TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
BẢN ÁN 493/2022/HS-PT NGÀY 18/07/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 18 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 385/2022/TLPT-HS ngày 05 tháng 5 năm 2022 đối với bị cáo Vũ Thị N do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 11/2022/HSST ngày 24 tháng 3 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang.
* Bị cáo có kháng cáo:
Họ và tên: Vũ Thị N, sinh ngày 05/02/1996; nơi ĐKNKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn HK, xã QN, huyện TY, tỉnh Bắc Giang; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 9/12; con ông Vũ Văn V và bà Nguyễn Thị X; chồng: Chưa có; con: Bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 2014, con nhỏ sinh năm 2021;
Tiền sự: Không;
Nhân thân: Bản án số 03/2021/HS-ST ngày 28/01/2021 của Tòa án nhân dân huyện A, tỉnh Bxử phạt 04 năm 06 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và 02 năm tù về tội “Mua bán trái phép hóa đơn”. Tổng hợp hình phạt của cả hai tội là 06 năm 06 tháng tù.
Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú và tạm hoãn xuất cảnh;
hiện đang tại ngoại; có mặt.
* Người bào chữa do Toà án chỉ định cho bị cáo: Luật sư Hà ĐT- Công ty TNHH MTV TQ, Đoàn Luật sư tỉnh Bắc Giang; có mặt.
* Người bị hại:
1. Công ty TNHH dịch vụ vận tải NH- Do bà Giáp Thị T, sinh năm 1987 - Giám đốc đại diện; Vắng mặt.
Địa chỉ: Thôn ĐL, xã TĐ, huyện YP, tỉnh BN.
2. Công ty TNHH dịch vụ E- Do ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1987, đại diện; Vắng mặt.
Địa chỉ: Số 04/102/2, đường NĐC, phường CD, quận NTL, thành phố Hà Nội.
3. Chị Lê Thị H, sinh năm 1993; Vắng mặt.
Địa chỉ: Số 128, TDP TN, phường TP, thành phố BG.
4. Anh Lê Văn H, sinh năm 1986; Vắng mặt.
Địa chỉ: Trường G, phường VA, thành phố BN, tỉnh BN
5. Anh Phùng CC, sinh năm 1974; Vắng mặt.
Địa chỉ: Tổ 7, phường ĐT, quận BTL, thành phố Hà Nội.
6. Anh Ngô DL, sinh năm 1986; Vắng mặt.
Địa chỉ: Số 1, ngõ 9, đường GV, phường CL, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.
7. Anh Vũ ĐV, sinh năm 1998; Vắng mặt.
Địa chỉ: Số 98, ngõ 89, đường Nguyễn VG, phường CD, quận NTL, thành phố Hà Nội.
8. Anh Vũ NM, sinh năm 1986; Vắng mặt.
Địa chỉ: Số 29/350/15/100, đường KG, phường Đk, quận HM, thành phố Hà Nội.
9. Anh Hoàng AT, sinh năm 1986; Vắng mặt.
Địa chỉ: Số 4, ngõ 1A, đường Nhân H, phường NC, quận TX, thành phố Hà Nội.
10. Anh Ngô Minh H2, sinh năm 1988; Vắng mặt.
Địa chỉ: Số 67, đường VĐ, phường BĐ, quận HBT, thành phố Hà Nội.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vũ Thị N, sinh ngày 05/02/1996, trú tại thôn HK, xã QN, huyện TY, tỉnh Bắc Giang là đối tượng không có công việc ổn định. Trong khoảng thời gian từ ngày 12/8/2020 đến ngày 21/9/2020, mặc dù N đang là bị can trong vụ án “Mua bán trái phép hóa đơn” và “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, nhưng t hông qua mạng xã hội Zalo, Facebook, N có được thông tin của các cá nhân, công ty cho thuê xe ô tô tự lái nên thường xuyên sử dụng số điện thoại 0987.325.069 để liên lạc trực tiếp với người cho thuê xe ô tô để thuê 11 chiếc xe ô tô của các cá nhân, tổ chức trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, tỉnh Bắc Ninh và thành phố Hà Nội nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản. Hành vi phạm tội cụ thể:
Vũ Thị N giới thiệu là Kế toán, nhân viên của Công ty VHN thuê 02 xe ô tô của Công ty TNHH dịch vụ vận tải NH(gọi tắt là Công ty NH) và 01 xe ô tô của Công ty TNHH dịch vụ E(gọi tắt là Công ty PITS) để chiếm đoạt:
1. Ngày 21/8/2020, lấy danh nghĩa là Kế toán của Công ty Văn H2 Nam, Vũ Thị N thuê xe ô tô nhãn hiệu: TOYOTA, số loại: INNOVA, màu sơn: Bạc, biển kiểm soát số 99A-218.84 của Công ty N Hằng, địa chỉ: Thôn ĐL, xã TĐ, huyện YP, tỉnh BN do bà Giáp Thị T, sinh năm 1987 là Giám đốc; thời hạn thuê xe ô tô từ ngày 21/8/2020 đến ngày 20/8/2021 (12 tháng); mục đích thuê xe ô tô thể hiện trên hợp đồng là để Công ty VHNđưa đón chuyên gia nước ngoài và công nhân làm việc cho Công ty.
2. Ngày 04/9/2020, Vũ Thị N tiếp tục lấy danh nghĩa là Kế toán của Công ty VHNthuê xe ô tô nhãn hiệu: KIA, số loại: SORENTO, màu sơn: Nâu, biển kiểm soát số 99A-108.50 của Công ty N Hằng; thời hạn thuê xe ô tô từ ngày 04/9/2020 đến ngày 03/9/2021 (12 tháng); mục đích thuê xe ô tô thể hiện trên hợp đồng là để Công ty VHNđưa đón chuyên gia nước ngoài và công nhân làm việc cho Công ty.
