình sự sơ thẩm số 43/2022/HS-ST ngày 01/8/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam đã quyết định xét xử đối với bị cáo Đặng Thị S về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là có căn cứ, đúng tội, đúng pháp luật. Sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo không kháng cáo, không bị kháng nghị.

[3]. Xét kháng cáo của bà Võ Thị P, bà Nguyễn Thị Thúy V, ông Trần D, bà Phạm Thị Thanh T thấy rằng:

[3.1]. Đối với kháng cáo của bà Nguyễn Thị Thúy V:

Bị cáo Đặng Thị S thừa nhận mình không có khả năng mua đất, nhưng do thiếu nợ tiền của nhiều người nên đã dùng thủ đoạn gian dối nhằm chiếm đoạt quyền sử dụng đất của thửa đất số 02-B1, tờ bản đồ số QH13 diện tích 297m2 của bà L và ông D để bán lấy tiền trả nợ. S đã đưa ra thông tin gian dối với bà L, ông D và làm cho bà L, ông D tin tưởng ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của mình cho Đặng Thị S vào ngày 15/11/2018. Ngày 16/11/2018 bị cáo làm thủ tục đăng ký chỉnh lý biến động quyền sở hữu sang tên cho bị cáo; đồng thời, cùng ngày 16/11/2018 bị cáo S đã dùng chính tài sản mà bị cáo lừa đảo của bà L, ông D có được để tiếp tục lừa bán cho bị hại Nguyễn Thị Thúy V với giá 3.267.000.000 đồng (thấp hơn giá bị cáo mua của bị hại L gần 500.000.000đ). Như vậy, tài sản là quyền sử dụng đất của thửa đất số 02-B1, tờ bản đồ số QH13 diện tích 297m2 bị cáo S có được là do hành vi lừa dối bà L, ông D và hành vi này của bị cáo đã bị truy tố và xét xử, từ đó cơ quan điều tra thu giữ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được chỉnh lý biến động quyền sở hữu sang tên cho bị cáo S; đồng thời dừng toàn bộ việc đăng ký chỉnh lý biến động đối với thửa đất số 02-B1, tờ bản đồ số QH13 là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật.

Bị hại Nguyễn Thị Thúy V cho rằng: việc bà nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đối với thửa đất số 02 - B1, tờ bản đồ số QH13 diện tích 297m2 tại Khu tái định cư ven biển D thuộc thôn Tây Sơn Đ, xã D, huyện D của bị cáo S là ngay tình. Đề nghị cơ quan có thẩm quyền thực hiện thủ tục chỉnh lý biến động sang tên cho bà. Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng: việc bà V ký Hợp đồng nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đối với thửa đất số 02 - B1, tờ bản đồ số QH13 là hoàn toàn không biết tài sản này do bị cáo S lừa đảo chủ sở hữu bà L, ông D mà có. Nên sau khi bà V nhận chuyển nhượng tài sản từ bị cáo S và làm thủ tục chỉnh lý biến động nhưng bị dừng lại. Do đây là tài sản bị cáo S do phạm tội mà có, nên cơ quan có thẩm quyền đã dừng các thủ tục chỉnh lý biến động quyền sử hữu tài sản là có căn cứ. Bị hại V không biết quyền sử dụng thửa đất số 02 - B1, tờ bản đồ số QH13 là tài sản do bị cáo S phạm tội mà có, nên cơ quan điều tra không xem xét hành vi của bị hại V đồng phạm với bị cáo S hoặc tiêu thụ tài sản do người pham tội mà có, mà chỉ xác định bà Nguyễn Thị Thúy V là bị hại trong vụ án là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3.2]. Đối với kháng cáo của ông Trần D, bà Phạm Thị Thanh T:

