Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 391/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 391/2023/HS-PT NGÀY 13/09/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 9 năm 2023, tại Điểm cầu trung tâm Trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng kết nối với Điểm cầu thành phần tại Trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Quảng Nam, xét xử phúc thẩm trực tuyến công khai vụ án hình sự thụ lý số 351/2023/TLPT-HS ngày 26 tháng 7 năm 2023 đối với bị cáo Trần Đình T về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Do có kháng cáo của bị cáo, bị hại đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 46/2023/HS-ST ngày 12 tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân dân Quảng Nam.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 3058/2023/QĐXXPT-HS ngày 22 tháng 8 năm 2023 đối với bị cáo có kháng cáo:

Trần Đình T; sinh năm 1983. Nơi cư trú: Số 35 đường T, phường T, thành phố H, tỉnh Quảng Nam; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không. Nghề nghiệp: lao động phổ thông; Con ông Trần Đình C (sinh năm 1958) và bà Nguyễn Thị Đ (sinh năm 1962). Bị cáo có vợ là Hoàng Uyên T1 (sinh năm 1991), có 01 con sinh năm 2015.

Tiền án, tiền sự: không. Nhân thân:

- Ngày 23/7/2008, bị TAND bà Luận N, thành phố Đà Nẵng xử phạt 48 tháng tù giam về tội “Tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy”, đã xóa án tích.

- Ngày 07/3/2022, bị TAND cấp cao tại Đà nẵng xử phạt 18 tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc” theo Bản án số 38/2022/HS-PT.

Bị cáo bị tam giam từ ngày 15/10/2020. Có mặt tại phiên toà.

- Bị hại: bà Vũ Hoàng Ngọc L, sinh năm 1988.

Địa chỉ: Tổ 14, thôn Đ, xã C1, thành phố H, tỉnh Quảng Nam, có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên bà đồng thời là người làm chứng:

+ Ông Hồng Quang T2, sinh năm 1989.

Địa chỉ: Tổ 4, thôn TN, xã C2, thành phố H, tỉnh Quảng Nam, vắng.

+ Ông Mai Huy V, sinh năm 1973.

Địa chỉ: Số 71/20 đường P, phường M, thành phố H, tỉnh Quảng Nam,

+ Ông Trương Đình H, sinh năm 1984.

Địa chỉ: Số 130 đường N, phường C4, thành phố H, tỉnh Quảng Nam, có mặt.

+ Ông Trần Đình Q1, sinh năm 1976.

Địa chỉ: Thôn H1, xã Q2, huyện Q3, tỉnh Quảng Nam, có đơn xin xét xử vắng mặt.

+ Ông Phan Thanh V, sinh năm 1991. Địa chỉ: Thôn M1, xã Q2, huyện Q3, tỉnh Quảng Nam, có đơn xin xét xử vắng mặt.

+ Ông Võ Cường L2, sinh năm 1995. Địa chỉ: Thôn H1, xã Q2, huyện Q3, tỉnh Quảng Nam, có đơn xin xét xử vắng mặt.

+ Ông Nguyễn Thanh Th, sinh năm 1979. Địa chỉ: Thôn H1, xã Q2, huyện Q3, tỉnh Quảng Nam, có đơn xin xét xử vắng mặt.

+ Ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1986. Địa chỉ: Thôn H1, xã Quế Phủ, huyện Q3, tỉnh Quảng Nam, có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Đình T là bị can trong vụ án “Tổ chức đánh bạc và đánh bạc” xảy ra tại thành phố H, tỉnh Quảng Nam vào năm 2019 do Cơ bà L1 CSĐT Công an tỉnh Quảng Nam thụ lý điều tra. Ngày 25/3/2020, trong bà Luá trình điều tra vụ án, Trần Đình T được thay thế biện pháp tạm giam bằng biện pháp bảo lĩnh. Trong vụ án này có nhiều bị can khác, trong đó có bị can Hồng Quang T2 bị Cơ bà L1 CSĐT Công an tỉnh Quảng Nam khởi tố bị can, bắt tạm giam vào ngày 13/4/2020.