3. Ngày 21/9/2020, Vũ Thị N lấy danh nghĩa là Nhân viên của Công ty VHNthuê xe ô tô nhãn hiệu TOYOTA, số loại: INNOVA, màu sơn: Vàng đồng, biển kiểm soát số 30F-394.56 của Công ty PITS, địa chỉ: Số nhà 04, ngách 102/2, đường NĐC, phường CD, quận NTL, thành phố Hà Nội; thời hạn thuê xe ô tô từ ngày 21/9/2020 đến ngày 20/9/2021 (12 tháng); mục đích thuê xe thể hiện trên hợp đồng là để Công ty VHNđưa đón chuyên gia nước ngoài và công nhân làm việc cho công ty.
Tại Cơ quan điều tra, Vũ Thị N khai sau khi thuê 03 xe ô tô nêu trên, N đã giao 02 xe ô tô biển kiểm soát 99A-218.84 và biển kiểm soát 99A-108.50 cho Nguyễn Thu Hằng, sinh năm 1986 (có tên gọi khác là Mai), nơi cư trú: Xã Đông Lỗ, huyện Hiệp H, tỉnh Bắc Giang (quê quán: Thị trấn Chũ, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang), là Kế toán của Công ty Văn H2 Nam; còn xe ô tô 30F-394.56 thì N giao cho người đàn ông tên Thắng có địa chỉ ở tại chung cư Quang Minh, đường Hoàng Văn Thụ, phường Hoàng Văn Thụ, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang, là lái xe của Công ty VHN(khi giao xe cho Hằng và Thắng không có hợp đồng, giấy tờ gì). Thông qua Nguyễn Thu Hằng nên N có biết đến Công ty VHNdo Hoàng Văn H2 làm Giám đốc, có địa chỉ tại xã Mỹ Thái, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Tuy nhiên, N khẳng định chưa được gặp mặt Hoàng Văn H2- Giám đốc của Công ty Văn H2 Nam, chưa từng đến trụ sở của Công ty VHNvà không làm việc cho Công ty Văn H2 Nam, nhưng N tự giới thiệu là nhân viên kế toán của Công ty VHNđể thuê 03 xe ô tô nêu trên. Nguyễn Thu Hằng là người cung cấp thông tin của Công ty VHNcho N để N cung cấp thông tin đó cho các Công ty cho thuê xe soạn thảo hợp đồng, sau đó, chuyển bản mềm cho N qua Zalo. N tiếp tục chuyển bản mềm hợp đồng đó cho Hằng qua Zalo. Sau đó, Hằng và Thắng là người giao các bản hợp đồng thuê xe ô tô có sẵn dấu và chữ ký của Giám đốc Công ty VHNcho N để N đưa lại cho Công ty cho thuê xe. N chủ yếu liên lạc với Hằng và Thắng thông qua mạng xã hội Zalo và Facebook. Các tài khoản Zalo, Facebook này, N đã xóa bỏ, đến nay không khôi phục lại được.
Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh thông tin các đối tượng Hằng và Thắng theo lời khai của Vũ Thị N nhưng không xác định được những người này là ai.
Xác minh về Công ty VHN Theo tài liệu đăng ký về việc thành lập doanh nghiệp tại Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Bắc Giang, Công ty VHNcó mã số doanh nghiệp: 2400887566, đăng ký lần đầu ngày 20/5/2020, địa chỉ trụ sở chính: Thôn Cầu Ngoài, xã Mỹ Thái, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang, số điện thoại: 0565.441.209, thông tin về chủ sở hữu/người đại diện theo pháp luật: Họ và tên: Hoàng Văn H2, giới tính: Nam, sinh ngày 10/9/1987, dân tộc: Kinh, Số CMND: 121661161, ngày cấp: 18/7/2014, nơi cấp: Công an tỉnh Bắc Giang, nơi đăng ký HKTT/chỗ ở hiện nay: Thôn Cầu Ngoài, xã Mỹ Thái, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang.
Quá trình xác minh tại địa bàn thôn Cầu Ngoài, xã Mỹ Thái, huyện A, tỉnh Bxác định không có Công ty VHNhoạt động tại địa chỉ này.
Ngân hàng BIDV Chi nhánh Bắc Giang xác định: Công ty VHNmở tài khoản số 43110001042635 ngày 28/5/2020, Giám đốc Công ty là anh Hoàng Văn H2, sinh ngày 10/9/1987, trú tại: Thôn Cầu Trong, xã Mỹ Thái, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang; Kế toán trưởng là anh Trần X Tùng, sinh ngày 22/01/1985, số CMND: 121594492, cấp ngày: 25/4/2014, nơi cấp: Công an tỉnh Bắc G iang, địa chỉ: Thị trấn Cao Thượng, huyện TY, tỉnh Bắc Giang. Chị Đỗ Thị Thu Sang, sinh ngày 29/8/1977, số CCCD: 031177004229, cấp ngày: 02/01/2020, nơi cấp: Cục CSQLHC về TTXH - Bộ Công an là người trực tiếp mở tài khoản ngân hàng trên tại Ngân hàng BIDV Chi nhánh Bắc Giang. Cho đến nay tài khoản ngân hàng của Công ty VHNnêu trên không phát sinh giao dịch nào kể từ ngày đăng ký mở tài khoản.
Tiến hành triệu tập, ghi lời khai đối với anh Hoàng Văn H2 và anh Trần X Tùng có thông tin cá nhân nêu trên đều khẳng định không hề liên quan gì đến Công ty Văn H2 Nam, không quen biết Vũ Thị N và Đỗ Thị Thu Sang. Ông Hoàng Văn H2 và ông Trần X Tùng khẳng định không cung cấp thông tin cá nhân cho bất cứ ai để thành lập doanh nghiệp, các chữ ký, chữ viết ghi họ tên Hoàng Văn H2, Trần X Tùng trên các tài liệu liên quan đến Công ty VHNkhông pH là chữ ký, chữ viết do ông H2, ông Tùng ký viết ra phù hợp với kết luận giám định chữ ký, chữ viết trên các tài liệu.
Quá trình điều tra, xác minh xác định đối tượng Đỗ Thị Thu Sang không có mặt tại địa phương, không rõ đối tượng đi đâu làm gì, không có cách thức liên lạc được với Đỗ Thị Thu Sang.
