Bản án về tội lừa đảo, chiếm đoạt tài sản số 354/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 354/2022/HS-PT NGÀY 23/05/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO, CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 5 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 556/2021/TLPT-HS ngày 25 tháng 11 năm 2021 đối với bị cáo Nguyễn Sỹ V do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 45/2021/HS-ST ngày 12 tháng 10 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông.

Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Sỹ V, sinh năm 1955 tại tỉnh Hà Tĩnh; nơi cư trú: Buôn Nui, xã Tâm Thắng, huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 10/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: V Nam; con ông Nguyễn Sỹ T (đã chết) và bà Đào Thị T (sinh năm 1924); có vợ là Nguyễn Thị H (sinh năm 1963) và có 03 con (lớn nhất sinh năm 1989, nhỏ nhất sinh năm 1992); bị bắt tạm giam từ ngày 15/8/2019, hiện đAg tạm giam tại Trại tạm giam Công A tỉnh Đắk Nông – có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo (do TA chỉ Đ): ông Bùi Quang T thuộc Đoàn luật sư tỉnh Đắk Nông, (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng cuối tháng 11/2018, Nguyễn Đức A và Đoàn Thị Th đến nhà của Nguyễn Sỹ V để nhờ V xin cho Ah Nguyễn Đức B (là con trai của A và Th) được hoãn nghĩa vụ quân sự. V đồng ý và yêu cầu A, Th đưa số tiền 6.000.000 đồng. Sau khi nhận tiền, V không liên hệ để xin hoãn nghĩa vụ quân sự cho Ah B. Ngày 21/01/2019, A và Th nhận được Lệnh gọi công dân nhập ngũ của BA Chỉ huy Quân sự huyện Cư Jút đối với Ah B nên tìm gặp V, V tiếp tục hứa hẹn và yêu cầu A, Th đưa thêm số tiền 6.000.000 đồng. Sau khi nhận tiền, thông qua mạng xã hội, V nhờ 01 người (chưa rõ nhân thân lai lịch) làm giả 01 bộ hồ sơ gồm: Giấy vào viện ngày 15/02/2019 và Giấy xác nhận ngày 18/02/2019 của Bệnh viện Đa khoa Bưu điện thành phố Hồ Chí Minh, nội dung thể hiện Ah B bị gãy xương đòn phải. Sau đó, V trực tiếp viết các thông tin vào mẫu Đơn xin tạm hoãn/miễn nghĩa vụ quân sự, ký tên và viết chữ “Nguyễn Đức B” vào cuối đơn. Khoảng 10 giờ ngày 25/02/2019, V gọi Th đến nhà giao các giấy tờ trên. Mặc dù biết rõ là giấy tờ giả nhưng A và Th vẫn mAg nộp cho Ủy bA nhân dân xã Tâm Thắng, huyện Cư Jút. BA Chỉ huy Quân sự xã Tâm Thắng đã xác minh tại Bệnh viện Đa khoa Bưu điện thành phố Hồ Chí Minh, kết quả thể hiện các giấy tờ trên đều là giả, Ah B không bị gãy xương đòn phải mà đAg học tại Trường Đại học Giao thông Vận tải thành phố Hồ Chí Minh.

Quá trình điều tra xác Đ Nguyễn Sỹ V còn thực hiện các hành vi sau:

Vụ thứ nhất: Khoảng tháng 5/2015, ông Lê Văn Đ đến nhà nhờ V xin việc cho con gái là chị Lê Thị S (đã tốt nghiệp trường Đại học Ngân hàng thành phố Hồ Chí Minh). V đồng ý và nói quen biết với lãnh đạo huyện Cư Jút, hiện còn một chỉ tiêu biên chế kế toán Ủy bA nhân dân và một chỉ tiêu kế toán trường học. V nói ông Đ chuẩn bị hồ sơ và số tiền 150.000.000 đồng, trong vòng 06 tháng V sẽ xin được việc cho chị S. Vào tháng 5/2015 (không nhớ ngày), ông Đ giao cho V 01 bộ hồ sơ xin việc và 150.000.000 đồng, hai bên không viết giấy tờ. Sau khi nhận tiền, V không xin việc cho chị S mà sử dụng vào mục đích cá nhân. Tháng 3/2018, ông Đ tố cáo hành vi của V đến Cơ quA Cảnh sát Điều tra Công A huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông. Tháng 11/2018, V đã trả toàn bộ số tiền 150.000.000 đồng cho ông Đ.

