Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 385/2023/HS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 385/2023/HS-PT NGÀY 23/05/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 5 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 337/2023/TLPT-HS ngày 31 tháng 3 năm 2023 đối với bị cáo Nguyễn Quang T bị xét xử sơ thẩm về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 24/2023/HS-ST ngày 17 tháng 02 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa.

* Bị cáo có kháng cáo:

Nguyễn Quang T (tên gọi khác: Không); sinh năm 1999; giới tính: Nam; nơi ĐKNKTT: Số nhà 10/387 Lý Nhân T, phường Đông T, thành phố Thanh H, tỉnh Thanh Hóa; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 11/12; con ông Nguyễn Văn T1 và bà Hoàng Thị T2; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân:

- Ngày 14/9/2017, Tòa án nhân dân thành phố Thanh H xử phạt 09 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” (đã nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm ngày 05/01/2018).

- Ngày 01/9/2013, Công an phường Điện B, thành phố Thanh H xử phạt vi phạm hành chính, hình thức cảnh cáo về hành vi “Trộm cắp tài sản”.

- Ngày 07/1/2017, Công an phường Đông S, thành phố Thanh H xử phạt vi phạm hành chính, hình thức phạt tiền về hành vi “Trộm cắp tài sản”.

Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 15/8/2022, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thanh Hóa.

* Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Đoàn Bá N, Công ty TNHH Luật Ninh Hoàng G - Đoàn Luật sư tỉnh Thanh Hóa; có mặt.

Người bị hại và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo nên không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do không có tiền chi tiêu cá nhân nên Nguyễn Quang T nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản thông qua việc thuê xe ôtô tự lái đem đi cầm cố lấy tiền. Ngày 26/02/2022 (trước khi thuê xe), T gọi điện cho ông Hoàng Ngọc D - sinh năm 1963, trú tại 01/02 Nguyễn Hữu C, phường Quảng T, thành phố Thanh H hỏi xem có nhu cầu mua xe ôtô cũ không, ông D nói không mua mà giới thiệu và cho T số điện thoại của anh Bùi Anh V - sinh năm 1993, trú tại 1580 Quang T, phường Quảng T, thành phố Thanh H để liên lạc. Sau đó, T gọi điện cho anh Bùi Anh V thỏa thuận về việc mua bán xe ôtô cũ. Sau khi tìm được người mua xe, ngày 27/02/2022, T đến cửa hàng thuê xe ôtô tự lái “Chính Cương” của anh Hoàng Lê Minh C ở 308 Trường T, phường Trường T, thành phố Thanh H, tại đây T gặp ông Hoàng Minh C1 (bố đẻ anh C) và nói với ông C1 cần thuê 01 xe ô tô để phục vụ đi lại, giải quyết công việc cá nhân. Do tin tưởng nên ông C1 đã đồng ý cho T thuê chiếc xe ôtô nhãn hiệu Toyota Vios BKS 36A-575.X, thời hạn thuê đến ngày 04/3/2022, với giá 800.000đ/01 ngày (do không có tài sản thế chấp, nên T đặt trước cho ông C1 số tiền 5.000.000đ, đồng thời để lại giấy phép lái xe hạng A1 mang tên Nguyễn Quang T). Sau khi nhận được xe ôtô (cùng ngày 27/02/2022), theo thỏa thuận từ trước, T mang đến bán cho anh Bùi Anh V với giá là 300.000.000đ, T nhận trước 100.000.000đ, số tiền còn lại hai bên thống nhất khi nào làm xong thủ tục thì sẽ thanh toán, đồng thời viết giấy bán xe cho anh Bùi Anh V.

Đến thời hạn trả xe, anh Hoàng Lê Minh C gọi điện yêu cầu T trả xe, T xin gia hạn thuê xe đến ngày 26/3/2022 và chuyển khoản cho ông Hoàng Minh C1 tiền thuê xe là 5.000.000đ. Đến hạn không thấy T trả xe, cũng không liên lạc được nên anh C làm đơn tố cáo đến Công an thành phố Thanh H, tỉnh Thanh Hóa.

