TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 38/2023/HS-ST NGÀY 11/05/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Trong ngày 11 tháng 05 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 25/2023/TLST-HS ngày 03 tháng 4 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2023/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 4 năm 2023 đối với bị cáo:
Phan Thái B (tên gọi khác: không), sinh ngày: 24/02/1986 tại Thành phố Hồ Chí Minh; giới tính: Nam; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Đường Hòa H, Phường D, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; nơi cư trú: Đường Hòa H, Phường D, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 12/12, con ông: Phan Dũng P và bà: Thái Thị Mỹ L; Hoàn cảnh gia đình: Vợ Kiều Thị M (đã ly hôn), 01 con sinh năm 2017; tiền sự: Không.
Tiền án: Ngày 02/7/2019 bị Tòa án nhân dân Quận 8, Tp. Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội “tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Nhân thân:
- Ngày 23/01/2014 bị Tòa án nhân dân Quận 10, Tp. Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm 03 tháng tù về tội “mua bán trái phép chất ma túy”.
- Ngày 02/10/2021 bị Ủy ban nhân dân Quận 10, Tp. Hồ Chí Minh ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “mua, bán, vận chuyển, tàng trữ vũ khí thô sơ, công cụ hỗ trợ mà không có giấy phép” với số tiền 15.000.000 đồng.
Bị bắt tạm giam ngày 07/12/2022; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: Ông Nguyễn Thành V, sinh năm 2000 (vắng mặt) Địa chỉ: Đường L, Phường A, quận V, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Người có quyền lơi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Nguyễn Thị Kim N, sinh năm 1990 (vắng mặt) Địa chỉ: Đường T, Phường K, quận F, Tp. Hồ Chí Minh
2. Ông Vũ Đình T, sinh năm 1995 (có đơn xin vắng mặt) Địa chỉ: Đường C, Phường D, Quận L, Tp. Hồ Chí Minh
3. Ông Trịnh Hiếu T, sinh năm 1974 (vắng mặt) Địa chỉ: Đường Y, phường Thạnh L, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh
4. Ông Nguyễn Thế L, sinh năm 1982 (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp Phú H, xã Hưng K, huyện Chợ L, tỉnh Bến Tre
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ông Nguyễn Thành V làm nghề kinh doanh mua bán xe máy tại cửa hàng số 318 Thạch Lam, phường Phú T, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngày 14/10/2022, Nguyễn Thành V sử dụng tài khoản zalo “David Nguyễn” nhắn tin mua bán xe hiệu Honda @ biển số: 59G2-xxxxx (nhưng đã được thay các ốp nhựa kiểu dáng như xe hiệu Honda SH) với Phan Thái B, sử dụng tài khoản zalo “Mua sh 125 79007”. Hai bên thỏa thuận thống nhất giá mua bán xe là 38.000.000 đồng, giao xe tại Đường Hòa H, Phường D, Quận T, thanh toán bằng cách chuyển tiền vào tài khoản số 969xxx888 mang tên Nguyễn Duy H mở tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Á Châu và B cung cấp số điện thoại xxxx244446 để anh V liên lạc khi mua bán xe. Khoảng 15 giờ ngày 18/10/2022, anh Vũ Văn H1 - là nhân viên của anh V điều khiển xe máy biển số 59G2-xxxxx đến địa chỉ trên để giao dịch mua bán xe với B. Tại đây, B gửi cho anh V hình chụp 01 giao dịch chuyển tiền thành công với số tiền là 38.000.000 đồng qua zalo, người thụ hưởng là Nguyễn Duy H và nói với anh H1 đã chuyển tiền cho anh V. Anh V tin là B đã chuyển tiền nên gọi điện cho H1 đồng ý giao xe cho B lấy đi. Khoảng 30 phút sau, anh V điện thoại cho anh H1 biết chưa nhận được tiền nên kiểm tra lại hình ảnh chuyển tiền thấy sai ngân hàng và ngày chuyển tiền. Anh V gọi điện thoại cho B nhưng không được do B đã chặn điện thoại của anh V.
Ngày 21/10/2022, anh V phát hiện xe biển số 59G2-xxxxx của mình trong tiệm cầm đồ Long Phát, số 273 Âu Cơ, Phường 5, Quận 11, nên đến Công an Phường 13, Quận 10 trình báo sự việc.
Qua truy xét, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 đã khởi tố và bắt tạm giam đối với Phan Thái B.
Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10, Phan Thái B khai nhận đã thực hiện hành vi chiếm đoạt chiếc xe biển số: 59G2-xxxxx của anh V như đã nêu trên. B khai có cho một người bạn tên Bình (không rõ lai lịch) mượn số tiền 20.000.000 đồng. Ngày 18/10/2022, B nhắn tin qua zalo (không nhớ) yêu cầu Bình trả nợ 20.000.000 đồng và cho B mượn 18.000.000 đồng để chuyển trả tiền mua xe. Bình nói làm được giấy chuyển tiền giả lừa chủ xe giao xe để chiếm đoạt thì B đồng ý. Sau đó B làm và gửi hình giao dịch chuyển khoản thành công giả qua cho B và đến 15 giờ ngày 18/10/2022, B sử dụng hình giao dịch chuyển khoản thành công giả đó chuyển cho V thì V yêu cầu H1 giao xe cho B cùng giấy đăng ký mang tên Trịnh Hiếu T1 để làm và giấy mua bán xe nhưng B không có căn cước do bị mất nên lấy chứng minh tên Nguyễn Thị Kim N (do B lượm được) làm giấy mua bán xe. Sau khi nhận xe thì V gọi điện thoại cho B nói là giấy chuyển tiền giả, yêu cầu B trả tiền hoặc trả lại xe nhưng B không trả.
Ngày 21/10/2022, B đem chiếc xe môtô biển số: 59G2-xxxxx đến tiệm cầm đồ Long Phát, số 273 Âu Cơ, Phường 5, Quận 11 lấy tên Danh T2 (giấy phép lái xe do B nhặt được) cầm với giá 20.000.000 đồng, số tiền này B đã tiêu xài hết. Lệnh chuyển tiền là do B làm giả, cách thức làm thì B không biết. Khi làm xong Bình chụp gửi qua cho B, B gửi qua cho V tin tưởng để giao xe. Số điện thoại xxxx244446 là B sử dụng và đứng tên chủ thuê bao, sau khi chiếm đoạt được xe thì B ra nhà mạng Mobiphone hủy không đứng chủ thuê bao nữa, còn nick “Tao Nè” thì B đã xóa.
Vũ Đình T là chủ tiệm cầm đồ Long Phát khai: Khoảng 00 giờ 30 phút ngày 21/10/2022, T đang ở tiệm cầm đồ thì B điều khiển xe SH biển số: 59G2-xxxxx đến cầm và đưa giấy đăng ký xe mang tên Trịnh Hiếu T1, giấy phép lái xe mang tên Danh T2. T thấy có giấy tờ đầy đủ nên đồng ý cầm 20.000.000 đồng và viết giấy cầm đồ đưa cho B. Khi Công an đến làm việc, T mới biết chiếc xe là tài sản do phạm tội mà có nên đã giao nộp và các giấy tờ trên cho Công an. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 có công văn đề nghị Công an Phường 5, Quận 11 xử phạt hành chính tiệm cầm đồ Long Phát về hành vi cầm cố xe không chính chủ.
Nguyễn Thị Kim N khai: Giấy chứng minh nhân dân số 024414795 mang tên Nguyễn Thị Kim N, sinh ngày 04/7/1990, hhọ khẩu thường trú số 88/48/3 Nguyễn Khoái, Phường 2, Quận 4 là của N. Đầu năm 2021 trên đường đi về nhà tại Đường T, Phường K, quận F thì bị rơi mất. Hiện N đã làm lại và đổi thành căn cước công dân.
Tại Kết luận định giá tài sản số 4131/KL-HĐĐGTS ngày 16/12/2022 của Hội đồng định giá thường xuyên tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: 01 chiếc chiếc xe gắn máy 02 bánh hiệu Honda @150 màu xám biển số 59G2-xxxxx trị giá 25.000.000 đồng.
-Về trách nhiệm dân sự:
+ Ông Nguyễn Thành V đã nhận lại chiếc xe và giấy đăng ký;
+ Ông Vũ Đình T yêu cầu hoàn trả số tiền 20.000.000 đồng đã cầm xe cho B.
- Vật chứng vụ án:
+ 01 giấy biên nhận của cửa hàng Long Phát;
+ 01 giấy mua bán xe máy ngày 18/10/2022 giữa Nguyễn Duy H và Nguyễn Thị Kim N;
+ 01 chiếc xe môtô @ 150 (đã thay dàn áo nhựa SH150) màu trắng biển số: 59G2-xxxxx, số khung: ZDCKF03A02F058885, số máy: HI-KF03E- 0038330-HIKGG. Kết quả giám định số khung, số máy không thay đổi, do ông Trịnh Hiếu Tâm, cư ngụ: Số 8/21 TL31, phường Thạnh Lộc, Quận 12, đứng tên chủ sở hữu. Ngày 28/9/2019, ông Tâm bán chiếc xe trên cho anh Nguyễn Thế L, cư ngụ: Ấp Phú H, xã Hưng K, huyện Chợ L, tỉnh Bến Tre với giá 8.500.000 đồng, có làm giấy bán tay nhưng không ra công chứng. Sau đó anh Lực thay đổi kiểu dáng thành xe SH150 và bán lại cho Nguyễn Thành V, cư ngụ: Đường L, Phường A, quận V, với giá 34.000.000 đồng nhưng không làm giấy, chỉ thỏa thuận giao đủ tiền nhận xe và giấy đăng ký xe. Sau khi mua xe, V để tại cửa hàng tại số 318 Thạch Lam, phường Phú Thạnh, quận Tân Phú. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 đã trao trả chiếc xe và giấy đăng ký cho ông Nguyễn Thành V.