Vụ thứ hai: Khoảng tháng 8/2015, Ah Y Líp Ê BA và H’Juyn Ê BA (em gái của Ah Y Líp, đã tốt nghiệp hệ cao đẳng sư phạm lịch sử Trường Đại học Thủ Dầu Một) đến nhà nhờ V xin cho H’Juyn vào làm việc tại các cơ quA nhà nước. V đồng ý và nói chi phí xin việc là 80.000.000 đồng, Ah Y Líp đồng ý. Vào các ngày 20/11/2015, 30/11/2015 và ngày 16/12/2015, tại nhà Ah Y Líp, Ah Y Líp đã đưa cho V 60.000.000 đồng và 01 bộ hồ sơ xin việc của H’Juyn. Sau khi nhận tiền, đến cuối năm 2016, không thấy V xin việc cho H Juyn nên Ah Y’ Líp và HJuyn đến nhà V để hỏi. Lúc này, V nói hiện không có chỉ tiêu sư phạm cao đẳng mà chỉ có chỉ tiêu trung cấp sư phạm mầm non. H Juyn nói không có bằng tốt nghiệp trung cấp chuyên ngành sư phạm mầm non, V nói để V thuê người làm cho H Juyn bằng trung cấp chuyên nghiệp sư phạm mầm non giả để xin việc, chi phí hết 100.000.000 đồng. Nghe vậy, Ah Y’ Líp nói để Ah em về bàn lại. Về nhà, Ah Y’Líp nói H Juyn: “ông V ổng lừa Ah em mình rồi, không xin việc gì nữa cả, đòi lại tiền thôi”. Sau đó, nhiều lần Ah Y’ Líp đòi lại tiền, V cứ hứa hẹn và đưa ra thông tin là đã nộp hồ sơ xin việc cho H Juyn, đAg chờ kết quả và yêu cầu Ah Y’ Líp đưa thêm tiền. Cũng trong khoảng thời giA này, thông qua mạng xã hội, V tự đặt mua 01 bằng tốt nghiệp trung cấp chuyên nghiệp sư phạm mầm non của Trường trung cấp Bách nghệ ThAh Hoá, số hiệu A318521 mAg tên H Juyn Ê BA. Còn đối với Ah Y Líp nghe V nói vậy tin tưởng V đAg xin việc cho em mình. Ngày 09/7/2017, Ah Y’ Líp và H Juyn đưa thêm số tiền 20.000.000 đồng. Sau khi nhận tiền, V đưa cho H Juyn 01 bằng trung cấp chuyên nghiệp mầm non, tuy biết là bằng giả nhưng HJyun vẫn pho to công chứng đưa cho V bổ sung vào hồ sơ, còn Ah Y’ Líp không đồng ý, tiếp tục đòi lại tiền. Ngày 15/7/2017, HJuyn dự thi viên chức giáo viên mầm non do UBND huyện Đắk Sg tổ chức nhưng không đậu. Ngày 10/3/2019, V trả cho Ah Y Líp số tiền 20.000.000 đồng.

Vụ thứ ba: Ngày 18/5/2016, ông Y Ba Ê BA và con gái là H'Yim Bkrông đến nhà nhờ Nguyễn Sỹ V xin việc cho chị H’Yim Bkrông đã tốt nghiệp Trường Trung cấp sư phạm mầm non Thái Nguyên tại Đắk Lắk. V đồng ý và nói sẽ xin cho chị H’Yim vào biên chế mầm non của một trường trên địa bàn huyện Cư Jút, số tiền xin việc là 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng), đưa trước 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng), khi nào có quyết Đ chính thức thì đưa số tiền còn lại. Ngày 21/5/2016, tại nhà V, ông Y Ba đưa cho V số tiền 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng), V viết giấy nhận tiền. Sau khi nhận tiền, V không liên hệ bất cứ ai để xin việc cho chị H’Yim mà sử dụng hết số tiền này vào mục đích cá nhân.

