TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 353/2023/HS-PT NGÀY 28/08/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 28 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 338/2023/TLPT-HS ngày 14 tháng 7 năm 2023 đối với các bị cáo Lương Thị Diễm T và Nguyễn Thanh T1 về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”. Do có kháng cáo của các bị cáo, kháng cáo của bị hại và kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 40/2023/HS-ST ngày 02 tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi.
- Bị cáo có kháng cáo; bị kháng cáo, kháng nghị:
1. Lương Thị Diễm T; sinh ngày 02/02/1974, tại tỉnh Quảng Ngãi; nơi cư trú: Tổ C, phường N, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi; nghề nghiệp: Nhân viên công ty Đ2; trình độ văn hoá: 12/12; con ông Lương Thanh H (chết) và bà Nguyễn Thị H1; có chồng Tạ T2 và 02 con; tiền án, tiền sự: Không.
Bị bắt giam ngày 10/3/2021; có mặt.
2. Nguyễn Thanh T1; sinh ngày 23/10/1985, tại tỉnh Quảng Ngãi; nơi cư trú: Thôn P, thị trấn C, huyện N, tỉnh Quảng Ngãi; nghề nghiệp: Nguyên Phó giám đốc công ty Đ2; trình độ văn hoá: 12/12; con ông Nguyễn Ngọc T3 và bà Đoàn Thị K; có vợ Phạm Thị Ngọc Á (Đã ly hôn) và 01 con; tiền án, tiền sự: Không.
Bị bắt giam ngày 10/3/2021. Có mặt.
- Người bào chữa cho các bị cáo theo yêu cầu của Toà án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng:
+ Người bào chữa cho bị cáo Lương Thị Diễm T: Bà Nguyễn Thị Bích T4, luật sư, Văn phòng L4 thuộc Đoàn luật sư tỉnh Q; có mặt.
+ Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thanh T1: Ông Trần Đức N, luật sư, Văn phòng L5 thuộc Đoàn luật sư tỉnh Q; có mặt.
- Những người tham gia tố tụng khác có kháng cáo hoặc có liên quan đến kháng cáo:
Người bị hại:
+ Bà Bùi Thị Diễm L, sinh năm 1970; Trú tại: D T, phường N, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi; có mặt.
+ Bà Hồ Thị Kim T5, sinh năm 1960; Trú tại: I T, phường N, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi; vắng mặt.
+ Bà Mai Thị T6, sinh năm 1972; trú tại: A Q, phường L, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi; vắng mặt.
+ Bà Võ Thị L1, sinh năm 1960; Trú tại: I P, phường C, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi; có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bà Bùi Thị Diễm L, Hồ Thị Kim T5, Mai Thị T6, Võ Thị L1: Ông Nguyễn Xuân V, luật sư, công ty L6 và cộng sự thuộc Đoàn luật sư thành phố Đ; có mặt.
+ Bà Trương Thị Bích V1, sinh năm 1963; trú tại: Tổ A, phường N, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi; vắng mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Ông Phạm Văn T7, sinh năm 1976; trú tại: 4 N, phường H, quận H, thành phố Đà Nẵng; có đơn xin xét xử vắng mặt.
+ Ông Phạm Đình N1, sinh năm 1977; trú tại: Tổ C, phường N, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi; có đơn xin xét xử vắng mặt.
Ngoài ra, trong vụ án còn có một số người tham gia tố tụng khác không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị nên Toà án cấp phúc thẩm không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
* Về tư cách pháp nhân của Công ty Đ2: Công ty Đ2 được thành lập theo Giấy đăng ký hoạt động của doanh nghiệp đấu giá tài sản số 02/TP-ĐKHĐ do Sở Tư pháp tỉnh Quảng Ngãi cấp ngày 08/11/2017; ngành nghề kinh doanh: Đấu giá tài sản, địa chỉ giao dịch tại tổ H, phường N, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi.
