Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 428/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 428/2022/HS-PT NGÀY 29/09/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 9 năm 2022, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm theo hình thức trực tuyến tại điểm cầu trung tâm trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng kết nối điểm cầu trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai vụ án hình sự thụ lý số 376/2022/TLPT-HS ngày 05/9/2022 đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 65/2022/HS-ST ngày 26/07/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai bị kháng cáo. Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 2299/2022/QĐXXPT-HS ngày 15/9/2022 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, đối với:

Bị cáo có kháng cáo:

1. Trần Văn H, sinh ngày 16/6/1988 tại Hà Nội; nơi ĐKHKTT và chỗ ở:

thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn T, sinh năm 1963 và bà Trần Thị L, sinh năm 1966; có vợ tên Nguyễn Thị T, sinh năm 1989; có 03 con, lớn nhất sinh năm 2008, nhỏ nhất sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/10/2021 tại Trại tạm giam Công an tỉnh Gia Lai đến nay, có mặt tại phiên tòa.

2. Hoàng Văn H1, sinh ngày 20/10/1995 tại Bắc Giang; nơi ĐKHKTT và chỗ ở: tỉnh Bắc Giang; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn V, sinh năm 1970 và bà Hà Thị H, sinh năm 1975; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/3/2021 đến ngày 02/10/2021 được áp dụng biện pháp bảo lĩnh; bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

Ngoài ra, vụ án còn có các bị cáo Nguyễn Minh D, Lê Hồ Quốc H và Nguyễn Thị Hoa P không kháng cáo, không bị kháng cáo và kháng nghị.

- Người bào chữa cho bị cáo Trần Văn H: Luật sự Đào Văn T, thuộc Văn phòng luật sư M, Đoàn luật sư tỉnh Gia Lai, có mặt.

- Bị hại: Ông Trương Thanh C, sinh năm 1977; địa chỉ: tỉnh Gia Lai, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Văn T và Nguyễn Minh D quen biết nhau thông qua mối quan hệ xã hội. Từ khoảng cuối tháng 11/2020, Phạm Văn T đã gặp Nguyễn Minh D và nói cho D biết việc T đã gắn thiết bị điện tử vào bo mạch cân điện tử của Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên Thanh C (gọi tắt là Công ty Thanh C; địa chỉ: tỉnh Gia Lai) do ông Trương Thanh C (sinh năm 1977; trú tại: tỉnh Gia Lai) làm Giám đốc, nên có thể điều khiển làm thay đổi giá trị khối lượng hiển thị trên cân điện tử. T bàn với D về việc mua, bán cà phê với Công ty Thanh C, quá trình mua, bán sẽ sử dụng thiết bị điều khiển làm tăng khối lượng cà phê khi bán cho Công ty Thanh C và giảm khối lượng cà phê khi mua của Công ty Thanh C để chiếm đoạt tài sản của Công ty Thanh C. D đồng ý và nhận từ T 01 (một) thiết bị điều khiển từ xa (remode) có thể điều chỉnh làm thay đổi giá trị khối lượng hiển thị trên cân điện tử của Công ty Thanh C.

D biết Lê Hồ Quốc H (làm nghề kinh doanh nông sản) thường xuyên mua cà phê của Công ty Thanh C nên D rủ H sử dụng thiết bị làm giảm khối lượng hiển thị trên cân điện tử khi H mua cà phê của Công ty Thanh C nhằm chiếm đoạt tài sản của Công ty Thanh C thì H đồng ý. D và H thỏa thuận cứ 1.100 kg cà phê chiếm đoạt được H sẽ chia cho D 12.000.000 đồng (trong số 12.000.000 đồng này D giữ lại 1/3, còn lại đưa cho T). Từ ngày 29/11/2020 đến ngày 28/01/2021 H mua cà phê của Công ty Thanh C thì D trực tiếp đi theo xe hàng bấm điều khiển làm giảm khối lượng cà phê hiển thị trên cân điện tử khi H mua cà phê của Công ty Thanh C; từ ngày 23/02/2021 đến ngày 06/3/2021 T cử Hoàng Văn H1 và D đi theo xe hàng bấm điều khiển thay D và trả tiền công với giá 500.000 đồng/chuyến xe.