Vụ thứ bốn: Tháng 7/2016, thông qua việc mua bán đất đai, Nguyễn Sỹ V biết H Minh Byă có con gái tên là H’Linh Byă (trú tại: Buôn Buôr, xã Tâm Thắng, huyện CưJut) đAg làm công nhân tại tỉnh B Dương. V nói với bà H Minh là V có khả năng xin việc cho con gái của H Minh vào biên chế nhà nước làm giáo viên mầm non. Khi biết con gái của H Minh chưa có bằng tốt nghiệp sư phạm, V nói với H Minh để V thuê người làm giả Bằng tốt nghiệp trung cấp chuyên nghiệp sư phạm mầm non và các chứng chỉ ngoại ngữ, tin học cho H’Linh với số tiền xin việc và làm bằng là khoảng 135.000.000 đồng (trong đó tiền xin việc là 100.000.000 đồng; 35.000.000 đồng là tiền làm bằng giả), H Minh đồng ý. Sau đó, H Minh nói lại với con gái là H’Linh về việc này thì H’Linh cũng đồng ý. Lúc này H’ Linh đAg ở B Dương, để có thông tin cho V làm giả bằng cấp và chứng chỉ nêu trên, H’Linh đã gửi Chứng minh nhân dân của mình về cho H Minh và H Minh đưa cho V. Ngày 07/8/2016, tại nhà V, H Minh đưa cho V số tiền 200.000.000 đồng (Hai trăm triệu đồng). V nói với H Minh “tiền này để Ah xin việc và làm bằng cấp cho H’Linh, sau khi xin được việc, còn dư bao nhiêu Ah gửi lại”. Sau khi nhận tiền, thông qua mạng xã hội V thuê làm giả 01 bằng tốt nghiệp trung cấp chuyên nghiệp sư phạm mầm non của Trường Trung cấp sư phạm mầm non Đắk Lắk cấp; 01 Bảng kết quả học tập; 01 Chứng chỉ tin học ứng dụng và 01 Chứng chỉ tiếng Ah của Sở giáo dục và đào tạo tỉnh Đắk Lắk. Tất cả các giấy tờ này đều mAg tên H’Linh Byă. Sau khi làm xong, V đưa toàn bộ giấy tờ này cho H’Linh pho to chứng thực và sử dụng các giấy tờ này để làm hồ sơ xin việc. Đến ngày 15/11/2016, V cùng H’Linh đến Phòng Nội vụ huyện Đắk Sg, tỉnh Đắk Nông nộp hồ sơ thi viên chức. Ngày 15/7/2017, H’Linh dự thi viên chức giáo viên mầm non do UBND huyện Đắk Sg tổ chức nhưng không đậu. Bà H’Minh đã nhiều lần yêu cầu V trả lại tiền nhưng V chưa trả.

Vụ thứ năm: Khoảng tháng 8/2016, Nguyễn Sỹ V đưa ra thông tin với H'Linh Byă (trú tại: Buôn Nui, xã Tâm Thắng, huyện CưJut) là V có khả năng xin cho H'Linh Byă vào biên chế dạy mầm non trên địa bàn tỉnh Đắk Nông mặc dù V biết là H'Linh chưa thi đậu tốt nghiệp lớp 12. V nói với H'Linh là V sẽ làm tất cả các bằng cấp giả để xin việc cho H'Linh. Để H'Linh tin tưởng, V đưa cho H'Linh xem một số bằng giả mà V đã làm. Thấy vậy, H'Linh về nhà nói lại nội dung này với mẹ của mình là H’Bon Byă. Sau đó H’ Bon cùng chồng là ông Y Mi Ktul đến nhà V để nhờ xin việc cho con gái là H'Linh. Tại đây, V trao đổi trực tiếp với H’Bon về việc làm bằng cấp giả cho H'Linh, còn ông Y Mi chỉ đi theo và không tham gia . V nói với H Bon có thể xin được cho H'Linh vào biên chế dạy mầm non trên địa bàn tỉnh Đắk Nông, số tiền xin việc là 90.000.000 đồng (Chín mươi triệu đồng). H Bon đồng ý và nói với V là H'Linh chưa có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông, V nói để V làm. Trong tháng 9/2016, vợ chồng H Bon và H'Linh đã 03 lần đến nhà V đưa tổng số tiền 90.000.000 đồng (Chín mươi triệu đồng), hai bên không viết giấy tờ. Sau khi nhận tiền, qua mạng xã hội, trên cơ sở thông tin giấy khai sinh mà H’ Linh cung cấp V thuê làm giả 01 Bằng tốt nghiệp Trung học phổ thông của Sở Giáo dục và đào tạo tỉnh Đắk Nông, 01 Bằng tốt nghiệp trung cấp chuyên nghiệp của Trường trung cấp Thái Nguyên kèm 01 Bảng xác nhận kết quả học tập, 01 Chứng chỉ tin học ứng dụng và 01 Chứng chỉ tiếng Ah của Sở giáo dục và đào tạo tỉnh Đắk Lắk, tất cả mAg tên H’Linh Byă. Sau đó, V đưa lại cho H'Linh bổ sung vào hồ sơ xin việc rồi cùng H'Linh đến Phòng Nội vụ huyện Đắk Sg, tỉnh Đắk Nông nộp hồ sơ thi viên chức nhưng sau đó H'Linh không tham gia dự thi vì H’ Linh mAg thai sắp sinh. Số tiền có được V sử dụng vào mục đích cá nhân, chưa trả lại cho H'Bon.