Đối với tình hình hoạt động kinh doanh, kê khai thuế của Công ty Văn H2 Nam, Chi cục Thuế khu vực Lạng Giang - Lục Nam xác định: Đến hết ngày 01/3/2021, Công ty VHNkhông phát sinh hoạt động mua, bán, sử dụng hóa đơn GTGT, kê khai thuế GTGT pH nộp Ngân sách Nhà nước bằng 0. Công ty VHNkhông có hoạt động thực tế tại địa chỉ đã đăng ký, hiện tại không xác định được người đứng ra thành lập, điều hành hoạt động của công ty.
*Đối với xe ô tô biển kiểm soát 30F-394.56: Quá trình giải quyết nguồn tin về tội phạm, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bắc Giang đã tạm giữ xe ô tô 30F-394.56 của Cao Thái Sơn, sinh năm: 1990, địa chỉ: Số 313, đường Nguyễn Công Hãng, phường Trần Phú, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang để phục vụ công tác điều tra, xác minh.
Tại Cơ quan điều tra, Cao Thái Sơn khai Vũ Thị N đã vay Sơn số tiền là 160.000.000 đồng và để lại xe ô tô biển kiểm soát 30F-394.56 cho Sơn sử dụng. Tuy nhiên, N không thừa nhận nội dung trên. Cơ quan điều tra đã tổ chức đối chất giữa N với Cao Thái Sơn, kết quả N đã thay đổi lời khai và thừa nhận có vay tiền của Cao Thái Sơn và giao cho Cao Thái Sơn sử dụng xe ô tô biển kiểm soát 30F- 394.56.
Khi thuê xe ô tô biển kiểm soát 30F-394.56, N khai đã nhờ anh Nguyễn Văn Giang, sinh năm 1991, trú tại: Xóm Nguộn, thôn Hùng Lãm 1, xã Hồng Thái, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang ký giấy tờ thuê xe ô tô với đại diện Công ty cho thuê xe. Tại Cơ quan điều tra, anh Nguyễn Văn Giang khai được N dặn khi đến ký giấy tờ nếu có ai hỏi thì bảo là lái xe của Công ty VHNvà Giang đã làm theo lời N. Nguyễn Văn Giang không biết “Công ty” mà N nhắc đến là công ty nào, Giang không biết N làm việc cho công ty nào, Giang chưa từng làm việc cùng công ty với N.
* Đối với xe ô tô biển kiểm soát 99A-108.50: Ngày 15/12/2020, Tổ tuần tra kiểm soát giao thông thuộc Đội Cảnh sát giao thông Công an huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang phát hiện đang lưu thông trên tuyến đường Quốc lộ 37 đoạn qua địa phận thị trấn Bích Động, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Tổ tuần tra nhận thấy xe ô tô trên có nhiều đặc điểm giống với xe ô tô tang vật mà Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bắc Giang đang truy tìm trong vụ án nên đã dừng phương tiện và kiểm tra giấy tờ liên quan. Thời điểm dừng xe kiểm tra, trên xe có anh Phạm Hà Ba, sinh năm 1985, trú tại: Số 47, đường Đặng Thị Nho, phường Ngô Quyền, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang là người điều khiển phương tiện. Tổ tuần tra đã yêu cầu ông Phạm Hà Ba điều khiển xe ô tô trên về trụ sở Công an huyện Việt Yên để tiếp tục làm việc. Công an huyện Việt Yên đã thông báo cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bắc Giang biết nội dung trên để giải quyết theo quy định của pháp luật. Sau khi được thông báo, giải thích về việc xe ô tô biển kiểm soát 99A-108.50 là tang vật trong vụ án hình sự nên anh Phạm Hà Ba đã tự nguyện giao nộp xe ô tô 99A-108.50 cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bắc Giang để phục vụ công tác điều tra vụ án.
Tại Cơ quan điều tra, anh Phạm Hà Ba khai mua xe ô tô biển kiểm soát 99A- 108.50 của một người đàn ông lạ mặt thông qua mạng xã hội Facebook. Anh Phạm Hà Ba không quen biết Vũ Thị N; không làm việc gì liên quan đến Công ty Văn H2 Nam.
Vũ Thị N với danh nghĩa cá nhân đã thuê 08 xe ô tô với cùng một lý do thuê xe là để phục vụ công việc cá nhân nhằm mục đích chiếm đoạt:
1. Xe ô tô biển kiểm soát 98A-328.12:
Ngày 12/8/2020, Vũ Thị N thuê xe ô tô nhãn hiệu: HYUNDAI, số loại: ELANTRA AD, màu sơn: Trắng, biển kiểm soát 98A-328.12 của chị Lê Thị H, sinh năm 1993, trú tại: Số 128, tổ dân phố Tân Ninh, phường Trần Phú, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang, thời hạn thuê xe ô tô từ ngày 12/8/2020 đến ngày 14/8/2020 (02 ngày), mục đích thuê xe ô tô thể hiện trên hợp đồng là để phục vụ công việc cá nhân và N giao lại cho chị H 01 Sổ hộ khẩu, 01 Giấy phép lái xe mô tô đều mang tên Vũ Thị N.
Tại Cơ quan điều tra, chị Lê Thị H khai Vũ Thị N hỏi thuê xe ô tô biển kiểm soát 98A-328.12 trong 02 ngày để đi tỉnh Nghệ An có việc cá nhân. Hết thời hạn thuê xe theo hợp đồng, chị Lê Thị H đã nhiều lần gọi điện, nhắn tin yêu cầu Vũ Thị N trả xe nhưng Vũ Thị N không trả và nói lý do đã cho bạn mượn chưa đòi được xe.