Sau khi Hồng Quang T2 bị bắt, vợ của T2 là chị Vũ Hoàng Ngọc L liên hệ với Trần Đình T để nhờ T tìm cách lo cho T2 được tại ngoại (thay thế biện pháp ngăn chặn tạm giam bằng biện pháp bảo lĩnh). Do chị L nhờ nhiều lần và chị L có mối bà L1 hệ thông gia với Trần Đình T nên T nói với chị L là để T hỏi Thầy xem có giúp được không (người T gọi là Thầy là Trần Đình Q1 giám đốc Công ty TNHH một thành viên Q) (sau đây gọi tắt là Công ty Q). Vài ngày sau T thông báo cho L chuẩn bị 500.000.000 đồng (T khai lý do T nhờ Q1 giúp L vì T biết khi T bị tạm giam về hành vi tổ chức đánh bạc, thì Trương Đình H là em rể của T đã nhờ Trần Đình Q1 giúp về hồ sơ, thủ tục cho T được tại ngoại. Nên trong một lần trên xe ô tô của Q1, khi đó trên xe có Trần Đình Q1, Trương Đình H, Mai Huy V thì T có trao đổi với Q1 về việc chị L nhờ Q1 giúp cho T2 được tại ngoại, sau đó nhiều lần T có trao đổi bà L2 điện thoại thì Q1 đã đồng ý giúp cho chị L. Số tiền 500.000.000 đồng là mức tiền mà Trần Đình Q1 yêu cầu đưa cho Q1 để Q1 lo cho T2 tại ngoại và Q1 yêu cầu T gửi các thông tin cá nhân của Hồng Quang T2, Vũ Hoàng Ngọc L và bản chụp giấy xác nhận kết bà L2 thi hành án về việc Hồng Quang T2 đã thi hành xong khoản tiền phạt 60.000.000 đồng mà T2 có nghĩa vụ phải thi hành án của Tòa án nhân dân thành phố H bà L2 Zalo của Q1 là (Thầy Q1 boss).

Ngày 05/6/2020, T gọi điện thoại yêu cầu chị L mang số tiền 500.000.000 đồng đến Chi nhánh Văn phòng Công ty Q tại địa chỉ số 130 Nguyễn Duy Hiệu, thành phố H, tỉnh Quảng Nam để đưa cho T. Khoảng 15 giờ chiều ngày 05/06/2020, chị L đem tiền đến địa chỉ trên, lúc này tại Chi nhánh Văn phòng Công ty Q (Văn phòng rộng khoảng 3m x 4m), có Trần Đình T, Mai Huy V và Trương Đình H, chị L đã đưa số tiền 500.000.000 đồng cho Trần Đình T, số tiền này chị L bỏ trong bao nilong màu xanh đặt trên bàn của Công ty, đồng thời chị L nói với T “nhờ anh lo giúp cho chồng em”, T dùng tay đẩy gói tiền này sang phía Mai Huy V để V đếm bằng máy đếm tiền của Công ty (khi đó V ngồi cùng bàn với chị L và T). Sau khi V đếm và xác nhận số tiền chị L đưa đủ 500.000.000 đồng thì T bảo chị L về nhà đợi tin của T (Trần Đình T và Trương Đình H đều khai ngay sau khi V đếm đủ 500.000.000 đồng, T đã nói với V là đưa cho anh Q1; nhưng Mai Huy V không thừa nhận, V khai lúc đó T không nói đưa tiền cho Q1 mà chỉ nhờ V cất giữ giúp).

Sau một thời gian không thấy Hồng Quang T2 được tại ngoại nên chị L đã nhiều lần gọi điện thoại cho T hỏi thăm và hối thúc. T nói là “chờ một thời gian, đang dàn xếp phải làm theo trình tự" và hồ sơ đã được thông bà L2 nhưng “Sếp" đi họp chưa ký được. (T khai những nội dung T trả lời cho chị L đều do Q1 thông tin lại cho T bà L2 điện thoại, sau mỗi khi chị L gọi điện cho T hỏi về việc của T2).

