Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 454/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 454/2023/HS-ST NGÀY 14/09/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 627/2023/TLST-HS ngày 17 tháng 8 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 3740/2023/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 8 năm 2023, đối với bị cáo:

Đặng Quang T; sinh năm: 1989, tại Ninh Bình; hộ khẩu thường trú: thôn C, xã Q, huyện C, tỉnh Lâm Đồng; tạm trú: 71/KDC, tổ F, đường B, khu phố B, phường B, thành phố T, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: làm công; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; cha: Đặng Văn T1 (chết), mẹ: Ninh Thị M; có vợ (đã ly hôn) và 01 con sinh năm 2014; tiền sự: không có; tiền án: ngày 23/7/2020, bị Tòa án nhân dân thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” (theo Bản án số 74/2020/HS-ST); bị bắt, tạm giam ngày: 26/10/2022; có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Ông Phạm Huy T2, sinh năm: 1979; nơi cư trú: Số A ngõ D, N, Phường L, Quận H, Thành phố Hà Nội; có văn bản xin vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Bà Đặng Thị Thu N, sinh năm: 1979; nơi cư trú: tổ dân phố T, phường Q, thành phố G, tỉnh Đăk Nông; có mặt tại phiên tòa.

2. Chị Đặng Phương T3, sinh năm: 1998; nơi cư trú: 10B tổ H, Khu phố F, phường L, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; có mặt tại phiên tòa.

3. Chị Nguyễn Trọng Nhã U, sinh năm: 1996; nơi cư trú: 71/KDC, tổ F, đường B, khu phố B, phường B, thành phố T, tỉnh Bình Dương; vắng mặt tại phiên tòa.

4. Anh Hoàng Văn T4, sinh năm: 1985; nơi cư trú: 22/5 khu phố D, phường A, thành phố T, tỉnh Bình Dương; vắng mặt tại phiên tòa.

5. Chị Quách Thị L, sinh năm: 1993; nơi cư trú: phòng số 4, 42DC43, D25, KDC V, phường A, thành phố T, tỉnh Bình Dương; có mặt tại phiên tòa.

6. Ông Vũ Ngọc Q, sinh năm: 1979; nơi cư trú: D, khu phố F, phường H, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh; có mặt tại phiên tòa.

7. Chị Trần Thị Cẩm T5, sinh năm: 1995; nơi cư trú: 401 đường C, phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương; vắng mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo Đặng Quang T: Ông Nguyễn Trung C - Luật sư của Công ty L1, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố H; địa chỉ: Số A đường Đ, Phường A, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh; có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Qua tìm hiểu thông tin trên mạng In-ter-net, bị cáo Đặng Quang T biết ông Phạm Huy T2 được bổ nhiệm làm Chủ tịch Hội đồng thành viên Ngân hàng Thương mại Cổ phần D, có ông Phạm Thanh H là Phó Thống đốc Ngân hàng N đến trao quyết định và cũng biết được số điện thoại của ông T2 và ông H. Do đang bị thiếu nợ nhiều tiền, nên bị cáo nảy sinh ý định giả danh ông H nhắn tin cho ông T2 để chiếm đoạt tài sản. Thực hiện ý định, ngày 19/10/2022, bị cáo sử dụng một sim có số điện thoại là 094X8819 nhắn tin đến số điện thoại của ông T2 thông báo đây là số điện thoại mới mà ông H sử dụng. Thấy ông T2 trả lời tin nhắn với nội dung tin tưởng là ông H, nên ngày 20/10/2022 bị cáo tiếp tục nhắn tin nhờ giải quyết giúp sự việc xảy ra tại Thành phố Hồ Chí Minh và ông T2 đồng ý. Bị cáo nhắn tin với nội dung yêu cầu ông T2 chuẩn bị 01 chai rượu Hennessy XO, 01 hộp xì gà, số tiền tổng cộng 1.000.000.000 đồng để lo công việc và hứa sẽ trả lại sau. Sau đó, bị cáo hẹn ông T2 giao tiền, rượu và xì gà tại phía trước Trung tâm tiệc cưới M - địa chỉ: số F đường K, phường L, thành phố H , nhưng do ông T2 bận việc nên hẹn giao vào ngày 21/10/2022. Khoảng 17 giờ 05 phút, ngày 21/10/2022, bị cáo đặt dịch vụ thuê tài xế là anh Nguyễn Văn H2 (sinh năm 1982; nơi cư trú: tổ H, khu B, ấp G, xã A, huyện L, tỉnh Đồng Nai) với giá 300.000 đồng đến địa chỉ nêu trên để nhận một túi nilon màu đỏ từ ông T2, rồi đem giao lại cho bị cáo tại bãi đất trống phía trước siêu thị A, thuộc khu phố B, phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Khi về đến nhà, bị cáo kiểm tra túi nilon màu đỏ mà ông T2 đưa, bên trong gồm một hộp giấy hình vuông có số tiền 1 tỷ đồng, một chai rượu Chivas 25 để trong hộp màu đen, một hộp xì gà có 27 điếu để trong hộp gỗ có chữ “RESERVE”.