Quá trình tố tụng bị cáo S khai nhận: Ngày 21/10/2018 Đặng Thị S gặp ông Trần D và đưa ra thông tin gian dối là cần mua 02 lô đất tại H nhưng còn thiếu tiền và 02 lô đất này đã có người đặt cọc mua lại của S với giá cao hơn để ông D tin tưởng cho S mượn tiền. Ông D nói không có tiền mặt nên S đặt vấn đề cho S mượn Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để S chụp lại và tìm người cho ông D vay tiền rồi cho S vay lại. S hứa với vợ chồng ông D sau khi bán được đất sẽ không để vợ chồng ông D thiệt thòi nên ông D đồng ý. Ngày 22/10/2018 Đặng Thị S nói với ông D muốn vay 1.500.000.000đ, thời hạn vay 01 (một) tháng. Sau đó vợ chồng ông D cùng ông Dương Thanh T và Đặng Thị S đến Văn phòng công chứng để công chứng Hợp đồng vợ chồng ông Trần D vay của ông T 1.800.000.000đồng và kèm theo Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa đất số 172 (diện tích 304m2 ở xã D, huyện D) hai bên đã ký sẵn. Sau khi vợ chồng ông D ký Hợp đồng vay tiền của ông T thì S làm Hợp đồng vay lại tiền của vợ chồng ông D số tiền 1.800.000.000 đồng. Tuy nhiên, số tiền thực tế vợ chồng ông D vay của ông T và sau đó S vay lại số tiền này của vợ chồng ông D là 1.500.000.000 đồng, nhưng các bên thống nhất trên Hợp đồng vay là 1.800.000.000 đồng.

Quá trình tố tụng ông Dương Thanh T trình bày: “ông chỉ thực hiện giao dịch vay mượn tiền với vợ chồng Trần D tại Hợp đồng công chứng số 407 ngày 22/10/2018, ông không biết và cũng không liên quan đến việc vay mượn giữa vợ ông Trần D với bà Đặng Thị S” (bút lục số 344).

Quá trình tố tụng ông Trần D trình bày: “Do là bà con họ hàng, S nói mượn tiền giúp S, rồi bị cáo nói cho bị cáo mượn tạm sổ đỏ để đi mượn tiền giúp bị cáo qua giai đoạn khó khăn, rồi S làm thủ tục vay, tôi chỉ đến ký giấy tờ chứ không biết S làm thủ tục vay như thế nào … Tôi là người đứng ra vay tiền của anh T giúp cho bị cáo S” (bút lục số 700).

Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm và phúc thẩm: bị cáo Đặng Thị S thừa nhận vay tiền của vợ chồng bị hại Trần D, bị cáo không vay tiền của ông T. Vợ chồng bị hại D mượn tiền của ông T để cho bị cáo vay. Ông Trần D thừa nhận sau khi ký Hợp đồng vay tiền công chứng số 407 ngày 22/10/2018 thì ngày 21/11/2018 bị hại D có ký phụ lục Hợp đồng để gia hạn Hợp đồng vay với ông T và hai bên có thỏa thuận dùng tài sản là quyền sử dụng đất của của vợ chồng bị hại D để bảo đảm khoản vay nợ của ông T. Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng: Tòa án cấp sơ thẩm xác định tư cách của vợ chồng ông Trần D trong vụ án là bị hại là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3.3]. Đối với kháng cáo của bà Võ Thị P:

Hành vi bị cáo Đặng Thị S nhận chuyển nhượng thửa đất số 1071, tờ bản đồ số 04 diện tích 200m2 tại địa chỉ huyện D, tỉnh Quảng Nam của bà Võ Thị P với giá 1.400.000.000đồng. Sau khi nhận chuyển nhượng Đặng Thị S làm thủ tục chỉnh lý biến động sang tên cho bị cáo và cầm cố cho bà Nguyễn Thị Song T để vay số tiền 1.300.000.000đồng. Đặng Thị S đã thanh toán cho bà Võ Thị P 400.000.000 đồng.

Bà P nhiều lần yêu cầu S trả số tiền còn lại là 1.000.000.000 đồng, bị cáo chưa trả.