Tổng cộng từ ngày 29/11/2020 đến ngày 06/3/2021: - D 05 lần bấm điều khiển làm giảm khối lượng 8.950 kg cà phê nhân xô hiển thị trên cân điện tử khi mua cà phê của Công ty Thanh C và 01 lần bấm điều khiển làm tăng khối lượng 1.170 kg cà phê nhân xô hiển thị trên cân điện tử khi bán cà phê cho Công ty Thanh C; - H1 05 lần bấm thiết bị làm giảm khối lượng 11.200 kg cà phê nhân xô và 01 lần bấm điều khiển làm tăng khối lượng 1.280 kg cà phê nhân xô.

Giữa tháng 01/2021, D nói H rủ thêm người bán cà phê cho Công ty Thanh C để chiếm đoạt tài sản nên H rủ thêm Nguyễn Thị Hoa P (làm nghề kinh doanh cà phê) cùng tham gia nên H giới thiệu để P bán cà phê cho Công ty Thanh C. P và H mỗi người góp 400.000.000 đồng làm vốn chung để H sử dụng khi mua cà phê của Công ty Thanh C nhằm chiếm đoạt khối lượng cà phê chênh lệch, P có trách nhiệm ghi sổ theo dõi. D, H và P thỏa thuận cứ 1.100 kg cà phê chiếm đoạt được thì D được chia 12.000.000 đồng, trong số này D được giữ 1/3, còn lại đưa cho T, số tiền còn lại sau khi trừ chi phí thì H và P chia đôi. Sau đó, D đã báo cho T biết việc có thêm P cùng tham gia thì T cử Trần Văn H đi theo xe hàng của P và trả tiền công với giá 500.000 đồng/ngày để bấm điều khiển làm tăng khối lượng khi P bán cà phê cho Công ty Thanh C để chiếm đoạt tài sản. Từ ngày 26/01/2021 đến ngày 27/02/2021, H đã 12 lần sử dụng thiết bị điều khiển tác động lên cân điện tử của Công ty Thanh C khi bán cà phê làm tăng tổng cộng 20.194,8 kg cà phê nhân xô.

Tổng cộng, từ ngày 19/11/2020 đến ngày 06/3/2021, Phạm Văn T, Nguyễn Minh D, Lê Hồ Quốc H, Nguyễn Thị Hoa P, Trần Văn H và Hoàng Văn H1 đã chiếm đoạt tài sản là 20.150 kg cà phê và 650.162.565 đồng, tổng giá trị tài sản các bị can đã chiếm đoạt của Công ty Thanh C là 1.303.140.565 đồng.

Số tiền chiếm đoạt được, H đã chia cho D 120.000.000 đồng, số tiền 1.183.140.565 đồng còn lại H và P sử dụng để trả các chi phí thuê nhân công bốc vác, nhân viên kiểm định chất lượng… và làm vốn để H và P tiếp tục mua, bán cà phê với Công ty Thanh C. Đối với số tiền D được H chia, D đã đưa cho T 65.000.000 đồng, số tiền 55.000.000 đồng còn lại D sử dụng để tiêu xài cá nhân trong thời gian ở trọ cùng với H và H1. Riêng H và H1 được T cử đi theo các xe hàng để trực tiếp bấm điều khiển thì được thỏa thuận D sẽ trả mỗi người số tiền 500.000 đồng/chuyến, tuy nhiên cho đến khi bị bắt H và H1 chưa được nhận tiền như đã thỏa thuận..

Vào lúc 09h00’ ngày 06/3/2021, trong lúc Lê Hồ Quốc H đang mua cà phê nhân xô của ông Trương Thanh C và Hoàng Văn H1 đang sử dụng thiết bị điều khiển từ xa tác động lên cân điện tử của Công ty Thanh C làm giảm số lượng cà phê mua từ 26.910 kg xuống còn 25.400 kg, chiếm đoạt 1.510 kg cà phê nhân xô thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai tổ chức bắt quả tang.