- Về thành viên Ban giám đốc gồm:
+ Ông Phạm Văn T7 - Giám đốc, sinh ngày 22/3/1976, trú tại số A, đường L, phường T, thành phố H, tỉnh Quảng Nam.
+ Nguyễn Thanh T1 - Phó giám đốc, sinh năm 1985, trú tại thị trấn C, huyện N, tỉnh Quảng Ngãi.
- Về thành viên hợp danh gồm:
+ Ông Phạm Văn T7 - Giám đốc, sinh ngày 22/3/1976, trú tại số A, đường L, phường T, thành phố H, tỉnh Quảng Nam.
+ Ông Nguyễn Tấn K1, sinh năm 1978, đăng ký hộ khẩu thường trú tại: Số A đường N, phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng. Đến ngày 06/5/2020 chấm dứt tư cách thành viên hợp danh với ông Nguyễn Tấn K1 và bổ sung thành viên hợp danh là ông Phạm Đình N1, sinh năm 1977, trú tại phường N, thành phố Q. Ông N1 được bầu giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng thành viên kiêm Phó giám đốc công ty.
Công ty đăng ký vốn điều lệ là 1.000.000.000 đồng, thành viên góp vốn gồm: Ông Phạm Văn T7 góp 200.000.000 đồng (chiếm tỷ lệ 20%), ông Phạm Đình N1 góp 450.000.000 đồng (chiếm tỷ lệ 45%), bà Phạm Lương Anh T8 góp 350.000.000 đồng (chiếm tỉ lệ 35%).
Khi thành lập Công ty Đ2, ông T7 thống nhất với ông Phạm Đình N1, Nguyễn Thanh T1 là ông Phạm Văn T7 đứng tên đại diện theo pháp luật của Công ty, chức danh giám đốc vì ông Phạm Văn T7 có thẻ đấu giá viên (theo quy định Giám đốc Công ty phải là đấu giá viên). Mặc dù ông Phạm Văn T7 là giám đốc Công ty Đ2 nhưng do nhà ở thành phố H nên ông Phạm Văn T7 không thường xuyên có mặt tại Quảng Ngãi để điều hành hoạt động của công ty nên ông T7 bổ nhiệm Nguyễn Thanh T1 giữ chức vụ Phó giám đốc công ty K4 từ ngày 08/11/2017; đồng thời ông Phạm Văn T7 ủy quyền cho Nguyễn Thanh T1 được ký các văn bản, tài liệu của Công ty; ủy quyền cho Nguyễn Thanh T1 làm phó chủ tài khoản ký các chứng từ giao dịch với ngân hàng. Đến ngày 10/9/2019, ông Phạm Văn T7 ban hành Quyết định số 109/19/QĐ.NS và Thông báo số 109.19/TB về việc miễn nhiệm chức danh Phó giám đốc công ty đối với Nguyễn Thanh T1, chấm dứt việc ủy quyền giữa ông Phạm Văn T7 - Giám đốc với Nguyễn Thanh T1, đồng thời bổ nhiệm ông Phạm Đình N1 giữ chức vụ Phó giám đốc công ty T10 cho Nguyễn Thanh T1. Tuy nhiên, Nguyễn Thanh T1 khai là giữ chức vụ Phó giám đốc công ty Đ2 từ khi thành lập đến tháng 03/2021. Còn việc ông Phạm Văn T7 ra quyết định miễn nhiệm chức vụ Phó giám đốc, chấm dứt việc ủy quyền phó chủ tài khoản đối với T1 thì T1 không biết việc này. T1 cũng không nhận được quyết định miễn nhiệm và thông báo chấm dứt ủy quyền nói trên nên vẫn tiếp tục thực hiện các công việc mà ông T7 đã ủy quyền.