Vụ thứ sáu: Khoảng tháng 11/2016, ông Cao Đắc Chí và vợ là Trần Thị Thu Hằng đến nhà nhờ Nguyễn Sỹ V xin việc cho con gái là Cao Thị ThAh Tâm (đã tốt nghiệp Trường Trung cấp y tế Đắk Lắk). V đồng ý và hứa sẽ xin cho Tâm vào biên chế làm việc tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Đắk Lắk với số tiền xin việc là 60.000.000đ (sáu mươi triệu đồng) thì ông Chí và bà Hằng đồng ý. Đến khoảng tháng 11/2016, tại nhà V, ông Chí và bà Hằng đưa cho V số tiền 60.000.000 đồng (Sáu mươi triệu đồng) nhưng không viết giấy tờ. Sau khi nhận tiền, V chỉ xin cho chị Tâm học việc không lương tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Đắk Lắk. Sau đó, ông Chí và bà Hằng đến hỏi thì V nói sau khi chị Tâm học việc có chứng chỉ hành nghề, V sẽ xin vào biên chế chính thức. Đến ngày 01/8/2017, chị Tâm được Bệnh viện đa khoa tỉnh Đắk Lắk cấp chứng chỉ hành nghề. Lúc này, V tiếp tục yêu cầu ông Chí, bà Hằng đưa thêm số tiền 10.000.000đ (mười triệu đồng). Đầu năm 2018, tại nhà V ông Chí và bà Hằng đưa thêm cho V 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng) nhưng không viết giấy tờ. Sau khi nhận tiền, V không xin việc cho chị Tâm mà sử dụng vào mục đích cá nhân, đến nay chưa trả lại tiền cho ông Chí và bà Hằng.

Vụ thứ bảy: Khoảng tháng 02/2017, biết được Nguyễn Sỹ V có khả năng xin việc nên Y Buôl Knul đã chủ động gặp V để nhờ xin việc cho con gái là H'Glen Niê đã học ngành dược nhưng chưa có bằng tốt nghiệp. V đồng ý và hứa hẹn là sẽ xin cho H'Glen vào làm việc tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Đắk Lăk với số tiền xin việc là 100.000.000 đồng, còn về bằng cấp tốt nghiệp chuyên ngành điều dưỡng V sẽ làm. Y Buôl về nhà nói lại với vợ là bà H’ Buôn Niê và con gái là H'Glen. Bà H’Buôn không đồng ý về việc làm bằng giả, còn H'Glen đồng ý. Ngày 20/2/2017, Y Buôl và H'Glen mAg số tiền 50.000.000 đồng đưa cho V, H'Glen đưa cho V bản pho to bằng tốt nghiệp THPT và chứng minh nhân dân của H’Glen để V lấy thông tin làm giả bằng tốt nghiệp điều dưỡng và Bảng kết quả học tập. Sau đó, thông qua mạng xã hội, V thuê làm 01 Bằng tốt nghiệp cao đẳng của Trường Đại học Nguyễn Tất Thành chuyên ngành điều dưỡng và Bảng kết quả học tập mAg tên H’Glen Niê. Làm xong, V đưa cho H'Glen và hướng dẫn làm hồ sơ xin việc nộp tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Đắk Lắk và nhận số tiền 50.000.000 đồng còn lại của Y Buôl. Sau đó, H'Glen chỉ được nhận vào học việc không lương. Khoảng 01 năm sau, không được tuyển dụng vào biên chế như V cam kết nên H’ Glen nghỉ việc. Vợ chồng Y Buôl yêu cầu V trả lại tiền nhưng đến nay V chưa trả.