Quá trình điều tra các bị can D, H, P đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Còn bị can H và H1 không thành khẩn khai báo, cho rằng bản thân không nhận thức được hành vi bấm điều khiển là gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản của Công ty Thanh C.

* Tại Kết luận giám định tư pháp số 34/TTTĐC ngày 15/3/2021 của Trung tâm kỹ thuật tiêu chuẩn đo lường chất lượng tỉnh Gia Lai kết luận:

- Hệ thống cân điện tử của Công ty Thanh C không đảm bảo yêu cầu kỹ thuật đo lường, bởi thiết bị đã bị lắp thêm một chíp điện tử vào mặt sau bo mạch chính và điều khiển số hiển thị kết quả cân bằng Remode điều khiển từ xa.

- Bảng mạch xử lý hệ thống cân bị tác động: Gắn thêm chíp điện tử tạo ra sai số phương tiện đo theo nhu cầu, kết quả sẽ giảm xuống hay tăng lên bằng cách bấm một phím số đã cài đặt sẵn trên Remode.

- Thiết bị điện tử được thu giữ là thiết bị điều khiển từ xa làm thay đổi giá trị khối lượng cân hệ thống cân Công ty Thanh C, địa chỉ tại làng Tok Roh, xã Ia Blang, huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai.

* Tại Bản Kết luận định giá tài sản số 57/KL-HĐĐGTS ngày 25/11/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Chư Sê kết luận:

- 20.150 kg cà phê nhân xô từ ngày 02/12/2020 đến ngày 06/3/2021 có giá trị là 652.978.000 đồng.

- 13.770 kg cà phê nhân xô từ ngày 22/01/25021 đến ngày 06/3/2021 có giá trị là 446.755.000 đồng.

- 11.200 kg cà phê nhân xô từ ngày 23/02/2021 đến ngày 06/3/2021 có giá trị là 365.800.000 đồng.

- 2.450 kg cà phê nhân xô vào ngày 28/01/2021 và ngày 01/3/2021 có giá trị là 78.440.000 đồng.

* Việc thu giữ, tạm giữ đồ vật tài liệu và xử lý vật chứng:

- Khi bắt quả tang, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành tạm giữ:

01 thiết bị điện tử có vỏ bằng nhựa màu trắng, phía trên có gắn ăng-ten, qua điều tra xác định, đây là thiết bị điều khiển tác động sai số lên cân điện tử của Công ty Thanh C và xe ô tải BKS 81C - 161.25.

01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1203, 02 sổ tay ghi chép việc mua bán hàng hóa, số tiền 398.700.000 đồng (thu giữ của Lê Hồ Quốc H).

01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S (thu giữ của Hoàng Văn H1).

- Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã thu giữ các chứng từ, tài liệu được lưu trong hồ sơ vụ án gồm:

01 (một) quyển sổ tay có 58 tờ, trong sổ có chữ, số viết tay; 01 (một) quyển sổ tay có đánh số trang từ 01 đến 174 trên các trang có chữ viết, số; 01 (một) quyển vở học sinh được đánh số từ 01 đến 43; 02 (hai) phiếu thanh toán số 348 và 448 ghi Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên Phi Long Gia Lai; 01 (một) giấy nộp tiền; 02 (hai) phiếu thu và 01 (một) bảng kê chứng từ; 02 (hai) phiếu cân xe của Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên Phi Long Gia Lai; 01 (một) phiếu cân xe của Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên Nguyên Phát Gia Lai; 01 (một) phiếu cân xe của Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên Hồng Phong Gia Lai H; 07 (bảy) tờ giấy vở học sinh có chữ viết, số. Tất cả các tài liệu trên, các trang có chữ ký xác nhận của Lê Hồ Quốc H. (BL số 299-300: Biên bản khám xét, thu giữ tài liệu) 03 (ba) quyển sổ ghi chép quá trình mua, bán cà phê có chữ ký xác nhận của Nguyễn Thị Hoa P và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Note 20 và số tiền 2.900.000 đồng (thu giữ của Nguyễn Thị Hoa P). (BL số 307: Biên bản tạm giữ số tiền 2.900.000 đồng) 01 (một) quyển sổ màu đen, bên ngoài có ghi chữ “Pigeon CK-2” (tạm giữ của Nguyễn Văn Lâm, nhân viên kiểm tra chất lượng cà phê của Lê Hồ Quốc H). (BL số 336: Biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu) * Về dân sự:

- Bị hại ông Trương Thanh C yêu cầu các bị cáo phải có trách nhiệm trả lại số tiền 1.303.140.565 đồng đã chiếm đoạt cho bị hại nhưng quy ra số lượng cà phê nhân xô.

- Quá trình mua bán cà phê, bị hại Trương Thanh C nợ bị cáo Lê Hồ Quốc H 350.980.000 đồng và cơ quan điều tra đã thu giữ của bị cáo H 398.700.000 đồng, tổng cộng là 749.680.000 đồng, còn lại bị cáo H tự nguyện bồi thường cho bị hại.

- Quá trình mua bán cà phê, bị hại Trương Thanh C nợ bị cáo Nguyễn Thị Hoa P 415.830.000 đồng và cơ quan điều tra đã thu giữ của bị cáo P 2.900.000 đồng, tổng cộng 418.730.000 đồng, số tiền còn lại bị cáo P tự nguyện bồi thường cho bị hại.

- Bị cáo Nguyễn Minh D đã tự nguyện bồi thường 10.000.000 đồng.

- Bị cáo Hoàng Văn H1 đã tự nguyện bồi thường 20.000.000 đồng.

- Bị cáo Trần Văn H đã tự nguyện bồi thường 15.000.000đ theo Biên lai thu số 0000639 ngày 25/5/2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Gia Lai.

Tổng số tiền các bị cáo đã bồi thường cho bị hại là 1.213/410.000đ.

1.303.140.565 đồng.

- Tại bản án hình sự sơ thẩm số 65/2022/HS-ST ngày 26/7/2022, Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai quyết định:

1. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Minh D, Lê Hồ Quốc H, Nguyễn Thị Hoa P, Trần Văn H và Hoàng Văn H1 phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”;

Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51, điểm a, g khoản 1 Điều 52, Điều 54, Điều 58, Điều 3 Bộ lu t H nh s , xử phạt bị cáo Trần Văn H 7 (bảy) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 09/10/2021.

Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 174; điểm b, s khoản 1 Điều 51, điểm a, g khoản 1 Điều 52, Điều 54, Điều 58, Điều 3 Bộ lu t H nh s , xử phạt bị cáo Hoàng Văn H1 6 (sáu) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời giam tạm giam từ ngày 06/3/2021 đến ngày 02/10/2021.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn có quyết định hình phạt với các bị cáo còn lại, quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng và án phí.

Sau khi xét xử sơ thẩm:

- Ngày 28/7/2022, bị cáo Trần Văn H kháng cáo cho rằng mức hình phạt 7 năm tù mà Tòa án tỉnh Gia Lai xử phạt bị cáo là quá nghiêm khắc, đề nghị cấp phúc thẩm xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Ngày 02/8/2022, bị cáo Hoàng Văn H1 kháng cáo cho rằng mức hình phạt 6 năm tù mà Tòa án tỉnh Gia Lai xử phạt bị cáo là quá nặng, đề nghị cấp phúc thẩm xét giảm hình phạt cho bị cáo.