Vũ Thị N khai: N đã hỏi thuê xe ô tô biển kiểm soát 98A-328.12 của chị Lê Thị H để đi đến tỉnh Hà Tĩnh giải quyết công việc cá nhân nhưng sau đó N đã giao xe cho anh Nguyễn Văn Tú, sinh năm 1992, nhà gần với Bệnh viện Sản Nhi tỉnh Bắc Giang thuộc phường Dĩnh Kế, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang, Tú có số điện thoại 0563.741.991, khi giao xe cho Tú thì không có hợp đồng, giấy tờ gì, N không thông báo hay hỏi ý kiến của chị Lê Thị H để mượn một xe ô tô khác lớn hơn, thuận tiện hơn cho việc đi đường dài. Sau đó, N không đòi được lại xe ô tô biển kiểm soát 98A-328.12 và cũng không liên lạc được với Tú, đến nay không biết xe ô tô biển kiểm soát 98A-328.12 và Nguyễn Văn Tú ở đâu.
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bắc Giang đã tiến hành xác minh nhưng không xác định được đối tượng Tú theo lời khai của Vũ Thị N.
Kết quả thu giữ điện tín đối với thuê bao di động số 0563.741.991 xác định chủ thuê bao là Nguyễn Thị Hường, sinh ngày 15/12/1970, số CMND 121287832, địa chỉ: Phường Lê Lợi, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang; từ ngày 01/8/2020 đến ngày 01/9/2020 thuê bao trên không phát sinh cuộc gọi nào. Kết quả thu giữ điện tín đối với thuê bao di động Vũ Thị N sử dụng là số điện thoại 0987.325.069 xác định từ ngày 01/8/2020 đến ngày 30/9/2020 không phát sinh cuộc gọi nào với số điện thoại 0563.741.991; vị trí phát sinh các cuộc gọi trong các ngày 13/8/2020, ngày 14/8/2020 không có tỉnh Nghệ An hay tỉnh Hà Tĩnh mà phát sinh các cuộc gọi có vị trí tại các tỉnh Bắc Giang, tỉnh Bắc Ninh và tỉnh H Dương.
Tại Cơ quan điều tra, chị Nguyễn Thị Hường trình bày không đăng ký thuê bao di động số 0563.741.991, không sử dụng số điện thoại này, không quen biết Vũ Thị N và đối tượng Nguyễn Văn Tú theo lời trình bày của N.
2. Xe ô tô biển kiểm soát 34C-146.62:
Ngày 25/8/2020, Vũ Thị N thuê xe ô tô nhãn hiệu: MAZDA, số loại: BT50, màu sơn: Bạc, biển kiểm soát số 34C-146.62 của anh Lê Văn H, sinh năm 1986, trú tại: Phường Vệ An, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh, thời hạn thuê xe ô tô 30 ngày (01 tháng) kể từ ngày 25/8/2020, mục đích thuê xe ô tô thể hiện trên hợp đồng là để phục vụ công việc cá nhân trong khu vực tỉnh Bắc Ninh, tỉnh Bắc Giang.
Vũ Thị N khai sau khi thuê được xe ô tô biển kiểm soát 34C-146.62 đã giao cho Nguyễn Thu Hằng là Kế toán của Công ty VHN(như nêu ở trên là đối tượng không xác định được) thuê lại, việc thuê xe không có hợp đồng, giấy tờ gì.
Ngày 31/7/2021, Cơ quan điều tra đã phối hợp cùng với Công an xã Tân Trung, huyện TY, tỉnh Bắc Giang tiến hành rà soát trên địa bàn xã Tân Trung để truy tìm tang vật trong vụ án phát hiện chiếc xe ô tô biển kiểm soát 34C-146.62 trước cửa hàng rửa xe ô tô Hùng Vỹ của anh Nguyễn Đình Hùng, sinh năm 1975, trú tại xã Tân Trung, huyện TY, tỉnh Bắc Giang. Sau khi được thông báo, giải thích về việc xe ô tô biển kiểm soát 34C-146.62 là vật chứng trong vụ án hình sự nên anh Nguyễn Duy Cường, sinh năm 1985, nơi cư trú: Thôn Đồng Điều 7, xã Tân Trung, huyện TY, tỉnh Bắc Giang đã tự nguyện giao nộp xe ô tô 34C-146.62 cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bắc Giang để phục vụ công tác điều tra vụ án.
Tại Cơ quan điều tra, Anh Nguyễn Duy Cường khai đã mua xe ô tô biển kiểm soát 34C-146.62 của anh Nguyễn Văn Hiệp, sinh năm 1987, nơi cư trú: Thôn Tiến Điều, thị trấn Nhã Nam, huyện TY, tỉnh Bắc Giang với giá là 250.000.000 đồng vào khoảng đầu tháng 7/2021. Anh Cường không quen biết Vũ Thị N. Đến nay, anh Nguyễn Duy Cường không yêu cầu gì liên quan đến xe ô tô biển kiểm soát 34C-146.62.
Anh Nguyễn Văn Hiệp khai vào khoảng tháng 8/2020, anh Hiệp đã cho 02 người đàn ông lạ mặt vay số tiền là 240.000.000 đồng và nhận quản lý chiếc xe ô tô biển kiểm soát số 34C-146.62. Tuy nhiên, hết thời hạn trả tiền mà không thấy 02 người đàn ông trên đến trả tiền và nhận lại xe nên anh Hiệp đã bán xe ô tô biển kiểm soát số 34C-146.62 cho anh Nguyễn Duy Cường. Anh Nguyễn Văn Hiệp không quen biết Vũ Thị N.
Vũ Thị N khai không quen biết anh Nguyễn Duy Cường, anh Nguyễn Văn Hiệp nêu trên.
3. Xe ô tô biển kiểm soát 30F-234.66:
Ngày 02/9/2020, Vũ Thị N thuê xe ô tô nhãn hiệu: TOYOTA, số loại: INNOVA, màu sơn: Đen, biển kiểm soát số 30F-234.66 của anh Vũ ĐV, sinh năm 1998, địa chỉ: Số 98, ngõ 89, đường Nguyễn VG, phường CD, quận NTL, thành phố Hà Nội, nội dung hợp đồng không ghi rõ thời hạn thuê xe ô tô và mục đích thuê xe ô tô.