Vụ thứ tám: Đầu tháng 4/2017, khi biết Y Buôl Knul đAg nhờ Nguyễn Sỹ V xin việc cho con gái của Y Buôl nên Y Đen Knul nhờ Y Buôl dẫn đến nhà V để nhờ xin việc cho con gái của mình là H’Nhuyn Kpơr (SN: 1995) đã tốt nghiệp Trung cấp chuyên nghiệp điều dưỡng - Trường trung cấp Y tế Đắk Lắk nhưng chưa xin được việc làm. Tại nhà V, V nói với Y Đen sẽ xin được cho chị H’Nhuyn vào biên chế của Bệnh viện đa khoa tỉnh Đắk Lắk, số tiền xin việc là 140.000.000đ (Một trăm bốn mươi triệu đồng) thì Y Đen đồng ý. Ngày 08/4/2017, Y Đen cùng vợ là H’DoA Kpơr (và em vợ là ông Y Thông Kpơr đến nhà V đưa cho V số tiền 80.000.000 đồng (Tám mươi triệu đồng) và bộ hồ sơ xin việc, hai bên không viết giấy tờ. Sau khi xem hồ sơ, V nói với Y Đen thiếu chứng chỉ tin học và tiếng Ah, để V làm thì Y Đen đồng ý (bà H’DoA và ông Y Thông không biết V thỏa thuận, trao đổi với Y Đen về việc làm giả chứng chỉ tin học và chứng chỉ tiếng Ah cho H’Nhuyn) . Sau đó, thông qua mạng xã hội V thuê làm giả 01 Chứng chỉ tin học ứng dụng và 01 Chứng chỉ tiếng Ah của Sở giáo dục và đào tạo tỉnh Đắk Lắk mAg tên H’Nhuyn Kpơr. Đến cuối tháng 4/2017, làm xong V đưa cho Y Đen pho to chứng thực bổ sung vào hồ sơ xin việc, đồng thời yêu cầu đưa số tiền còn lại, sau đó Y Đen cùng bà H’DoA và ông Y Thông đến nhà V giao số tiền còn lại 60.000.000đ (Sáu mươi triệu đồng). Sau khi nhận toàn bộ số tiền trên, V xin cho chị H’Nhuyn học việc không lương tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Đắk Lắk. Khoảng 01 năm sau chị H’Nhuyn được cấp chứng chỉ hành nghề, không được tuyển dụng biên chế nhà nước như V hứa hẹn nên chị H’Nhuyn nghỉ việc, số tiền có được V sử dụng vào mục đích cá nhân, đến nay chưa trả lại cho gia đình Y Đen.

Vụ thứ chín: Khoảng đầu tháng 4/2017, thông qua Y Đen, chị H'Nit Kpơr biết được Nguyễn Sỹ V có khả năng xin việc làm vào biên chế nhà nước nên chị H'Nit nhờ Y Đen dẫn chị đến nhà gặp V để nhờ xin việc cho em gái là chị H'Đuyn Kpơr (SN: 1990) đã tốt nghiệp trung cấp y chuyên ngành điều dưỡng của Trường đại học Nguyễn Tất Thành thành phố Hồ Chí Minh nhưng chưa xin được việc làm. V đồng ý và hứa sẽ xin cho chị H'Đuyn vào biên chế của Bệnh viện đa khoa tỉnh Đăk Lăk, số tiền xin việc là 150.000.000 đồng thì chị H'Nit đồng ý. Ngày 06/4/2017, chị H'Nit cùng Y Đen đến nhà V đưa cho V số tiền 100.000.000 đồng nhưng không viết giấy tờ. Đến khoảng 19 giờ ngày 12/4/2017, chị H'Nit cùng bố là Y DHơn Hra (SN: 1959) đến nhà Y Đen đưa số tiền còn lại 50.000.000 đồng cho V. Lúc này, V viết giấy nhận tổng số tiền là 150.000.000 đồng. Sau khi nhận tiền, V xin cho chị H’Đuyn học việc không lương tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Đắk Lắk. Khoảng 01 năm sau chị H’Đuyn được cấp chứng chỉ hành nghề, không được tuyển dụng vào biên chế nhà nước như V hứa hẹn nên chị H’Đuyn nghỉ việc, số tiền có được V sử dụng vào mục đích cá nhân, đến nay chưa trả lại cho chị H'Nit.