Ngày 07/7/2020, theo bà L2 định của pháp luật, Hồng Quang T2 được Cơ bà L1 CSĐT Công an tỉnh Quảng Nam và VKSND tỉnh Quảng Nam bà Luyết định thay thế biện biện pháp tạm giam bằng biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh. Đến ngày 22/9/2020, chị L có đơn tố cáo hành vi của Trần Đình T gửi đến Cơ bà L1 CSĐT Công an tỉnh Quảng Nam.(Tuy nhiên tại phiên tòa chị L khai: Khi Cơ bà L1 điều tra triệu tập chị L làm việc đã cho chị L nghe đoạn ghi âm giữa T và V về việc V còn giữ 300.000.000 đồng của chị L và nói chị L đã có hành vi đưa hối lộ nên yêu cầu chị L làm đơn tố cáo T lừa đảo. Nay bà L2 diễn biến các phiên tòa, chị L thấy T không có hành vi lừa đảo chị L, nên chị L xin rút đơn tố cáo).

Ngày 22/9/2020, khi Cơ bà L1 CSĐT Công an tỉnh Quảng Nam ghi lời khai ban đầu của T, T đã thừa nhận đã nhận của chị L 500.000.000 đồng và số tiền này T đã đưa cho Mai Huy V giữ giúp, khoảng một tháng sau, T đã yêu cầu Mai Huy V đưa cho T số tiền 200.000.000 đồng để T đưa cho Trần Đình Q1. T đã nhận từ Mai Huy V 200.000.000 đồng, còn lại 300.000.000 đồng, V cất giữ. Tuy nhiên, sau đó tại Cơ bà L1 điều tra, T thay đổi lời khai: T không hề lấy 200.000.000 đồng từ Mai Huy V, lý do T đã khai nhận đã lấy 200.000.000 đồng từ V để đưa cho Q1 là T muốn giúp cho V không liên bà L1 đến việc này. Số tiền 300.000.000 đồng đã được Cơ bà L1 điều tra thu giữ tại nhà V trong ngày 22/9/2020.

Quá trình điều tra, Cơ bà L1 CSĐT Công an tỉnh Quảng Nam đã tạm giữ của Trần Đình T: 01 điện thoại di động hiệu Iphone X, màu trắng, số IMEI: 354875090215671, gắn sim số 0X52257 và tiến hành trích xuất dữ liệu điện tử từ điện thoại di động của Trần Đình T, bà Luá trình trích xuất phát hiện trong mục tin nhắn Zalo của T có nội dung T nhắn tin yêu cầu chị L gửi thông tin cá nhân của Hồng Quang T2 và của chị L bà L2 Zalo cho T; đồng thời cũng phát hiện nội dung tin nhắn Zalo của T đã gửi bản chụp giấy xác nhận kết bà L2 thi hành án về việc Hồng Quang T2 đã thi hành xong khoản tiền phạt 60.000.000 đồng mà T2 phải có nghĩa vụ thi hành theo Bản án số 10/2017/HSST ngày 15/5/2017 của Tòa án nhân dân thành phố H và các thông tin cá nhân của Hồng Quang T2 và chị L bà L2 số điện thoại 096X811 được T lưu trong danh bạ với tên “Thầy Q1 (boss)”.