Tại Cơ quan điều tra, Vũ Thị N khai sau khi thuê chiếc xe ô tô biển kiểm soát 30F-234.66, N đã giao xe cho anh Nguyễn Kim Mạnh, sinh năm 1987, địa chỉ tại thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang thuê lại, N không rõ địa chỉ cụ thể của anh Mạnh, khi giao xe không có hợp đồng, giấy tờ gì.
Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bắc Giang đã tiến hành điều tra, xác minh nhưng không xác định được đối tượng Nguyễn Kim Mạnh theo lời khai của Vũ Thị N.
4. Xe ô tô biển kiểm soát 30F-196.98:
Ngày 05/9/2020, Vũ Thị N thuê xe ô tô nhãn hiệu: KIA, số loại: CERATO, màu sơn: Đỏ, biển kiểm soát số 30F-196.98 của anh Vũ N Mạnh, sinh năm 1986, địa chỉ Số 29, ngõ 350/15/100, đường KG, phường Đk, quận HM, thành phố Hà Nội, thời hạn thuê xe ô tô từ ngày 05/9/2020 đến ngày 10/9/2020, mục đích thuê xe ô tô thể hiện trên hợp đồng là để phục vụ công việc cá nhân.
Tại Cơ quan điều tra, Vũ Thị N khai sau khi thuê chiếc xe ô tô biển kiểm soát số 30F-196.98, N đã giao xe cho anh Phạm Văn Quyền, sinh năm 1988, địa chỉ: Phường Trần N Hãn, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang thuê lại nhưng không có hợp đồng, giấy tờ gì, N không rõ địa chỉ cụ thể của anh Quyền.
Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bắc Giang đã tiến hành điều tra, xác minh nhưng không xác định được đối tượng Phạm Văn Quyền theo lời khai của Vũ Thị N.
5. Xe ô tô biển kiểm soát 30E-743.33:
Ngày 10/9/2020, Vũ Thị N thuê xe ô tô nhãn hiệu: TOYOTA, số loại: VIOS, màu sơn: Nâu vàng, biển kiểm soát 30E-743.33 của anh Ngô DL, sinh năm 1986, trú tại: Số 1, ngõ 9, đường GV, phường CL, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội, thời hạn thuê xe ô tô là 07 ngày kể từ ngày 10/9/2020, mục đích thuê xe ô tô thể hiện trên hợp đồng là để phục vụ công việc cá nhân và N giao lại cho anh Long 01 CMND mang tên Vũ Thị N.
Anh Ngô DL khai: Ngày 10/9/2020, Long đã liên lạc với anh Chu Minh Nam, sinh năm 1991, trí tại số 02, ngách 18, ngõ 514, phố Trần Cung, phường Cổ Nhuế 1, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội là chủ sở hữu xe ô tô biển kiểm soát số 30E-743.33 đề nghị anh Nam cho Vũ Thị N thuê xe ô tô. Anh Nam đồng ý cho Vũ Thị N thuê xe ô tô trên, thời hạn thuê là 07 ngày, mục đích thuê xe là sử dụng vào công việc cá nhân. Khoảng 21 giờ ngày 10/9/2020, tại địa bàn phường Cát Linh, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội, Ngô DL giao xe ô tô trên cùng chìa khóa xe, giấy tờ liên quan cho N. Sau khi biết thông tin Vũ Thị N bị Công an tỉnh Bắc Giang bắt tạm giam vì có hành vi vi phạm pháp luật, anh Ngô DL cùng anh Chu Minh Nam đã kiểm tra định vị và thông qua tín hiệu định vị trên xe ô tô biển kiểm soát số 30E-743.33 đã tìm thấy xe ô tô trên tại địa bàn thị trấn Vôi, huyện A, tỉnh Bvào ngày 27/9/2020.
Ngày 27/9/2020, Công an thị trấn Vôi tiếp nhận, giải quyết sự việc tranh chấp xe ô tô biển kiểm soát 30E-743.33 tại Nhà nghỉ Hoa Lâm, địa chỉ: Thị trấn Vôi, huyện A, tỉnh Bgiữa Ngô DL, Chu Minh Nam và một số đối tượng lạ mặt.
Sau khi Công an thị trấn Vôi xuất hiện thì các đối tượng trên đã rời đi không rõ lý do nên chị Hoàng Thị Tình, sinh năm 1975 là chủ Nhà nghỉ Hoa Lâm đã giao nộp xe ô tô trên cho Công an thị trấn Vôi, huyện Lạng Giang để chờ xác minh giải quyết vụ việc. Ngày 24/12/2020, sau khi nhận được thông báo truy tìm của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bắc Giang đối với xe ô tô biển kiểm soát 30E- 743.33 thì Công an thị trấn Vôi đã bàn giao xe ô tô trên cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bắc Giang để phục vụ công tác điều tra vụ án.
Kết quả xác minh xác định Nguyễn Văn Long, sinh năm: 1987, trú tại: Thôn Thượng, xã Phú Đa, huyện V Tường, tỉnh V Phúc là người quản lý chiếc xe ô tô 30E-743.33 đi đến gửi tại nhà nghỉ Hoa Lâm. Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Văn Long khai đã cho Vũ Thị N vay số tiền 150.000.000 đồng và Vũ Thị N đã giao xe ô tô biển kiểm soát 30E-743.33 cho anh Long sử dụng. Sau khi nhận xe, Nguyễn Văn Long chỉ sử dụng để đi lại quanh thị trấn Vôi, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang, sau đó Long gửi xe ô tô trên tại Nhà nghỉ Hoa Lâm cho đến khi Ngô DL cùng anh Chu Minh Nam đến đòi xe.
Anh Ngô DL cùng anh Chu Minh Nam cung cấp cho Cơ quan điều tra kết quả hiển thị định vị xe ô tô 30E-743.33 phù hợp với lời khai của Nguyễn Văn Long về việc sử dụng xe ô tô này.