* Về tài khoản giao dịch của Công ty Đ2: Công ty Đ2 đăng ký mở tài khoản ngày 16/01/2018; số điện thoại nhận thông báo biến động số dư tài khoản là số 0943.888.xxx (là số điện thoại di động của Nguyễn Thanh T1). Ông Phạm Văn T7 - Giám đốc ủy quyền cho Nguyễn Thanh T1 giao dịch toàn bộ hoạt động liên quan đến tài khoản mở tại S - Chi nhánh tỉnh Q, việc ủy quyền này có hiệu lực từ tháng 01/2018 đến tháng 01/2048.
Khi mở tài khoản thì T1 lấy mẫu hợp đồng đăng ký mở tài khoản (do Ngân hàng S - Chi nhánh tỉnh Q cung cấp) về đưa cho ông Phạm Văn T7 ký vào mục giám đốc (ông T7 ký vào mẫu chưa được ghi thông tin đăng ký mở tài khoản) rồi đưa lại cho T1 mang đến ngân hàng S - Chi nhánh tỉnh Q đưa cho nhân viên ngân hàng, T1 cung cấp thông tin về chủ tài khoản, người được ủy quyền, cung cấp số điện thoại được nhận thông báo phát sinh số dư tài khoản (là số điện thoại di động của T1) để nhân viên ngân hàng ghi vào đơn đăng ký mở tài khoản. Do vậy, kể từ tháng 01/2018 đến tháng 02/2021, Nguyễn Thanh T1 là người trực tiếp ký chứng từ giao dịch với ngân hàng và được ngân hàng thông báo biến động số dư tài khoản đến số điện thoại 0943.888.xxx của T1 để T1 theo dõi. Do không đăng ký biến động số dư tài khoản nên từ tháng 01/2018 đến tháng 02/2021, ông Phạm Văn T7 và ông Phạm Đình N1 không được ngân hàng thông báo biến động số dư tài khoản của Công ty Đ2 mở tại ngân hàng.
* Hành vi Lừa đảo chiếm đoạt tài sản của các bị cáo Lương Thị Diễm T, Nguyễn Thanh T1: Từ khi thành lập (ngày 08/11/2017) đến tháng 02/2021, Công ty Đ2 chỉ ký hợp đồng và tổ chức bán đấu giá một lần duy nhất, cụ thể vào năm 2018, Công ty ký hợp đồng với UBND phường C, thành phố Q để tổ chức bán đấu giá 04 lô đất ở Khu D thuộc tổ B, phường C, thành phố Q. Ngoài ra, Công ty Đ2 không tổ chức bán đấu giá tài sản nào khác.
Tuy nhiên, vì cần tiền trả nợ và tiêu xài nên từ tháng 6/2019 đến tháng 02/2021, Lương Thị Diễm T là nhân viên công ty C2 cùng với Nguyễn Thanh T1 - Phó giám đốc công ty thực hiện hành vi làm giả Quy chế đấu giá tài sản, Thông báo nộp tiền đặt trước rồi T sử dụng giấy tờ này gặp gỡ tư vấn cho một số người thân quen làm họ tưởng là thật nên nộp tiền vào tài khoản Công ty Đ2, sau đó rút ra chiếm đoạt, cụ thể:
1. Đưa ra thông tin gian dối về việc đấu giá lô đất KL 157 Huỳnh Thúc K2, thành phố Q để chiếm đoạt tiền của ông Nguyễn Văn P và bà Nguyễn Thị Kim L2: Công ty Đ2 không ký hợp đồng để tổ chức bán đấu giá đối với lô đất KL 157 Huỳnh Thúc K2, nhưng Lương Thị Diễm T đã đưa ra thông tin gian dối, không có thật với ông Nguyễn Văn Đ là Công ty Đ2 chuẩn bị tổ chức bán đấu giá lô đất KL 157 Huỳnh Thúc K2, lô đất này đã có người muốn mua, giờ nộp tiền đặt trước vào tài khoản Công ty Đ2 sẽ được người mua chi tiền dàn xếp đấu giá với số tiền 400.000.000 đồng/l hồ sơ. T nói với ông Đ “nếu có người quen muốn làm ăn kiểu này thì nói họ nộp tiền