- Tại cơ bà L1 điều tra, Trần Đình Q1 không thừa nhận những nội dung mà Trần Đình T đã khai. Trần Đình Q1 khai Q1 không biết gì về thủ tục hồ sơ nên không giúp gì cho T được “bảo lĩnh", đồng thời Q1 cũng không biết người nào tên Vũ Hoàng Ngọc L và Hồng Quang T2. Q1 không được T nhờ nội dung gì liên bà L1 đến việc giúp cho T2 được tại ngoại và không hề yêu cầu T nói chị L phải đưa 500.000.000 đồng cho Q1. Q1 cũng không có nhận của T số tiền 200.000.000 đồng để giúp cho T2 tại ngoại như lời khai của T. Chiếc điện thoại iphone có số sim 096X811 của Q1 đã bị mất và Q1 đã làm lại sim mới. Tuy nhiên tại phiên tòa sơ thẩm Trần Đình Q1 thay đổi lời khai; Q1 khai Q1 có hướng dẫn cho gia đình T làm đơn để xin cho T tại ngoại và chiếc điện thoại iphone có số sim 096X811 của Q1 không bị mất tại thời điểm cơ bà L1 điều tra triệu tập Q1 mà chỉ bị hỏng nên Q1 đã thay sim 096X811 bà L2 điện thoại mới để sử dụng, hiện Q1 không còn dùng chiếc điện thoại này. Đối với Zalo có số điện thoại 096X811 đã nhận tin nhắn mà T gửi thông tin về Hồng Quang T2; Vũ Hoàng Ngọc L và bản chụp giấy xác nhận kết bà L2 thi hành án về việc Hồng Quang T2 đã thi hành xong khoản tiền phạt 60.000.000 đồng thi hành theo Bản án số 10/2017/HSST ngày 15/5/2017 của Tòa án nhân dân thành phố H. Quá trình điều tra xác định đây là số điện thoại và số Zalo của Trần Đình Q1. Nhưng Q1 khai số này Q1 thường để tại Văn phòng Công ty Q (có địa chỉ tại H1, xã Q2, huyện Q3, tỉnh Quảng Nam) cho nhân viên sử dụng khi có nhu cầu, Q1 không thường xuyên sử dụng số này. Thế nhưng không có nhân viên nào của Công ty Q xác nhận đã sử dụng số điện thoại trên để nhắn tin hay gọi điện có nội dung liên bà L1 đến việc yêu cầu T gửi thông tin cá nhân của vợ chồng T2, L.

- Tại Cơ bà L1 CSĐT Công an tỉnh Quảng Nam, Mai Huy V khai: Vào đầu tháng 6/2020, khi V đang có mặt tại Chi nhánh Văn phòng Công ty Q (địa chỉ: Số 130 đường N, phường C4, thành phố H), thì thấy chị Vũ Hoàng Ngọc L đến gặp và đưa cho Trần Đình T số tiền 500.000.000 đồng, sau đó T nhờ V đếm và cất giữ số tiền này. Tại thời điểm này, V không biết mục đích chị L đưa cho T số tiền trên để làm gì. Khoảng một tháng sau, T điện thoại cho anh V yêu cầu anh V đưa cho T 200.000.000 đồng để T đưa cho anh Trần Đình Q1, V đã đưa cho T số tiền 200.000.000 đồng, số tiền 300.000.000 đồng còn lại V cất giữ. Việc T có đưa cho Q1 số tiền 200.000.000 đồng hay không thì V không biết. Tại phiên tòa ngày 11/5/2023, V khai khi chị L đưa tiền cho T tại Chi nhánh Văn phòng Công ty Q, thì chị L, V và T ngồi cùng một bàn. Chị L nói gì với T thì V không nghe, nhưng khi T dùng tay đẩy gói tiền này sang phía V để V đếm bằng máy đếm tiền của Công ty, thì V đếm và xác nhận số tiền chị L đưa đủ 500.000.000 đồng. Lúc đó T không nói đưa tiền cho Q1 mà chỉ nhờ V cất giữ giúp và kể từ khi T lấy 200.000.000 đồng từ V, thì T không hỏi gì V về số tiền 300.000.000 đồng mà V đang cất giữ đến khi Cơ bà L1 CSĐT Công an tỉnh Quảng Nam thu giữ tại nhà V.