Tại Cơ quan điều tra, Vũ Thị N khai thông qua anh Ngô DL để thuê xe ô tô 30E-743.33. Sau khi thuê xe của anh Ngô DL, N giao xe cho một nam thanh niên (khi giao xe không có hợp đồng, giấy tờ gì, đến nay N không nhớ là ai) và cầm của người thanh niên này số tiền 20.000.000 đồng; N không quen biết Nguyễn Văn Long, không giao xe cho Nguyễn Văn Long để vay số tiền 150.000.000 đồng và N khẳng định nếu có cho N đối chất với Nguyễn Văn Long thì N vẫn giữ N quan điểm trên.
6. Xe ô tô 30G-078.23:
Cũng trong ngày 10/9/2020, Vũ Thị N thuê xe ô tô nhãn hiệu: TOYOTA, số loại: VIOS, màu sơn: Trắng, biển kiểm soát số 30G-078.23 của anh Hoàng AT, sinh năm 1986, trú tại: Số 4, ngõ 1A, đường Nhân H, phường Nhân Chính, quận Thanh X, thành phố Hà Nội, nội dung hợp đồng không ghi rõ thời hạn thuê xe ô tô và mục đích thuê xe ô tô.
Tại Cơ quan điều tra, Vũ Thị N khai sau khi thuê xe ô tô biển kiểm soát số 30G-078.23, N đã cho anh Tạ Văn Tiến, sinh năm 1984, địa chỉ: Thôn Chùa, xã Đồng Sơn, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang mượn để sử dụng.
Quá trình làm việc với anh Tạ Văn Tiến khai không mượn, thuê hay giới thiệu người khác thuê xe ô tô của Vũ Thị N.
Tại buổi đối chất với Tạ Văn Tiến, Vũ Thị N thay đổi lời khai khi xác định cho Tiến mượn 01 xe ô tô nhãn hiệu HYUNDAI, số loại ACCENT, không cho Tiến thuê xe ô tô hay thông qua Tiến cho ai khác thuê xe ô tô. Tạ Văn Tiến giữ N lời khai. Khi được hỏi về lời khai trước đây về Tạ Văn Tiến thì Vũ Thị N trình bày không nhớ đã khai gì với Cơ quan điều tra 7. Xe ô tô biển kiểm soát 30A-434.49:
Ngày 15/9/2020, Vũ Thị N thuê xe ô tô nhãn hiệu: HYUNDAI, số loại: ACCENT, màu sơn: Đỏ, biển kiểm soát số 30A-434.49 của anh Phùng CC, sinh năm 1974, trú tại: Tổ 7, phường ĐT, quận BTL, thành phố Hà Nội, thời hạn thuê xe là 05 ngày kể từ ngày 15/9/2020, mục đích thuê xe ô tô thể hiện trên hợp đồ ng là để phục vụ công việc cá nhân.
Tại Cơ quan điều tra, Vũ Thị N khai thông qua anh Tạ Văn Tiến, sinh năm 1984, trú tại thôn Chùa, xã Đồng Sơn, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang nên N đã cho anh Thân Văn Lâm (sinh khoảng năm 1990), ở xã Đồng Sơn, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang thuê lại xe ô tô biển kiểm soát 30A-434.49 nhưng không có hợp đồng, giấy tờ gì.
Quá trình điều tra, xác minh tại Công an xã Đồng Sơn, thành phố Bắc Giang xác định chỉ có một công dân có họ và tên là Thân Văn Lâm, sinh năm 1990, trú tại thôn Sòi, xã Đồng Sơn, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang. Anh Thân Văn Lâm khai không quen biết và không thuê xe ô tô của Vũ Thị N.
Tại buổi đối chất với Thân Văn Lâm, Vũ Thị N không nhận ra Thân Văn Lâm và trình bày không quen biết người đàn ông này.
Tiến hành đối chất giữa bị can N với anh Tạ Văn Tiến về nội dung mâu thuẫn thì bị can N đã thay đổi lời khai. N khai xe ô tô biển kiểm soát 30A-434.49 không pH đã cho anh Lâm thuê mà đã cho anh Tiến mượn sau khi thuê được, tuy nhiên anh Tiến không thừa nhận.
Ngày 12/10/2020, Cơ quan điều tra phối hợp cùng với Công an thị trấn Vôi, huyện A, tỉnh Btiến hành rà soát trên địa bàn thị trấn Vôi để truy tìm tang vật trong vụ án thì phát hiện chiếc xe ô tô biển kiểm soát 30A-434.49 tại Gara ô tô Anh Phương, địa chỉ: Số 30, tổ dân phố Toàn Mỹ, thị trấn Vôi, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Sau khi được thông báo, giải thích về việc xe ô tô biển kiểm soát 30A- 434.49 là vật chứng trong vụ án hình sự thì anh Đỗ Văn Đại, sinh năm 1971, trú tại tổ dân phố Đại Phú 2, thị trấn Vôi, huyện A, tỉnh Bđã tự nguyện giao nộp cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bắc Giang để phục vụ công tác điều tra vụ án.
Tại Cơ quan điều tra, ông Đỗ Văn Đại khai Vũ Thị N vay tiền và để lại xe ô tô 30A-434.49 cho anh Đỗ Văn Duy, sinh năm 1997 (là con trai của anh Đại) sử dụng. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bắc Giang đã nhiều lần triệu tập nhưng Đỗ Văn Duy không đến làm việc; gia đình và chính quyền địa phương không xác định được Đỗ Văn Duy đi đâu, làm gì.
Anh Nguyễn Văn Phương, sinh năm: 1987, trú tại: Số 30, đường Nguyễn Trãi, thị trấn Vôi, huyện A, tỉnh Blà chủ của Gara ô tô Anh Phương khai buổi tối ngày 25/9/2020, anh Đỗ Văn Duy đi xe ô tô biển kiểm soát số 30A-434.49 đến Gara ô tô Anh Phương để sửa chữa hộp số của xe ô tô này. Ngày 03/10/2020, anh Duy đã chuyển tiền qua tài khoản ngân hàng cho anh Phương số tiền là 20.000.000 đồng để trả tiền sửa chữa, thay thế phụ tùng chiếc xe. Số tài khoản Đỗ Văn Duy sử dụng để chuyển tiền là 31398999999. Cơ quan Cảnh sát điều tra (CSKT) Công an tỉnh Bắc Giang đã tiến hành xác minh xác định số tài khoản này là của Đỗ Văn Duy tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Chi nhánh tỉnh Bắc Ninh.