vào Công ty đăng ký đấu giá để được hưởng tiền dàn xếp hồ sơ”. Bên cạnh đưa ra lời nói gian dối thì Lương Thị Diễm T còn yêu cầu Nguyễn Thanh T1 làm giả Quy chế đấu giá và Thông báo đặt trước của lô đất này và chụp gửi qua tin nhắn zalo cho ông Nguyễn Văn Đ xem. Sau khi xem, ông Nguyễn Văn Đ tưởng là thật nên đã nói cho bà Nguyễn Thị Kim L2 và ông Nguyễn Văn P (là người thân của ông Đ) về việc đấu giá lô đất nói trên; bà Nguyễn Thị Kim L2 và ông Nguyễn Văn P tin tưởng vào ông Nguyễn Văn Đ nên ngày 17/9/2020, bà Nguyễn Thị Kim L2 nộp 3.465.000.000 đồng vào tài khoản của Công ty với nội dung “nộp tiền đặt trước đấu giá Lô KL 157 Huỳnh Thúc Kháng”; ngày 18/9/2020, ông Nguyễn Văn P nộp 3.465.000.000 đồng vào tài khoản của Công ty với nội dung “nộp tiền đặt trước đấu giá Lô KL 157 Huỳnh Thúc K2”. Ngay sau khi bà Nguyễn Thị Kim L2 và ông Nguyễn Văn P nộp tiền vào tài khoản Công ty, theo yêu cầu của T, T1 đến ngân hàng S Chi nhánh tỉnh Q ký sét rút tiền mặt làm thủ tục rút số tiền trên rồi sử dụng như sau:
+ Ngày 17/9/2020, Nguyễn Thanh T1 rút 3.463.000.000 đồng, T1 khai đưa toàn bộ số tiền này cho T sử dụng (đưa tiền cho ông Tạ Thành c của T nhận đưa lại cho T, ông T2 xác nhận có nhận tiền). Tuy nhiên, T khai sau khi rút 3.463.000.000 đồng, T1 lấy 500.000.000 đồng cho cá nhân, còn lại 2.963.000.000 đồng T1 đưa cho T sử dụng. Số tiền 2.963.000.000 đồng này, T sử dụng vào việc trả nợ vay của bà Lê Thị H2 2.563.000.000 đồng (không viết giấy tờ gì), còn lại 400.000.000 đồng T khai đưa cho ông Nguyễn Văn Đ nhờ ông Đ đưa lại cho bà Nguyễn Thị Kim L2 (gọi là tiền dàn xếp đấu giá), đưa tiền không viết giấy tờ gì. Tuy nhiên, ông Nguyễn Văn Đ khai chỉ nhận của T 100.000.000 đồng rồi đưa cho bà L2. Đối chất giữa ông Nguyễn Văn Đ với Lương Thị Diễm T thì ông Đ xác định nhận của T 100.000.000 đồng. Bà Nguyễn Thị Kim L2 khai nhận 100.000.000 đồng từ ông Nguyễn Văn Đ. + Ngày 18/9/2020, Nguyễn Thanh T1 rút 3.465.000.000 đồng, T1 khai đưa toàn bộ số tiền trên cho T sử dụng (đưa tiền cho ông Tạ Thành c của T nhận đưa lại cho T, ông T2 xác nhận có nhận tiền). Tuy nhiên, T khai sau khi rút 3.465.000.000 đồng, T1 lấy 500.000.000 đồng cho cá nhân, còn lại 2.965.000.000 đồng T1 đưa cho T sử dụng. Số tiền 2.965.000.000 đồng này, T sử dụng vào việc trả nợ vay của bà Lê Thị H2 2.563.000.000 đồng (không viết giấy tờ gì), còn lại 400.000.000 đồng T khai đưa cho ông Nguyễn Văn Đ nhờ ông Đ đưa lại cho ông Nguyễn Văn P (gọi là tiền dàn xếp đấu giá), đưa tiền không viết giấy tờ gì. Tuy nhiên, ông Nguyễn Văn Đ khai chỉ nhận của T 100.000.000 đồng rồi đưa cho ông P. Đối chất giữa ông Nguyễn Văn Đ với Lương Thị Diễm T thì ông Đ xác định nhận của T 100.000.000 đồng. Ông Nguyễn Văn P khai nhận 100.000.000 đồng từ ông Nguyễn Văn Đ. Như vậy, số T, Nguyễn Thanh T1 đã chiếm đoạt của ông Nguyễn Văn P và bà Nguyễn Thị Kim L2 là 6.930.000.000 đồng.