Ngày 01/4/2022, anh Bùi Anh V tự nguyện giao nộp xe ôtô BKS 36A- 575.21 và 01 Giấy bán xe đề ngày 27/02/2022 cho Cơ quan điều tra Công an thành phố Thanh H.

Kết luận định giá tài sản số 78/KL-HĐĐGTS ngày 21/6/2022 của Hội đồng định giá tài sản UBND thành phố Thanh H xác định xe ôtô BKS 36A-575.X có trị giá 516.000.000 đồng.

Kết luận giám định số 3711/KL-KTHS ngày 31/10/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa xác định: Chữ ký dạng chữ viết “T”, chữ viết họ tên “Nguyễn Quang T” trong Hợp đồng thuê xe không đề ngày dưới mục “Đại diện bên B (Bên thuê xe)” và trong Giấy bán xe đề ngày 27/02/2022, dưới mục “Người bán xe” là do Nguyễn Quang T ký và viết ra.

Đối với Bùi Anh V: Khi bán xe ô tô BKS 36A-575.X, Nguyễn Quang T nói với anh V là xe của gia đình T mới mua đang làm thủ tục sang tên, anh V không biết là xe ôtô T thuê của người khác. Do đó, Cơ quan điều tra không xử lý hình sự đối với Bùi Anh V là đúng pháp luật.

* Về bồi thường dân sự:

Anh Hoàng Lê Minh C yêu cầu Nguyễn Quang T thanh toán tiền thuê xe là 9.000.000đ. Ngày 15/11/2022, bà Hoàng Thị T2 (mẹ đẻ của Nguyễn Quang T) đã trả số tiền 9.000.000đ cho anh Hoàng Lê Minh C, anh C không có yêu cầu thêm về dân sự và có đơn đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt cho Nguyễn Quang T. Anh Bùi Anh V yêu cầu Nguyễn Quang T phải hoàn trả lại số tiền 100.000.000đ.

* Việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật; xử lý vật chứng:

Cơ quan điều tra thu giữ đồ vật, tài liệu gồm: 01 xe ô tô nhãn hiệu Toyota Vios, BKS 36A-575.X; 01 Giấy bán xe ô tô đề ngày 27/02/2022 (do anh Bùi Anh V giao nộp); 01 Hợp đồng thuê xe (do anh Hoàng Lê Minh C giao nộp) và 01 Giấy phép lái xe hạng A1 mang tên Nguyễn Quang T (do ông Hoàng Minh C1 giao nộp).

Ngày 03/8/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thanh H ra Quyết định xử lý đồ vật trả lại chiếc xe ôtô BKS 36A-575.X cho chủ sở hữu là anh Hoàng Lê Minh C.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Quang T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với các tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 24/2023/HSST ngày 17 tháng 02 năm 2023, Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã quyết định:

Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 46; Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 584, 589 Bộ luật Dân sự; Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí lệ phí Tòa án xử phạt: Bị cáo Nguyễn Quang T 12 (Mười hai) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 15/8/2022.

Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo phải hoàn trả cho anh Bùi Anh V số tiền 100.000.000đ (Một trăm triệu đồng).