- Tại Cơ bà L1 CSĐT Công an tỉnh Quảng Nam, Trương Đình H khai: khi Trần Đình T bị tạm giam về hành vi tổ chức đánh bạc, thì H đã nhờ Trần Đình Q1 giúp về hồ sơ, thủ tục cho T được tại ngoại. Khi T được tại ngoại thì H có nói lại việc này cho T biết. H không trực tiếp chứng kiến việc chị L nhờ T lo giúp cho Hồng Quang T2 được tại ngoại, nhưng Trương Đình H có nghe T và chị L trao đổi bà L2 điện thoại nên biết chị L có nhờ T hỏi giúp cho chồng chị L tại ngoại. Có lần khi H và T đi cùng xe ô tô với Trần Đình Q1 và Mai Huy V, H có nghe T hỏi Q1 về việc giúp T2 được tại ngoại. Và khi L mang tiền đến Văn phòng Công ty Q, thì H biết đó là tiền để “lo” cho T2. Khi V đếm đủ 500.000.000 đồng, T đã nói với V là đưa cho anh Q1. Tại các phiên tòa, Trương Đình H đều khai: Việc T nhờ Trần Đình Q1 giúp cho Hồng Quang T2 tại ngoại thì V và H đều biết, nên khi L mang tiền đến Văn phòng Công ty Q giao cho T, thì H và V biết đó là tiền để lo cho T2. Khi V đếm đủ 500.000.000 đồng, T đã nói với V là đưa cho anh Q1.

Về vật chứng vụ án: Đối với số tiền 300.000.000 đồng Cơ bà L1 CSĐT Công an tỉnh Quảng Nam đã tạm giữ từ anh Mai Huy V, bà Luá trình điều tra xác định đây là số tiền còn lại trong tổng số 500.000.000 đồng chị L đưa cho T, T đã đưa cho V cất giữ, nên cần trả lại số tiền trên cho chị L. Đối với 01 điện thoại di động hiệu Iphone X, màu trắng, số IMEI: 354875090215671, gắn sim số 0X52257 tạm giữ của Trần Đình T, bà Luá trình điều tra xác định T sử dụng điện thoại di động này để phục vụ việc phạm tội nên cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 46/2023/HS-ST ngày 12 tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân dân Quảng Nam đã bà Luyết định:

Về trách nhiệm hình sự:

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Đình T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

- Về hình phạt: Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt: Bị cáo Trần Đình T 08 (tám) năm tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tam giam ngày 15/10/2020.

- Tổng hợp hình phạt: Áp dụng Điều 56 BLHS 2015, tổng hợp hình phạt 08 năm tù của bản án này với hình phạt 18 tháng tù của bản án số 38/2022/HS-PT ngày 07/3/2022 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng. Buộc bị cáo Trần Đình T phải chấp hành 09 ( chín) năm 06 ( sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị bắt tam giam ngày 15/10/2020.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự, phần xử lý vật chứng, án phí và bà Luyền kháng cáo theo bà L2 định pháp luật.

Ngày 23 tháng 6 năm 2023, bị cáo Trần Đình T kháng cáo cho rằng bị cáo không có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, kêu oan, cho rằng Toà án cấp sơ thẩm xử không đúng người, đúng tội (BL 500).

Ngày 22 tháng 6 năm 2023, bị hại Vũ Hoàng Ngọc L kháng cáo cho rằng bản án sơ thẩm xử như vậy là oan sai, không đúng tội danh, không phù hợp với tình tiết khách bà L1 của vụ án, Trần Đình T không có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 355; điểm a khoản 1 Điều 358 Bộ luật tố tụng hình sự: Huỷ Bản án sơ thẩm số 46/2023/HS-ST ngày 12 tháng 6 năm 2023 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Nam, giao hồ sơ về cấp sơ thẩm để điều tra lại theo đúng bà L2 định của pháp luật

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa và xem xét bà L1 điểm của Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định như sau:

[1]. Tại phiên toà phúc thẩm hôm nay, bị cáo Trần Đình T và bị hại Vũ Hoàng Ngọc L giữ nguyên nội dung kháng cáo kêu oan, cho rằng bị cáo không có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