2. Đưa ra thông tin gian dối về việc đấu giá lô đất D092 T, thành phố Q để chiếm đoạt tiền của bà Nguyễn Thị Kim L2: Lương Thị Diễm T đưa ra thông tin gian dối, không có thật với ông Nguyễn Văn Đ là Công ty Đ2 chuẩn bị tổ chức bán đấu giá lô đất D092 Trường Chinh, lô đất này đã có người muốn mua, giờ nộp tiền đặt trước vào tài khoản Công ty Đ2 sẽ được người mua chi tiền dàn xếp 400.000.000 đồng/1 hồ sơ. Bên cạnh đưa ra lời nói gian dối thì Lương Thị Diễm T còn yêu cầu Nguyễn Thanh T1 làm giả Quy chế đấu giá và Thông báo đặt trước của lô đất này và chụp gửi qua tin nhắn zalo cho ông Nguyễn Văn Đ xem. Sau khi xem, ông Nguyễn Văn Đ tưởng là thật nên đã nói lại với bà Nguyễn Thị Kim L2 về việc đấu giá lô đất nói trên. Vì trước đó, bà Nguyễn Thị Kim L2 đã nộp tiền đặt trước đối với lô đất KL 157 Huỳnh Thúc K2 và đã được T chi tiền dàn xếp hồ sơ nên bà Nguyễn Thị Kim L2 tin tưởng, ngày 29/9/2020 bà Nguyễn Thị Kim L2 nộp 3.850.000.000 đồng vào tài khoản Công ty Đ2, nội dung “nộp tiền đặt trước đấu giá D092 Trường Chinh”.
Ngay sau khi bà Nguyễn Thị Kim L2 nộp 3.850.000.000 đồng vào tài khoản Công ty, theo yêu cầu của T thì T1 ký séc rút tiền mặt để rút toàn bộ 3.850.000.000 đồng này ra, T1 khai T1 đưa toàn bộ số tiền 3.850.000.000 đồng cho Lương Thị Diễm T sử dụng (đưa tiền cho ông Tạ Thành c của T nhận đưa lại cho T, ông T2 xác nhận có nhận tiền). Tuy nhiên, T khai sau khi rút 3.850.000.000 đồng, T1 lấy 500.000.000 đồng sử dụng cá nhân, còn lại 3.350.000.000 đồng T sử dụng như sau: T trả 2.950.000.000 đồng cho người đặt trước đấu giá ở lô đất khác nhưng đã bị T chiếm đoạt trước đó (không nhớ trả cho ai, số tiền cụ thể từng người bao nhiêu), còn lại 400.000.000 đồng T khai đưa cho ông Nguyễn Văn Đ nhờ ông Đ đưa lại cho bà Nguyễn Thị Kim L2 (gọi là tiền dàn xếp đấu giá, đưa tiền không viết giấy tờ gì). Tuy nhiên, ông Nguyễn Văn Đ khai chỉ nhận của T 100.000.000 đồng rồi đưa cho bà L2. Đối chất giữa ông Nguyễn Văn Đ với Lương Thị Diễm T thì ông Đ xác định nhận của T 100.000.000 đồng. Bà Nguyễn Thị Kim L2 khai nhận 100.000.000 đồng từ ông Nguyễn Văn Đ. Như vậy, Lương Thị Diễm T và Nguyễn Thanh T1 đưa thông tin gian dối về việc đấu giá lô đất D092 Trường Chinh để chiếm đoạt của bà Nguyễn Thị Kim L2 3.850.000.000 đồng.