Vụ thứ mười: Tháng 5/2017, thông qua Y Buôl Knul, biết được Nguyễn Sỹ V đAg nhận xin việc làm cho người khác, bà H'TLiă Niê Kdăm cùng con gái là H'Luynh Niê Kdăm(SN: 1993) và H'Bích Niê Kdăm (SN:1996) đến nhà nhờ V xin việc cho H'Bích đã tốt nghiệp Trường trung cấp kinh tế - kỹ thuật Phương Nam, thuộc tỉnh Đắk Nông. V đồng ý và hứa sẽ xin cho H’Bích vào biên chế của Bệnh viện đa khoa tỉnh Đắk Lắk, số tiền xin việc là 160.000.000 đồng. Bà H'TLiă, chị H'Luynh và H'Bích đã 04 lần đến nhà giao cho V tổng số tiền 160.000.000 đồng (Lần 1: 50.000.000đ; lần 2: 20.000.000đ; lần 3: 30.000.000đ và lần 4: 60.000.000đ). Do hồ sơ chưa có chứng chỉ tin học và tiếng Ah, V trao đổi với H’Bích là V sẽ làm giả cho H’Bích 02 chứng chỉ này để bổ sung vào hồ sơ thì H’Bích đồng ý (bà H'TLiă và chị H'Luynh không biết việc này). Sau đó, V đã liên hệ làm giả 01 Chứng chỉ tin học ứng dụng và 01 Chứng chỉ tiếng Ah của Sở GD và ĐT tỉnh Đắk Lắk mAg tên H’Bích Niê Kdăm. Khi làm xong, V đưa chứng chỉ này cho H’Bích bổ sung vào hồ sơ xin việc. H’Bích được V xin cho học việc không lương tại Bệnh Viện lao và phổi Đắk Lắk, không xin vào biên chế nhà nước như đã hứa hẹn. Số tiền có được V sử dụng vào mục đích cá nhân, đến nay chưa trả lại cho bà H'TLiă.

Như vậy, Nguyễn Sỹ V đã nhận và chiếm đoạt của 11 hộ dân trên địa bàn huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông tổng số tiền là 1.172.000.000đ (Một tỷ một trăm bảy mươi hai triệu đồng); làm giả và sử dụng tổng cộng 18 tài liệu giả của cơ quA, tổ chức cho các cá nhân nêu trên sử dụng.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 45/2021/HSST ngày 15-10-2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông quyết Đ:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Sỹ V phạm các tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, “Làm giả tài liệu của cơ quA, tổ chức” và “Sử dụng tài liệu giả của cơ quA, tổ chức”.

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; các điểm b, s, x khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Sỹ V 13 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng các điểm b, c khoản 2 Điều 341; điểm x khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Sỹ V 03 năm tù về tội “Làm giả tài liệu của cơ quA, tổ chức”.

Áp dụng khoản 1 Điều 341; điểm x khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Sỹ V 01 năm tù về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quA, tổ chức”.

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 55 Bộ luật hình sự, tổng hợp hình phạt chung của ba tội, buộc bị cáo Nguyễn Sỹ V phải chấp hành hình phạt chung là 17 năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 15/8/2019.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết Đ về tội dAh và hình phạt đối với các bị cáo khác, về bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng và quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 19/10/2021, bị cáo Nguyễn Sỹ V kháng cáo kêu oA.

Tại phiên tòa phúc thẩm: bị cáo vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo kêu oA.

Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao đề nghị không chấp nhận kháng cáo kêu oA của bị cáo, giữ nguyên bán án hình sự sơ thẩm số 45/2021/HS-ST ngày 12/10/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm. Căn cứ vào kết quả trAh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo và người tham gia tố tụng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Về hình thức đơn kháng cáo của bị cáo trong hạn luật Đ nên chấp nhận xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.

Bị cáo Nguyễn Sỹ V bị tòa án cấp sơ thẩm xử phạt 13 (mười ba) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 và 01 (một) năm tù về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quA, tổ chức” khoản 1 Điều 341 của Bộ Luật hình sự 2015 và 03 (ba) năm tù về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quA tổ chức” theo điểm b,c khoản 2 Điều 341 Bộ luật hình sự 2015.

Ngày 19/10/2021, bị cáo Nguyễn Sỹ V kháng cáo kêu oA.