Cơ quan Cảnh sát điều tra đã Kết luận bị cáo S có hành vi gian dối, lừa đảo nhằm chiếm đoạt quyền sử dụng đất của bà P. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam cho rằng: theo kết luận của H đồng định giá trong tố tụng hình sự thì giá đất của bà P theo giá thị trường tại thời điểm chuyển nhượng là 72.649.500 đồng và giá trị chuyển nhượng tại Hợp đồng các bên ký kết là 60.000.000 đồng, nên xác định giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt phải dựa vào giá trị tài sản đã được định giá. Bị cáo S đã trả cho bà P số tiền 400.000.000 đồng là cao hơn rất nhiều so với giá trị của thửa đất mà bị cáo đã chiếm đoạt của bà P. Từ đó Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam xác định hành vi của bị cáo S là không có yếu tố chiếm đoạt tài sản của bà P, mà quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Võ Thị P và bị cáo S là quan hệ dân sự. Tòa án cấp sơ thẩm đã trả hồ sơ để điều tra bổ sung về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của bị cáo S đối với bà P. Kết quả điều tra bổ sung: Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam vẫn giữ nguyên nội dung cáo trạng truy tố. Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ khoản 2 Điều 174 và khoản 3 Điều 280 Bộ luật Tố tụng hình sự tiến hành xét xử vụ án theo quy định của pháp luật, đồng thời kiến nghị Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xem xét kháng nghị bản án theo trình tự giám đốc thẩm về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của bị cáo S đối với bà P. Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng: kháng cáo của bà Võ Thị P cho rằng bà là bị hại trong vụ án là không có căn cứ chấp nhận. Đồng thời, Hội đồng xét xử phúc thẩm kiến nghị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xem xét theo trình tự giám đốc thẩm đối với Đặng Thị S về hành vi chiếm đoạt tài sản là thửa đất số 1071, tờ bản đồ số 04 diện tích 200m2 tại địa chỉ thôn Thuận Trì, xã D Nghĩa, huyện D, tỉnh Quảng Nam của bà Võ Thị P.

[4]. Tại phiên tòa xét xử phúc thẩm hôm nay, bà Võ Thị P, bà Nguyễn Thị Thúy V, ông Trần D, bà Phạm Thị Thanh T không cung cấp tài liệu, chứng cứ mới. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bà Võ Thị P, bà Nguyễn Thị Thúy V, ông Trần D, bà Phạm Thị Thanh T, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[5]. Án phí hình sự phúc thẩm: bị cáo Đặng Thị S không phải chịu.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự: không chấp nhận kháng cáo của bà Võ Thị P, bà Nguyễn Thị Thúy V, ông Trần D, bà Phạm Thị Thanh T, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

2. Về trách nhiệm hình sự:

Về tội danh: tuyên bố bị cáo Đặng Thị S phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Về hình phạt: áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Xử phạt bị cáo Đặng Thị S 17 (mười bảy) năm tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam 28/11/2018.

3. Về trách nhiệm dân sự: áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Điều 589 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Buộc bị cáo Đặng Thị S có nghĩa vụ bồi thường tài sản đã chiếm đoạt cho các bị hại với tổng số tiền là 36.956.000.000đ (ba mươi sáu tỷ chín trăm năm mươi sáu triệu đồng), cụ thể số tiền bị cáo S phải bồi thường cho các bị hại là: anh Nguyễn Thành D số tiền 23.000.000.000đ (hai mươi ba tỷ đồng); bà Phạm Thị H số tiền 2.400.000.000đ (hai tỷ bốn trăm triệu đồng); anh Nguyễn Đ số tiền 1.000.000.000đ (một tỷ đồng); anh Nguyễn Thành T số tiền 630.000.000đ (sáu trăm ba mươi triệu đồng); anh Lâm Viết H số tiền 900.000.000đ (chín trăm triệu đồng); chị Phạm Thị L số tiền 631.000.000đ (sáu trăm ba mươi mốt triệu đồng); anh Lê Xuân V số tiền 680.000.000đ (sáu trăm tám mươi triệu đồng); anh Trần Thanh S số tiền 500.000.000đ (năm trăm triệu đồng); anh Nguyễn Ngọc S số tiền 300.000.000đ (ba trăm triệu đồng); anh Nguyễn Hà T số tiền 240.000.000đ (hai trăm bốn mươi triệu đồng); anh Võ Minh T số tiền 158.000.000đ (một trăm năm mươi tám triệu đồng); chị Nguyễn Thị Thúy V số tiền 3.767.000.000đ (ba tỷ bảy trăm sáu mươi bảy triệu đồng); vợ chồng anh Trần D, chị Phạm Thị Thanh T số tiền 1.750.000.000đ (một tỷ bảy trăm năm mươi triệu đồng); bà Nguyễn Song Thu T số tiền 1.000.000.000đ (một tỷ đồng) Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật Dân sự năm 2015.

4. Án phí hình sự phúc thẩm: bị cáo Đặng Thị S không phải chịu.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

222
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 500/2022/HS-PT

Số hiệu:500/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/12/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về