Sau khi lấy được tài sản từ ông T2, bị cáo đã sử dụng số tiền nêu trên để tiêu xài, trả nợ, trả tiền thuê nhà và mua điện thoại di động cho Đặng Phương T3, Nguyễn Trọng Nhã U, Đặng Thị Thu N, Hoàng Văn T4, Quách Thị L, Vũ Ngọc Q và Trần Thị Cẩm T5. Riêng chai rượu Chivas 25 và 06 điếu xì gà đem cho cháu là Đặng Phương T3.

Sau khi giao số tài sản nêu trên, ông T2 thấy nghi ngờ nên đã gọi điện thoại cho ông H thì biết đã bị lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nên ông T2 nhắn tin vào số điện thoại của bị cáo giả vờ sẽ tiếp tục đưa tiền nếu có yêu cầu. Bị cáo liền yêu cầu ông T2 đưa thêm số tiền 01 tỷ đồng, cũng với phương thức giao nhận như ngày hôm trước. Ông T2 trình báo Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố H. Ngày 22/10/2022, bị cáo thuê người đến nhận theo như đã hẹn thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố H phát hiện, lần theo và đưa bị cáo về trụ sở để làm rõ.

Cơ quan điều tra đã thu giữ của bị cáo Đặng Quang T chiếc điện thoại di động hiệu Nokia màu đen có 2 sim, trong đó có sim số 094X8819 dùng để liên lạc với ông T2, trích xuất được các nội dung tin nhắn liên quan đến vụ việc nêu trên. Tiến hành khám xét nơi ở của bị cáo, thu giữ được hộp xì gà hiệu RESERVE bên trong có 21 điếu và số tiền 254.500.000 đồng. Các ông, bà Đặng Phương T3, Nguyễn Trọng Nhã U, Đặng Thị Thu N, Hoàng Văn T4, Quách Thị L, Vũ Ngọc Q và Trần Thị Cẩm T5 không biết nguồn gốc số tiền của Đặng Quang T do phạm tội mà có và đã tự nguyện giao nộp lại. Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố H, Đặng Quang T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Theo Kết luận định giá tài sản số 594/KL-HĐĐGTS ngày 10/02/2023 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự cấp Thành phố, giá trị của chai rượu Chivas Regal 25, 700ml, xuất xứ S, có giá là 6.800.000 đồng; 01 hộp thuốc lá xì gà loại 27 điếu có chữ RESERVE ROMEO Y JULIETA, có giá 5.150.000 đồng. Tổng cộng là 11.950.000 (mười một triệu chín trăm năm mươi nghìn) đồng.

Bản Cáo trạng số 429/CT-VKS-P2 ngày 11 tháng 8 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Đặng Quang T tội danh “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, - Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh trình bày lời luận tội, giữ quan điểm như truy tố, nêu lên các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo Đặng Quang T từ 14 năm đến 16 năm tù. Đồng thời, đề nghị xử lý tài sản, vật chứng thu giữ theo quy định.

- Người bào chữa cho bị cáo trình bày: thống nhất về tội danh, điều khoản mà Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh truy tố đối với bị cáo. Đồng tình với các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo mà đại diện Viện kiểm sát nêu trong phần luận tội. Đồng thời trình bày thêm, hành vi phạm tội của bị cáo đơn giản, tài sản bị chiếm đoạt đã được thu hồi trả lại cho bị hại. Do vậy, đề nghị áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức án thấp hơn mức án đề nghị của đại diện Viện kiểm sát để thể hiện sự khoan hồng của pháp luật và bị cáo sớm trở về với gia đình.

- Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng nêu và xin giảm nhẹ hình phạt.

- Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án xác nhận sự việc có liên quan xảy ra đúng như cáo trạng đã nêu, đã giao trả lại các tài sản cho cơ quan công an.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các lời khai tại cơ quan điều tra, những chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở để xác định: Vào ngày 19/10/2022, bị cáo Đặng Quang T đã dùng thủ đoạn gian dối giả danh ông Phạm Thanh H là Phó Thống đốc Ngân hàng N để nhắn tin cho ông Phạm Huy T2 yêu cầu đưa các tài sản có tổng giá trị là 1.011.950.000 (một tỷ không trăm mười một triệu chín trăm năm mươi nghìn) đồng; gồm 01 chai rượu Chivas 25, 01 hộp xì gà hiệu RESERVE và số tiền 1 tỷ đồng, rồi chiếm đoạt vào ngày 21/10/2022. Đến ngày 22/10/2022, thì bị cơ quan cảnh sát điều tra phát hiện tạm giữ.

[3] Hành vi dùng thủ đoạn gian dối giả danh người khác, làm cho họ tin đó là thật mà giao tài sản, rồi chiếm đoạt tài sản có giá trị nêu trên mà bị cáo thực hiện, đã đầy đủ các yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” thuộc trường hợp “Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 500.000.000 đồng trở lên”. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh truy tố bị cáo Đặng Quang T tội danh “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng quy định.

[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm, đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác, bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và ý thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện nên có lỗi cố ý trực tiếp. Vì vậy cần có hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội của bị cáo nhằm giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: ngày 23/7/2020, bị cáo bị Tòa án nhân dân thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” (theo Bản án hình sự số 74/2020/HSST); ngày 27/01/2022, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù. Tính đến lần phạm tội này, bị cáo chưa được xóa án tích. Như vậy, hành vi phạm tội lần này của bị cáo này thuộc trường hợp “tái phạm”, đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điềm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ là “thành khẩn khai báo”, “ăn năn hối cải”; tài sản bị chiếm đoạt đã được thu hồi trả lại cho bị hại, bị hại có đơn bãi nại, xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Các tình tiết giảm nhẹ này được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[7] Đối với những người có hành vi nhận tiền, điện thoại của bị cáo trả nợ hoặc tặng cho gồm: Đặng Thị Thu N, Đặng Phương T3, Nguyễn Trọng Nhã U, Hoàng Văn T4, Quách Thị L, Vũ Ngọc Q, Trần Thị Cẩm T5 nhưng không biết nguồn gốc của số tiền và tài sản này do bị cáo phạm tội mà có, nên cơ quan cảnh sát điều tra không xử lý là có căn cứ.

[8] Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự:

- Chị Đặng Phương T3 và Nguyễn Trọng Nhã U đã nộp lại số tiền tương đương giá trị của 02 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 14 màu tím mà bị cáo mua tặng, nên cơ quan điều tra đã xử lý vật chứng trả 02 chiếc điện thoại di động nêu trên cho chị T3 và chị U là có căn cứ.

- Bị hại - ông Phạm Huy T2 đã được nhận lại số tài sản gồm: 01 chai rượu Chivas 25, 01 hộp xì gà hiệu RESERVE (trong đó có 25 điếu) và số tiền 01 tỷ đồng. Riêng 2 điếu xì gà đã bị sử dụng hết, không thu hồi được ông T2 không có ý kiến hay yêu cầu bồi thường gì thêm, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Thu giữ của bị cáo Đặng Quang T: 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, có số sim 1 là 094X8819, sim 2 là 0906X874 và 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus, màu xanh xám, có số sim là: 096303X2: đây là các phương tiện bị cáo sử dụng vào việc phạm tội, nên tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm a khoản 4 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Tuyên bố bị cáo Đặng Quang T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Xử phạt bị cáo Đặng Quang T 14 (mười bốn) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 26/10/2022.

2. Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, có số sim 1 là: 094X8819, sim 2 là: 0906X874 và 01 điện thoại di động hiệu Iphone, màu xanh xám, có số sim là: 096303X2.

(Theo Biên bản giao nhận tang tài vật số: NK2023/486 ngày 13/9/2023 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh).

3. Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; các điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải chịu là 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

4. Căn cứ vào Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

46
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 454/2023/HS-ST

Số hiệu:454/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về