- Ngày 27/7/2022, người bị hại Trương Thanh C kháng cáo đề nghị cấp phúc thẩm giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Bị cáo Trần Văn H giữ nguyên kháng cáo;

- Bị cáo Hoàng Văn H1 giữ nguyên kháng cáo và trình bày sau khi xét xử sơ thẩm đã bồi thường thêm cho bị hại Trương Thanh C số tiền 30.000.000 đồng nên đề nghị cấp phúc thẩm giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; tuy nhiên, bị cáo H1 chưa xuất trình được căn cứ hợp pháp chứng minh, còn bị hại Trương Thanh C vắng mặt.

- Đại diện Viện kiểm sát phát biểu:

+ Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến phiên tòa phúc thẩm hôm nay, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, Thẩm phán, Thư ký Tòa án thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; Bị cáo chấp hành nghiêm chỉnh nội quy phiên tòa và thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ khi tham gia tố tụng.

+ Về nội dung: mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt các bị cáo là không nặng đề nghị không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, xét hỏi và tranh tụng công khai tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định về vụ án như sau:

[1] Về tội danh, khung hình phạt:

Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và thừa nhận của bị cáo Trần Văn H, Hoàng Văn H1 tại phiên tòa có đủ cơ sở xác định từ khoảng cuối tháng 11/2020, Phạm Văn T có hành vi gắn chip điện tử vào cân điện tử của Công ty TNHH Thanh C sau đó bàn bạc và đưa 01 thiết bị điều khiển từ xa (Remode) cho Nguyễn Minh D sử dụng để tác động làm thay đổi giá trị khối lượng cà phê hiển thị trên cân điện tử của Công ty Thanh C khi giao dịch mua hoặc bán cà phê. Sau đó, D rủ Lê Hồ Quốc H là người thường xuyên mua cà phê của Công ty Thanh C và H tiếp tục rủ Nguyễn Thị Hoa P là người thường xuyên bán cà phê cho Công ty Thanh C cùng tham gia. Tiếp đó, T phân công Nguyễn Minh D, Trần Văn H và Hoàng Văn H1 đi theo các xe hàng của H và P để bấm thiết bị điều khiển làm giảm khối lượng khi H mua cà phê của Công ty Thanh C và làm tăng khối lượng khi P bán cà phê cho Công ty Thanh C và đã chiếm đoạt của Công ty Thanh C 20.150 kg cà phê và 650.162.565 đồng, tổng giá trị tài sản các bị cáo đã chiếm đoạt của Công ty Thanh C là 1.303.140.565 đồng.

Đối với Trần Văn H thì từ ngày 16/01/2021 đến ngày 27/02/2021, H 12 lần trực tiếp bấm điều khiển làm tăng khối lượng hiển thị trên cân điện tử của Công ty Thanh C khi P bán cà phê cho Công ty Thanh C, giúp P và đồng phạm chiếm đoạt 20.194,8 kg cà phê nhân xô của Công ty Thanh C có giá trị 650.162.565 đồng.

Đối với Hoàng Văn H1 thì từ ngày 23/02/2021 đến ngày 06/3/2021, H1 05 lần bấm thiết bị điều khiển làm giảm khối lượng hiển thị trên cân điện tử của Công ty Thanh C khi Lê Hồ Quốc H mua cà phê của Công ty Thanh C, giúp đồng phạm chiếm đoạt 11.200 kg cà phê nhân xô của Công ty Thanh C có giá trị 365.800.000 đồng.

Do Trần Văn H, Hoàng Văn H1 có hành vi đồng phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản của Công ty Thanh C như trên nên Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai tuyên bố Trần Văn H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 của Bộ luật Hình sự (chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 500 triệu đồng trở lên) và tuyên bố Hoàng Văn H1 phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm a khoản 3 Điều 174 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng khung hình phạt.