[2]. Bị cáo T không thừa nhận có hành vi lừa đảo chiếm đoạt của chị L 500.000.000 đồng. Bị cáo T khai số tiền 500.000.000 đồng mà bị cáo T nhận của chị L vào ngày 05/6/2020 tại Chi nhánh Văn phòng công ty Q là số tiền do Trần Đình Q1 yêu cầu chị L đưa cho Q1 để Q1 lo cho chồng chị L là Hồng Quang T2 được tại ngoại. T chỉ là người nhận giúp cho Q1 số tiền này vì Q1 không muốn gặp và nhận tiền trực tiếp với chị L. Nên trước, trong và sau ngày T nhận tiền của L, T đã nhiều lần liên lạc với Trần Đình Q1 để hỏi về việc tại ngoại cho Hồng Quang T2 bà L2 điện thoại và zalo số 0X52257 của bị cáo Trần Đình T và điện thoại và zalo số 096X811 của Trần Đình Q1, T đã liên lạc nhiều lần với chị L để trao đổi thông tin và các yêu cầu với chị L. Sự việc bị cáo T nhờ Trần Đình Q1 lo cho chồng chị L là Hồng Quang T2 được tại ngoại thì có V và H đều biết. Nên việc giao nhận tiền giữa chị L và bị cáo T diễn ra công khai tại Chi nhánh Văn phòng công ty Q có sự chứng kiến của V và H, V là người đếm tiền bằng máy đếm tiền của công ty và cất số tiền trên. V đã sử dụng số tiền đó như thế nào thì T không biết. Việc T thừa nhận đã lấy 200.000.000 đồng trong tổng số 500.000.000 đồng để đưa cho Q1 là không đúng sự thật, việc T khai như vậy là vì khi Cơ bà L1 điều tra gọi T và V lên làm việc, lúc đó V đã khai đưa cho T 200.000.000 đồng để T đưa cho Q1, lúc này T nghĩ sự việc đơn giản nên T đã khai nhận lấy số tiền này để V khỏi bị liên can. Số tiền 500.000.000 đồng của chị L được Mai Huy V bà Luản lý từ ngày 05/6/2020 đến ngày 22/9/2020 và sử dụng như thế nào thì T không biết. Trong thời gian này Trần Đình T không hề hỏi gì đến số tiền này.

[3]. Căn cứ các tài liệu thu thập được bà L2 điều tra bổ sung của Cơ bà L1 điều tra công an tỉnh Quảng Nam (BL 388 đến 409) thì thấy trong thời gian từ 02/06/2020 đến ngày 10/7/2020 giữa zalo của Trần Đình T và Zalo có tên Thầy Q1 (Boss) có rất nhiều cuộc gọi Zalo và nhiều tin nhắn Zalo, trong đó có nội dung tin nhắn do Trần Đình T gửi cho Trần Đình Q1 trong ngày 02/6/2020 là ảnh chụp đơn xin nhận lại tài sản của Trần Đình T giữa Công an và VKSND tỉnh Quảng Nam lúc 09 giờ và ảnh chụp giấy xác nhận kết bà L2 thi hành án về việc T2 đã thi hành xong khoản tiền phạt 60.000.000 đồng mà T2 có nghĩa vụ phải thi hành theo Bản án số 10/2017/HSST ngày 15/5/2017 của Tòa án nhân dân thành phố H lúc 17 giờ ngày 02/6/2020 và các thông tin cá nhân của Hồng Quang T2 và Vũ Hoàng Ngọc L được T gửi bà L2 zalo Thầy Q1 (boss) vào lúc 09 giờ ngày 09/6/2020; số tài khoản ngân hàng S 0400449X23 của Trần Đình Q1 được Zalo của Q1 (Thầy Q1 (boss)) gửi bà L2 zalo của T lúc 08 giờ 30 phút ngày 09/6/2020. Sau khi nhận thông tin cá nhân của Hồng Quang T2 và Vũ Hoàng Ngọc L, thì Zalo thầy Qúy (Boss) nhắn lại “OK”; lúc 05 giờ 18 phút ngày 02/6/2020, Zalo thầy Q1 (Boss) có điện nhỡ bà L2 Zalo của Trần Đình T, ngay sau đó Trần Đình T nhắn tin lại "Dậy sớm rứa thầy", thì zalo Thầy Quí (Boss) trả lời "đi gặp khách". Tại phiên tòa sơ thẩm ngày 12/6/2023, mặc dù Trần Đình Q1 không thừa nhận chính Q1 là người đã yêu cầu T chuyển thông tin cá nhân của Hồng Quang T2 và Vũ Hoàng Ngọc L bà L2 zalo của Q1 có số 096X811, vì Q1 cho rằng điện thoại iphone có số sim này Q1 để tại Văn phòng công ty Q tại xã Q2, huyện Q3, tỉnh Quảng Nam để cho nhân viên sử dụng, còn ai đã nhắn tin cho T những nội dung nêu trên thì Q1 không biết. Tuy nhiên, không người nào trong công ty Q của Q1 thừa nhận là người gửi và nhận những tin trên. Tại phiên tòa ngày 12/6/2023, T và Q1 đều khai việc Q1 chuyển thông tin tài khoản ngân hàng S 0400449X23 của Trần Đình Q1 cho T là để T báo lại cho V chuyển tiền cho Q1 khi Q1 cần tiền (BL-482 đến 488).