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về phần xử lý vật chứng, án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 23/02/2023, bị cáo Nguyễn Quang T có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và đề nghị xem xét lại kết luận định giá xe ô tô.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Quang T giữ nguyên nội dung kháng cáo, thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và trình bày việc định giá chiếc xe ô tô là cao so với giá trị thực tế. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét lại việc định giá tài sản và giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Quang T thống nhất về tội danh, cho rằng Hội đồng định giá sử dụng kết quả thẩm định giá của Công ty AMC mà không tham khảo kết quả định giá của công ty thẩm định giá khác nên kết luận định giá có tính áp đặt, hợp thức hóa. Bị cáo tuổi đời còn trẻ và thực tế số tiền chiếm đoạt là 100 triệu đồng. Từ đó, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét quy trình định giá trong tố tụng hình sự của Hội đồng định giá tài sản theo đúng quy định của pháp luật và đánh giá toàn diện vụ án, cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để bị cáo sớm được trở về với gia đình và xã hội.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội sau khi phân tích nội dung vụ án, kết quả tranh tụng tại phiên tòa cũng như việc bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội đã kết luận: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Nguyễn Quang T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là có căn cứ. Xét kháng cáo của bị cáo đề nghị xem xét lại kết quả định giá tài sản thấy: Cơ quan điều tra Công an tỉnh Thanh Hóa đã thông báo kết luận định giá cho bị cáo T, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về kết luận định giá. Đồng thời, hồ sơ thể hiện chiếc xe ô tô được sản xuất năm 2020, bị cáo chiếm đoạt chiếc xe ô tô này năm 2022 nên việc Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự định giá xe ô tô có giá trị 516 triệu đồng là phù hợp với chất lượng và tính năng kỹ thuật xe. Đối với kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo T thấy bị cáo có nhân thân xấu (có 01 tiền án và 02 tiền sự), tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo T không có tình tiết mới nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định như sau:

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Quang T thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở kết luận: Do không có tiền tiêu xài cá nhân nên Nguyễn Quang T nảy sinh ý định thuê xe ô tô tự lái để mang đi cầm cố. Ngày 26/02/2022, T gọi điện cho ông Hoàng Ngọc D hỏi việc nhận cầm cố xe ô tô, nhưng ông D không làm nữa và giới thiệu cho T liên hệ với anh Bùi Anh V. Sau khi gọi điện cho anh V liên hệ việc cầm cố xe, anh V yêu cầu mang xe xuống để xem nhưng do T chưa có xe nên hẹn lại anh V. Ngày 27/02/2022, T đến cửa hàng cho thuê xe ô tô tự lái Chính Cương để thuê xe, T gặp ông Hoàng Minh C1 và nói dối thuê xe đi công việc 3-4 ngày nên ông C1 đồng ý cho thuê giá 800.000 đồng/ngày, T đặt trước 5.000.000 đồng và để lại 01 giấy phép lái xe hạng A1 mang tên T. Sau khi T được giao chiếc xe ô tô TOYOTA Vios BKS 36A-575.X, T đã mang đi bán cho anh Bùi Anh V với giá 300.000.000 đồng theo giấy bán xe ngày 27/02/2022, T nhận trước 100.000.000 đồng và hẹn ngày 02/3/2022 giao đầy đủ giấy tờ thì anh V sẽ thanh toán nốt số tiền còn lại. Quá thời hạn thỏa thuận thuê xe, T không mang xe đến trả và cửa hàng thuê xe cũng không liên lạc được với T nên đã trình báo Công an thành phố Thanh H. Số tiền T nhận đã sử dụng tiêu xài cá nhân hết. Kết quả định giá chiếc xe ô tô TOYOTA Vios BKS 36A-575.X T chiếm đoạt bán cho anh V trị giá 516.000.000 đồng. Do đó, Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã xét xử bị cáo Nguyễn Quang T về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật.

Xét kháng cáo của bị cáo Nguyễn Quang T, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy:

Bị cáo Nguyễn Quang T tuổi đời còn trẻ, nhưng không chịu học tập, lao động mà cố tình thuê xe ô tô tự lái có giá trị lớn mang đi bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Bị cáo có nhân thân xấu (có 01 tiền án về tội cùng loại, đã được xóa án), nhưng không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Ngoài ra, bị cáo còn bị 02 lần xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản năm 2013, 2017 thể hiện sự coi thường pháp luật của bị cáo. Chiếc xe ô tô TOYOTA Vios BKS 36A-575.X đã được trả lại cho chủ sở hữu và bị cáo tác động gia đình bồi thường cho chủ sở hữu chiếc xe ô tô số tiền 9.000.000 đồng, chủ sở hữu chiếc xe ô tô không có yêu cầu nào khác. Số tiền 100.000.000 đồng T nhận của anh V hiện vẫn chưa trả cho anh V. Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đánh giá tính chất hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo để xử phạt bị cáo Nguyễn Quang T mức án 12 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là mức khởi điểm của khung hình phạt là có căn cứ. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo T không xuất trình được tình tiết mới làm căn cứ giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do đó, không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Quang T.