8. Xe ô tô 30E-432.98:
Cũng trong ngày 15/9/2020, Vũ Thị N thuê xe ô tô nhãn hiệu: TOYOTA, số loại: VIOS, màu sơn: Đen, biển kiểm soát số 30E-432.98 của anh Ngô Minh H, sinh năm 1988, địa chỉ: Số 67, đường VĐ, phường BĐ, quận HBT, thành phố Hà Nội, nội dung hợp đồng không ghi rõ thời hạn thuê xe ô tô và mục đích thuê xe ô tô.
Tại Cơ quan điều tra, Vũ Thị N khai sau khi thuê chiếc xe ô tô biển kiểm soát số 30E-432.98, N đã giao xe cho anh Nguyễn Quang Hưng, địa chỉ: Thị trấn Vôi, huyện A, tỉnh Bthuê lại nhưng không có hợp đồng, giấy tờ gì, N không rõ nhân thân, lai lịch của anh Hưng.
Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bắc Giang đã tiến hành điều tra, xác minh nhưng không xác định được đối tượng Nguyễn Quang Hưng theo lời khai của Vũ Thị N.
Đối với 03 chiếc xe ô tô biển kiểm soát 30F-196.98, xe ô tô biển kiểm soát 30G-078.23 và xe ô tô biển kiểm soát 30E-432.98, N khai thuê xe thông qua anh Nguyễn Văn Duy, sinh năm 1993, trú tại: Số 38, ngách 23, ngõ 165, phố Dương Quảng Hàm, phường Quan Hoa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Văn Duy khai làm nghề dịch vụ cho thuê xe ô tô từ năm 2019, Duy có quen biết Vũ Thị N qua mạng xã hội Facebook. N sử dụng số điện thoại 0987.325.069 liên lạc với Duy để thuê xe ô tự lái. Duy đã lần lượt liên hệ với anh Vũ N Mạnh, sinh năm 1986, trú tại số 29, ngõ 350/15/100, đường KG, phường Đk, quận HM, thành phố Hà Nội là chủ xe ô tô biển kiểm soát 30F- 196.98; anh Hoàng AT, sinh năm 1986, trú tại số 04, ngõ 1A, đường Nhân H, phường Thanh Trì, quận Thanh X, thành phố Hà Nội là chủ xe ô tô biển kiểm soát 30G-078.23 và anh Ngô Minh H, sinh năm 1988, trú tại số 67, đường VĐ, phường BĐ, quận HBT, thành phố Hà Nội là chủ xe ô tô biển kiểm soát 30E-432.98 để thỏa thuận cho Vũ Thị N thuê lại để hưởng tiền chênh lệch. Lần đầu tiên, N thuê xe ô tô của Duy là vào ngày 31/8/2020, N có đặt vấn đề thuê xe của Duy để đi lại, những lần thuê sau thì N có cho Duy biết thuê xe để N cho người khác thuê lại với giá tiền cao hơn. Duy không biết Vũ Thị N đã sử dụng 03 chiếc xe ô tô trên như thế nào.
Định giá tài sản:
Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã ra yêu cầu định giá tài sản đối với 11 chiếc xe ô tô nêu trên. Kết quả định giá tài sản của các cơ quan định giá trên địa bàn tỉnh Bắc Giang kết luận: Xe ô tô biển kiểm soát 30F-394.56 trị giá là 500.000.000 đồng; Xe ô tô biển kiểm soát 30A-434.49 trị giá là 290.000.000 đồng;
Xe ô tô biển kiểm soát 98A-328.12 trị giá là 650.000.000 đồng; Xe ô tô biển kiểm soát 30E-743.33 trị giá là 522.491.000 đồng; Xe ô tô biển kiểm soát 99A-108.50 trị giá là 592.000.000 đồng; Xe ô tô biển kiểm soát 30F-196.98 trị giá là 513.000.000 đồng; Xe ô tô biển kiểm soát 30G-078.23 trị giá là 460.000.000 đồng; Xe ô tô biển kiểm soát 30E-432.98 trị giá là 482.500.000 đồng; Xe ô tô biển kiểm soát 30F- 234.66 trị giá là 563.000.000 đồng; Xe ô tô biển kiểm soát 34C-146.62 trị giá là 448.500.000 đồng; Xe ô tô biển kiểm soát 99A-218.84 trị giá là 550.000.000 đồng.
Tổng trị giá 11 chiếc xe ô tô nêu trên là 5.571.491.000 đồng.
Trưng cầu giám định:
Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã tiếp nhận các Hợp đồng thuê xe ô tô, Biên bản giao nhận xe ô tô của các bị hại giao nộp; tài liệu liên quan đến Công ty VHNvà đã tiến hành trưng cầu giám định chữ viết, chữ ký của Vũ Thị N và hình dấu trên các tài liệu nêu trên tại Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang; kết quả trưng cầu giám định chữ viết, chữ ký của Vũ Thị N và tài liệu liên quan đến Công ty VHNlà phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác.
Cơ quan điều tra đã tiến hành trưng cầu giám định số khung, số máy của 04 xe ô tô biển kiểm soát 30A-434.49, xe ô tô biển kiểm soát 99A-108.50, xe ô tô biển kiểm soát 30E-743.33 và xe ô tô biển kiểm soát 34C-146.62. Kết quả các dãy số khung, dãy số máy trên 04 xe ô tô này không bị hàn ghép, đục đóng lại.