Do đó, Hội đồng xét xử thấy rằng Trần Đình Q1 là người đã dùng zalo có tên thầy Q1 (Boss) từ ngày 02/6/2020 đến ngày 10/7/2020. Trần Đình Q1 là người gửi thông tin tài khoản ngân hàng S 0400449X23 của Trần Đình Q1 cho T và là người đã gửi yêu cầu và nhận thông tin cá nhân của Hồng Quang T2 và Vũ Hoàng Ngọc L và bản chụp giấy xác nhận kết bà L2 thi hành án về việc Hồng Quang T2 đã thi hành xong khoản tiền phạt 60.000.000 đồng thi hành theo Bản án số 10/2017/HSST ngày 15/5/2017 của Tòa án nhân dân thành phố H bà L2 zalo của Q1 có số 096X811 từ zalo số 0X52257 của Trần Đình T. Đối với Mai Huy V, căn cứ lời khai của bị cáo Trần Đình T và Trương Đình H và cách thức đếm, nhận và cất giữ tiền của Mai Huy V, thấy rằng, Mai Huy V biết việc T đang nhờ Trần Đình Q1 giúp cho Hồng Quang T2 tại ngoại, nên khi L mang tiền đến Văn phòng Công ty Q giao cho T, thì V biết đó là tiền để “lo” cho T2 nhưng V vẫn đếm và bà Luản lý số tiền này.

Ngoài ra, bà L2 lời khai của Trần Đình Q1 tại phiên tòa ngày 12/6/2023 và lời khai của Mai Huy V, Trương Đình H và Trần Đình T tại các phiên tòa thì V, H và T không phải là nhân viên Công ty Q như kết luận của Cơ bà L1 điều tra. Những người này chỉ góp vốn cùng làm ăn chung với Trần Đình Q1 tùy theo từng hợp đồng mà Q1 nhận được. Trong đó giữa Trần Đình Q1 và Mai Huy V có mối bà L1 hệ rất khăng khít với nhau, bởi toàn bộ hoạt động kinh doanh, thu chi của công ty Q thì Q1 đều giao cho Mai Huy V bà Luản lý, điều hành và V chỉ thông tin lại cho Q1 biết về kết bà L2 kinh doanh của công ty trong từng hợp đồng cụ thể. Mỗi khi Q1 cần tiền thì V là người chuyển tiền vào tài khoản ngân hàng S 0400449X23 cho Trần Đình Q1.

[4]. Với các căn cứ nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy Mai Huy V và Trần Đình Q1 có liên bà L1 đến vụ án. Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm đã trả hồ sơ cho VKSND tỉnh Quảng Nam để điều tra làm rõ vai trò của Mai Huy V và Trần Đình Q1 trong vụ án để xem xét trách nhiệm hình sự đối với Mai Huy V và Trần Đình Q1 với vai trò đồng phạm với hành vi phạm tội của Trần Đình T. Tuy nhiên, Cơ bà L1 điều tra và cơ bà L1 truy tố tỉnh Quảng Nam kết luận không đủ chứng cứ chứng minh và không truy cứu trách nhiệm hình sự của Mai Huy V và Trần Đình Q1 là có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm.