Đối với kháng cáo của bị cáo Nguyễn Quang T và Luật sư bào chữa cho bị cáo T cho rằng Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự UBND thành phố Thanh H không thực hiện đúng trình tự, thủ tục định giá theo quy định tại Điều 16 Nghị định số 30/2018/NĐ-CP ngày 07/3/2018 của Chính Phủ quy định chi tiết việc thành lập và hoạt động của Hội đồng định giá tài sản; trình tự, thủ tục định giá tài sản trong tố tụng hình sự dẫn đến việc xác định giá trị chiếc xe ô tô là 516.000.000 đồng là có tính áp đặt, hợp thức hóa; đồng thời không tống đạt kết luận định giá cho bị cáo thấy:

Sau khi nhận được Văn bản số 326/CSĐT ngày 22/4/2022 của Cơ quan điều tra công an thành phố Thanh H đề nghị định giá Chiếc xe ô tô TOYOTA Vios BKS 36A-575.X. Ngày 25/4/2022, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND thành phố Thanh H có Công văn số 08/CV-HĐ ĐGTS gửi Công ty TNHH quản lý và khai thác tài sản AMC đề nghị thẩm định giá tài sản nêu trên với lý do tài sản cần định giá có tính kỹ thuật phức tạp vượt tầm hiểu biết chuyên môn của các thành viên để Hội đồng sử dụng kết luận định giá tài sản. Tại chứng thư thẩm định giá ngày 08/6/2022 của Công ty TNHH quản lý và khai thác tài sản AMC đã xác định giá trị xe ô tô nêu trên là 516.000.000 đồng.

Tại điểm c khoản 1 Điều 15 Nghị định số 30/2018/NĐ-CP ngày 07/3/2018 của Chính Phủ quy định về căn cứ định giá tài sản như sau: “Việc định giá tài sản không phải là hàng cấm phải dựa trên ít nhất một trong các căn cứ sau…c, giá do doanh nghiệp thẩm định giá cung cấp”. Đồng thời, tại điểm b khoản 1 Điều 10 của Nghị định này cũng quy định Hội đồng định giá tài sản có quyền thuê doanh nghiệp thẩm định giá để thực hiện thẩm định giá. Do đó, Hội đồng định giá sử dụng kết quả thẩm định giá của Công ty TNHH quản lý và khai thác tài sản AMC làm căn cứ để kết luận định giá tài sản là có căn cứ theo đúng quy định tại Điều 15 Nghị định số 30/2018/NĐ-CP ngày 07/3/2018 của Chính Phủ như đã viện dẫn nêu trên. Luật sư cho rằng chứng thư thẩm định giá của doanh nghiệp chỉ có giá trị tham khảo theo Điều 16 Nghị định số 30 là không phù hợp với quy định của pháp luật.

Sau khi có kết quả thẩm định giá, Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự UBND thành phố Thanh H đã tổ chức phiên họp định giá, có báo cáo thuyết minh giải trình về việc xác định giá trị tài sản định giá của thành viên hội đồng định giá và biên bản phiên họp và kết luận định giá theo đúng quy định về trình tự, thủ tục định giá tài sản tại Nghị định số 30/2018/NĐ-CP.

Việc Luật sư cho rằng không tống đạt kết luận định giá cho bị cáo thấy: Tại biên bản giao nhận kết luận định giá tài sản ngày 15/8/2022 bị cáo T đã ký nhận kết luận định giá tài sản. Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo T cũng thừa nhận đã được nhận kết luận định giá tài sản và không có ý kiến về kết quả định giá. Do đó, ý kiến của Luật sư nêu là không có căn cứ.

Từ những phân tích nêu trên thấy không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Quang T.

Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Nguyễn Quang T phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Quang T; giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 24/2023/HSST ngày 17/02/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa.

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 46; Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt: Nguyễn Quang T 12 (Mười hai) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 15/8/2022.

2. Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Nguyễn Quang T phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

42
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 385/2023/HS-PT

Số hiệu:385/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về