+ 01 giấy phép lái xe số 7901X810 mang tên DT, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 đã xác minh tại địa phương thì ông Tâm không có mặt tại địa phương, đi đâu làm gì không rõ.
+ 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Thị Kim N.
Tại bản Cáo trạng số 26/CT-VKSQ10 ngày 03 tháng 4 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành Phố Hồ Chí Minh đã truy tố Phan Thái B về tội: “Lừa đảo tài sản” theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa hôm nay:
- Bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình như lời khai tại cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh công bố bản luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo đúng theo nội dung bản cáo trạng. Sau khi phân tích tính chất và hậu quả của vụ án đối với xã hội, bị hại, nêu lên tình tiết tăng nặng là tái phạm và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đã đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1, 5 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52; của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo: Phan Thái B từ 01 năm 09 tháng đến 02 năm 03 tháng tù, áp dụng hình phạt bổ sung từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng và đề nghị xử lý vật chứng.
- Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo rất hối hận về hành vi của mình, mong Hội đồng xét xử khoan hồng, giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên thu thập; do bị can, bị cáo, người tham gia tố tụng khác cung cấp đều thực hiện đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về những chứng cứ, tài liệu đã thu thập, cung cấp. Do đó, những chứng cứ, tài liệu trong vụ án đều hợp pháp.
[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng như đã nêu trên. Tại các bản tự khai, biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung mà bị cáo đã trình bày nội dung lời khai là hoàn toàn tự nguyện. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[3] Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo Phan Thái B đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng đã truy tố. Qua lời khai nhận của bị cáo, đối chiếu với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở để kết luận: Với ý định chiếm đoạt chiếc xe máy của anh Nguyễn Thành V, B đã dùng thủ đoạn gian dối, để anh Nguyễn Thành V tin tưởng đã nhận được tiền bán xe và kêu anh Huy là nhân viên giao xe cho B. Hành vi của bị cáo Phan Thái B đã phạm tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, tội phạm được quy định tại Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Cho nên, truy tố của Viện kiểm sát nhân dân Quận 10 là có căn cứ.
[4] Việc áp dụng hình phạt, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:
Xét bị cáo là người có năng lực hành vi, đủ khả năng nhận thức được việc làm của mình nhưng vì muốn có tiền tiêu xài cá nhân mà bị cáo bất chấp pháp luật, cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của người khác mà còn xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Mặt khác bị cáo vừa chấp hành xong hình phạt về một tội khác, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. Do đó, bị cáo cần phải bị xử phạt nghiêm minh bằng luật hình tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của mình gây ra, cụ thể cần thiết phải cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian nhất định để cải tạo giáo dục bị cáo, đồng thời cũng để răn đe, giáo dục đối với những người thực hiện hành vi tương tự.
Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo tái phạm theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) Về tình tiết giảm nhẹ: Xét thấy bị cáo thành khẩn khai báo do vậy Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo.
[5] Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp khác:
- Về trách nhiệm dân sự:
+ Tài sản bị chiếm đoạt đã được thu hồi và giao trả cho bị hại, bị hại không có yêu cầu gì; do vậy không có gì để Tòa giải quyết.
+ Về yêu cầu bồi thường dân sự: Bị cáo tự nguyện bồi thường cho anh Vũ Đình T số tiền 20.000.000 đồng nên chấp nhận.
- Về xử lý vật chứng:
+ 01 giấy biên nhận của cửa hàng Long Phát và 01 giấy mua bán xe máy ngày 18/10/2022 giữa Nguyễn Duy H và Nguyễn Thị Kim N tiếp tục lưu giữ theo hồ sơ vụ án.
+ 01 giấy phép lái xe số 7901X810 mang tên DT và 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Thị Kim N, căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; tịch thu và tiêu hủy.
[6] Về án phí:
- Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm - Án phí dân sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trên số tiền bồi thường thiệt hại.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào khoản 1, 5 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017);
Tuyên bố: Bị cáo Phan Thái B phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản’.
Xử phạt: Phan Thái B 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 07/12/2022.
Phạt bổ sung bị cáo số tiền 10.000.000 (mười triệu) đồng nộp ngân sách nhà nước.
Buộc bị cáo Phan Thái B bồi thường cho anh Vũ Đình T số tiền 20.000.000 (hai mươi triệu) đồng.
- Áp dụng Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015
+ Tịch thu và tiêu hủy: 01 giấy phép lái xe số 7901X810 mang tên DT và 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Thị Kim N;
+ 01 giấy biên nhận của cửa hàng Long Phát và 01 giấy mua bán xe máy ngày 18/10/2022 giữa Nguyễn Duy H và Nguyễn Thị Kim N tiếp tục lưu giữ theo hồ sơ vụ án.
Căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Buộc bị cáo Phan Thái B phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm nghìn) đồng và án phí dân sự là 1.000.000 (một triệu) đồng.
2. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.
Đối với bị hại vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc niêm yết.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 38/2023/HS-ST
Số hiệu: | 38/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận 10 - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 11/05/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về