[1] Nội dung vụ án: Để có tiền tiêu xài cá nhân, trong khoảng thời giA từ năm 2015 đến năm 2019 tại huyện Cư Jut tỉnh Đắk Nông, Nguyễn Sỹ V đã đưa ra thông tin giA dối là có nhiều mối quA hệ xã hội, có khả năng xin hoãn nghĩa vụ quân sự, xin vào làm việc tại các cơ quA nhà nước và làm được các loại giấy tờ hành chính nhà nước liên quA để chiếm đoạt tiền của 11 hộ dân với tổng số tiền 1.172.000.000 đồng bằng thủ đoạn là làm giả những loại giấy tờ như: bằng tốt nghiệp trung cấp chuyên nghiệp sư phạm mầm non và bảng điểm, chứng chỉ tiếng Ah, chứng chỉ tin học; bằng tốt nghiệp điều dưỡng và bảng kết quả học tập, ngoài ra chiếm đoạt của Ah Lê Văn Đ số tiền 150.000.000 đồng để xin cho chị Lê Thị S làm kế toán của cơ quA nhà nước trên địa bàn huyện Cư Jut. Chiếm đoạt của Nguyễn Đức A và Đoàn Thị Th số tiền 12.000.000 đồng để xin hoãn nghĩa vụ quân sự cho Nguyễn Đức B. Tổng số tiền chiếm đoạt là 1.172.000.000 đồng, số tài liệu V đã cùng với đồng phạm làm giả và sử dụng là 18 tài liệu gồm:

01 bằng tốt nghiệp trung học phổ thông; 03 bằng tốt nghiệp trung cấp sư phạm mầm non; 01 bằng tốt nghiệp cao đẳng; 04 chứng chỉ tin học, 04 chứng chỉ tiếng Ah; 03 bảng kết quả học tập; 01 giấy vào viện và 01 giấy xác nhận của bệnh viện. Từ kết quả điều tra, truy tố và xét xử của cấp sơ thẩm, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy hành vi của bị cáo Nguyễn Sỹ V đã đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quA, tổ chức; tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quA tổ chức”. Tội dAh và hình phạt được quy Đ tại điểm a khoản 4 Điều 174 và khoản 1, khoản 2 Điều 341 Bộ luật hình sự năm 2015 mà cấp sơ thẩm đã xét xử là đúng người, đúng tội không làm oA bị cáo. Do đó Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận đơn kháng cáo kêu oA của bị cáo.

[2] Nhận Đ của Hội đồng xét xử: xét thấy cấp sơ thẩm đã xét xử đúng người, đúng tội không làm oA bị cáo. Hình phạt mà cấp sơ thẩm đã tuyên là tương xứng với tính chất, hành vi và hậu quả mà bị cáo đã gây ra. Do đó, cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

[3] Tại phiên tòa ngày hôm nay vị đại diện Viện kiểm sát cấp cao đề nghị không chấp nhận kháng cáo kêu oA của bị cáo phù hợp với nhận Đ của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Do kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận nên phải chịu tiền án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a Điều 355, Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy bA thường vụ Quốc Hội quy Đ về việc thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Không chấp nhận kháng cáo kêu oA của bị cáo Nguyễn Sỹ V Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 45/2021/HS-ST ngày 12/10/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Sỹ V phạm tội “Lừa đảo, chiếm đoạt tài sản” và tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quA, tổ chức; tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quA tổ chức”.

- Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174 của Bộ luật hình sự năm 2015; điểm b, x, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ Luật hình sự năm 2015;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Sỹ V 13 (mười ba) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

- Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 341, điểm x khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Sỹ V 03 (ba) năm tù về tội “Làm giả tài liệu giả của cơ quA, tổ chức”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 341, điểm x khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ Luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Sỹ V 01 (một) năm tù về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quA, tổ chức”.

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 55 Bộ luật hình sự 2015, tổng hợp hình phạt chung cho 03 tội, buộc bị cáo Nguyễn Sỹ V phải chấp hành hình phạt chung là 17 (mười bảy) năm tù.

Thời hạn tù được tính từ ngày bắt tạm giam 15/8/2019.

2. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Sỹ V phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự phúc thẩm.

Tiếp tục tạm giam bị cáo Nguyễn Sỹ V để đảm bảo thi hành án.

Các quyết Đ khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

24
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo, chiếm đoạt tài sản số 354/2022/HS-PT

Số hiệu:354/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:23/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về