[2] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Trần Văn H và Hoàng Văn H1 là đồng phạm với các bị cáo khác nhiều lần lừa đảo chiếm đoạt tài sản của Công ty Thanh C với mỗi lần chiếm đoạt số tiền trên 2.000.000 đồng nên Tòa án cấp sơ áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội có tổ chức” “Phạm tội từ 02 lần trở lên” quy định tại các điểm a, g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì quá trình điều tra và đến phiên tòa sơ thẩm Trần Văn H và Hoàng Văn H1 đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Trần Văn H đã bồi thường 15.000.000 đồng và Hoàng Văn H1 đã bồi thường 20.000.000đ cho người bị hại; H là người dân tộc thiểu số, tự nguyện ra đầu thú và có cha là người có công với cách mạng; H và H1 đều được Người bị hại xin Tòa xem xét giảm nhẹ hình phạt; vì các lý do trên, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự cho bị cáo H và bị cáo H1 là đủ các tình tiết giảm nhẹ các bị cáo được hưởng.

[3] Về quyết định hình phạt:

Khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự có khung hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân. Tòa án cấp sơ thẩm xét Trần Văn H là đồng phạm với vai trò thực hành và giúp sức; từ ngày 16/01/2021 đến ngày 27/02/2021 đã 12 lần trực tiếp bấm điều khiển làm tăng giá trị khối lượng hiển thị trên cân điện tử của Công ty Thanh C khi P bán cà phê cho Công ty Thanh C, giúp P và đồng phạm chiếm đoạt của Công ty Thanh C 20.194,8 kg cà phê nhân xô có giá trị 650.162.565 đồng, H phạm tội với 2 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhưng vì đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ H được hưởng nên xử phạt bị cáo 7 năm tù là dưới mức khởi điểm của khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự và bằng với mức thấp nhất của khung liền kề là đã có chiếu cố; tại phiên tòa phúc thẩm không có tình tiết giảm nhẹ nào mới để cấp phúc thẩm xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo H.

Khoản 3 Điều 174 Bộ luật hình sự có khung hình phạt tù từ 7 năm đến 15 năm tù, Tòa án cấp sơ thẩm xét Hoàng Văn H1 thực hiện hành vi với vai trò thực hành và giúp sức; từ ngày 23/02/2021 đến ngày 06/3/2021 đã trực tiếp 05 lần bấm thiết bị điều khiển làm giảm khối lượng hiển thị trên cân điện tử khi Lê Hồ Quốc H mua cà phê của Công ty Thanh C, giúp đồng phạm chiếm đoạt 11.200 kg cà phê nhân xô của Công ty Thanh C có giá trị 365.800.000 đồng; phạm tội với 2 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhưng vì đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ nên xử phạt H1 06 năm tù (dưới mức thấp nhất của khung hình phạt) là đã chiếu cố. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo H1 trình bày sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo H1 đã bồi thường thêm cho bị hại (ông Trần Thanh C) 30.000.000 đồng; nhưng chưa xuất trình được tài liệu hợp pháp để chứng minh, trong khi ông Trương Thanh C vắng mặt nên cấp phúc thẩm không có căn cứ để khấu trừ số tiền còn phải bồi thường cho bị hại; việc này nếu là thật, có căn cứ hợp pháp sẽ được xem xét trong quá trình thi hành án phần trách nhiệm dân sự cho bị cáo H1.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ thời điểm hết hạn kháng cáo, kháng nghị. Bị cáo H và bị cáo H1 kháng cáo không được chấp nhận phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Văn H và bị cáo Hoàng Văn H1, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 65/2022/HS-ST ngày 26/7/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai, cụ thể:

1. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Minh D, Lê Hồ Quốc H, Nguyễn Thị Hoa P, Trần Văn H và Hoàng Văn H1 phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”;

Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51, điểm a, g khoản 1 Điều 52, Điều 54, Điều 58, Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trần Văn H 7 (bảy) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 09/10/2021.

Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 174; điểm b, s khoản 1 Điều 51, điểm a, g khoản 1 Điều 52, Điều 54, Điều 58, Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Hoàng Văn H1 6 (sáu) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giam từ ngày 06/3/2021 đến ngày 02/10/2021.

Các quyết định khác tại Bản án hình sự sơ thẩm số 65/2022/HS-ST ngày 26/7/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

Trần Văn H và Hoàng Văn H1 mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

229
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 428/2022/HS-PT

Số hiệu:428/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về