Bản cáo trạng số 81/CT-VKS-P3 ngày 28/11/2021 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang truy tố bị cáo Vũ Thị N về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 11/2022/HS-ST ngày 24 tháng 3 năm 2022, Tòa án nhân dân tình Bắc Giang đã quyết định:
Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm n khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015;
Xử phạt bị cáo Vũ Thị N 20 (Hai mươi) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Tổng hợp hình phạt 06 năm 06 tháng tù của Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2021/HS-ST ngày 28/01/2021 của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang, buộc bị cáo Vũ Thị N pH chấp hành hình phạt chung cho cả 02 bản án là 26 (Hai mươi sáu) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án. Nhưng được trừ thời gian bị cáo đã bị tạm giam của Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2021/HS-ST ngày 28/01/2021 của Tòa án nhân dân huyện A, tỉnh Btừ ngày 21/9/2020 đến ngày 08/6/2021.
2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 584, Điều 589, khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự;
Buộc bị cáo Vũ Thị N pH bồi thường cho người bị hại gồm:
- Công ty trách nhiệm hữu hạn dịch vụ vận tải NH 550.000.000 đồng (Năm trăm năm mươi triệu đồng).
- Chị Lê Thị H 650.000.000 đồng (Sáu trăm năm mươi triệu đồng).
- Anh Vũ ĐV 563.000.000 đồng (Năm trăm sáu mươi ba triệu đồng).
- Anh Vũ N Mạnh 513.000.000 đồng (Năm trăm mười ba triệu đồng).
- Anh Hoàng AT 460.000.000 đồng (Bốn trăm sáu mươi triệu đồng).
- Anh Ngô Minh H 482.000.000 đồng (Bốn trăm tám mươi hai triệu đồng).
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 31/3/2022, bị cáo Vũ Thị N có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị cáo Vũ Thị N trình bày hoàn cảnh gia đình bị cáo rất khó khăn, một mình bị cáo pH nuôi 02 con còn nhỏ (cháu lớn sinh năm 2014, cháu nhỏ sinh năm 2021); do trình độ hiểu biết có hạn nên bị cáo đã có hành vi phạm tội và rất ăn năn hối cải, xin Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận kháng cáo giảm hình phạt để bị cáo được sớm trở về chăm sóc con nhỏ.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội nêu quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo, giữ N quyết định của bản án sơ thẩm.
Luật sư bào chữa cho bị cáo Vũ Thị N đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hoàn cảnh gia đình bị cáo rất khó khăn, một mình bị cáo pH nuôi 02 con còn nhỏ (cháu lớn sinh năm 2014, cháu nhỏ sinh năm 2021); do trình độ hiểu biết có hạn nên bị cáo đã có hành vi phạm tội và tại phiên toà phúc thẩm bị cáo ăn năn, hối cải. Đề nghị chấp nhận kháng cáo, giảm một phần hình phạt để bị cáo được hưởng sự khoan hồng của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Vũ Thị N thừa nhận hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại cấp sơ thẩ m; phù hợp với lời khai của những người bị hại và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Có đủ căn cứ kết luận: Trong khoảng thời gian từ ngày 12/8/2020 đến ngày 21/9/2020, Vũ Thị N đã có 11 lần dùng thủ đoạn gian dối ký hợp đồng thuê 11 xe ô tô trị giá 5.571.491.000 đồng của các cá nhân, tổ chức trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh và thành phố Hà Nội nhằm mục đích chiếm đoạt của Công ty N Hằng, Công ty PITS, chị Lê Thị H, anh Lê Văn H, anh Vũ ĐV, anh Vũ N Mạnh, anh Ngô DL, anh Hoàng AT, anh Phùng CC và anh Ngô Minh H; sau đó mang xe đi cầm cố để lấy tiền chi tiêu cá nhân. Quá trình điều tra thu giữ được 05/11 xe đã được giao bán giá rẻ hoặc cầm cố; còn lại 06/11 xe không xác định được ở đâu. Tòa án cấp sơ thẩm đã quy kết bị cáo Vũ Thị N về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, không oan.
[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Vũ Thị N: Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Bị cáo N có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là phạm tội 02 lần trở lên theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự; bị cáo có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, người phạm tội là phụ nữ có thai theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo 20 năm tù là tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Tại phiên toà phúc thẩm bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; hoàn cảnh gia đình bị cáo rất khó khăn, bị cáo là lao động chính, một mình bị cáo pH nuôi 02 con còn nhỏ (cháu lớn sinh năm 2014, cháu nhỏ sinh năm 2021); đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo giảm một phần hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật.
[3] Do bị cáo Vũ Thị N còn phải chấp hành hình phạt 06 năm 06 tháng tù của Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2021/HS-ST ngày 28/01/2021 của Tòa án nhân dân huyện A, tỉnh Bvề tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và tội “Mua bán trái phép hóa đơn”. Vì vậy, căn cứ Điều 56 Bộ luật hình sự, Hội đồng xét xử quyết định tổng hợp hình phạt của Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2021/HS-ST ngày 28/01/2021 của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang với hình phạt của bản án này.
[4] Về án phí: Kháng cáo của bị cáo Vũ Thị N được chấp nhận, nên bị cáo không pH chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Vũ Thị N; sửa quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm số 11/2022/HS-ST ngày 24/3/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang về phần hình phạt đối với bị cáo N.
Tuyên bố: Bị cáo Vũ Thị N phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm n, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015; Xử phạt bị cáo Vũ Thị N 19 (Mười chín) năm tù.
Tổng hợp hình phạt 06 năm 06 tháng tù của Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2021/HS-ST ngày 28/01/2021 của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang, buộc bị cáo Vũ Thị N phải chấp hành hình phạt chung cho cả 02 bản án là 25 (Hai mươi lăm) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án. Nhưng được trừ thời gian bị cáo đã bị tạm giam của Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2021/HS-ST ngày 28/01/2021 của Tòa án nhân dân huyện A, tỉnh Btừ ngày 21/9/2020 đến ngày 08/6/2021.
Về án phí: Bị cáo Vũ Thị N không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.
Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 493/2022/HS-PT
Số hiệu: | 493/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/07/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về