[5]. Tại phiên tòa sơ thẩm ngày 12/6/2023 khi thẩm vấn Trần Đình T phát sinh những tình tiết cần điều tra làm rõ: Mai Huy V đã chuyển bao nhiêu lần tiền, số tiền mỗi lần chuyển tiền, nội dung chuyển tiền vào tài khoản ngân hàng S 0400449X23 của Trần Đình Q1 từ ngày 05/6/2020 đến ngày 22/9/2020; làm rõ nguyên nhân Trần Đình Q1 thay đổi lời khai tại phiên tòa về việc chiếc điện thoại iphone có số sim 096X811 của Q1 đã sử dụng từ ngày 01/5/2020 đến ngày 10/7/2020 không bị mất mà chỉ bị hỏng nên không có việc Q1 đăng ký lại sim 096X811 lần 2; chiếc điện thoại Q1 hiện đang ở đâu. Đây là những tình tiết cần làm rõ khi thẩm vấn Trần Đình Q1 phát sinh mới tại phiên tòa ngày 12/6/2023. Tuy nhiên, vụ án đã trả hồ sơ điều tra bổ sung một lần nên Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm kiến nghị cấp phúc thẩm xem xét trách nhiệm hình sự của Mai Huy V và Trần Đình Q1 với vai trò đồng phạm hành vi phạm tội của Trần Đình T là có căn cứ. Như vậy, các nội dung mới phát sinh tại phiên toà ngày 12/6/2023 chưa được điều tra làm rõ.

[6]. Tại phiên toà phúc thẩm, bị hại có kháng cáo Vũ Hoàng Ngọc L cho rằng, cấp sơ thẩm chưa xem xét vai trò của Trần Đình Q1 và Mai Huy V trong vụ án này là không đúng. Vì V là người trực tiếp nhận tiền, đếm tiền và cất giữ tiền khi bị hại mang tiền đến, còn Trần Đình Q1 thì nhận thông tin của vợ chồng bị hại bà L2 zalo do Trần Đình T gửi cho Trần Đình Q1.

[7]. Từ những phân tích và lập luận trên, thấy rằng, trong vụ án này, Mai Huy V và Trần Đình Q1 có dấu hiệu đồng phạm với bị cáo Trần Đình T trong hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhưng cơ bà L1 tố tụng cấp sơ thẩm chưa xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Mai Huy V và Trần Đình Q1 là có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm. Mặt khác, tại phiên tòa phát sinh một số tình tiết cần thiết phải điều tra bổ sung chứng cứ bà L1 trọng cho việc giải bà Luyết vụ án nhưng những nội dung này Toà án cấp phúc thẩm không thể bổ sung ngay tại phiên toà được. Do đó, kiến nghị của Toà án cấp sơ thẩm về xem xét trách nhiệm của Mai Huy V và Trần Đình Q1 là có căn cứ, được chấp nhận. Và để giải bà Luyết vụ án triệt để, có căn cứ, đúng pháp luật, Hội đồng xét xử phúc thẩm huỷ Bản án sơ thẩm, giao hồ sơ về cấp sơ thẩm điều tra, giải bà Luyết lại theo đúng bà L2 định của pháp luật.

[8]. Do vụ án bị huỷ nên nội dung kháng cáo của bị cáo Trần Đình T và kháng cáo của bị hại Vũ Hoàng Ngọc L sẽ được xem xét khi giải bà Luyết lại vụ án.

Về án phí hình sự phúc thẩm: Do vụ án bị huỷ nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm, theo bà L2 định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội bà L2 định về án phí, lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 355 ; các điểm a, b khoản 1, khoản 5 Điều 358 Bộ luật tố tụng hình sự:

1. Huỷ Bản án hình sự sơ thẩm số 46/2023/HS-ST ngày 12/6/2023 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Nam.

2. Chuyển hồ sơ vụ án về cho Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam để điều tra lại theo đúng bà L2 định của pháp luật.

Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Trần Đình T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

269
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 391/2023/HS-PT

Số hiệu:391/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:13/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về