3. Đưa ra thông tin gian dối về việc đấu giá đối với căn nhà tại số C Q, thành phố Q để chiếm đoạt tiền của bà Lê Thị H2, ông Trần Việt K3, bà Bùi Thị Diễm L: Lương Thị Diễm T đã đưa ra thông tin gian dối, không có thật với bà Lê Thị H2, ông Trần Việt K3 và bà Bùi Thị Diễm L là Công ty Đ2 chuẩn bị tổ chức bán đấu giá căn nhà C Q, thành phố Q; T còn nói đây là cuộc đấu giá kín, căn nhà này đã có người muốn mua, giờ nộp tiền đặt trước vào tài khoản Công ty Đ2 sẽ được người mua chi tiền dàn xếp 100.000.000 đồng/1 hồ sơ. Bên cạnh đưa ra lời nói gian dối thì Lương Thị Diễm T còn yêu cầu Nguyễn Thanh T1 làm giả Quy chế đấu giá, Thông báo đặt trước, Thông báo thay đổi thời gian đấu giá, Thông báo về việc trả tiền đặt cọc cho khách hàng và Quyết định chỉ định thầu của lô đất này làm họ tưởng thật nộp tiền vào tài khoản công ty, cụ thể:
+ Ngày 22/01/2021, bà Lê Thị H2 nộp 4.592.000.000 đồng với nội dung “nộp tiền đặt trước căn nhà số C Q”; + Ngày 26/01/2021, ông Trần Việt K3 nộp 2 lần với tổng số tiền 4.529.000.000 đồng với nội dung “nộp tiền đặt trước căn nhà số C Q”. + Ngày 04/02/2021 và ngày 05/02/2021, bà Bùi Thị Diễm L nộp tổng số tiền 9.058.000.000 đồng với nội dung “nộp tiền đặt trước căn nhà số C Q”, trong đó, bà Bùi Thị Diễm L nhờ bà Đồng Thị M đứng nộp 4.529.000.000 đồng, bà Bùi Thị Diễm L trực tiếp nộp 4.529.000.000 đồng (gồm tiền của bà L là 3.429.000.000 đồng, tiền của Lương Thị Diễm T đưa cho bà L là 1.100.000.000 đồng). T khai sau khi bà L nộp tiền vào tài khoản công ty thì T đã chi cho bà L 500.000.000 đồng/04 hồ sơ tiền lời từ việc dàn xếp hồ sơ, T chi trước cho bà L sau đó sẽ nhận lại của người trúng đấu giá (việc đưa tiền này không viết giấy tờ gì). Tuy nhiên, bà L khai chỉ nhận được 200.000.000 đồng. Tiến hành đối chất giữa Lương Thị Diễm T với bà Bùi Thị Diễm L thì bà L khẳng định chỉ nhận của T 200.000.000 đồng.
Sau khi các cá nhân trên nộp tiền vào tài khoản Công ty, theo yêu cầu của T, T1 đến ngân hàng rút toàn bộ số tiền trên và được sử dụng như sau:
+ Ngày 22/01/2021, bà Lê Thị H2 nộp 4.592.000.000 đồng, theo yêu cầu của T, T1 rút số tiền này và nộp vào tài khoản của bà Võ Thị L1 2.340.000.000 đồng để trả lại số tiền mà bà L1 đã nộp đặt trước đấu giá lô đất mặt tiền đường P, phường L, thành phố Q (bà L1 nộp ngày 14/01/2021) nhưng bị T chiếm đoạt trước đó. Còn lại 2.252.000.000 đồng cộng với 88.000.000 đồng còn trong tài khoản (do người khác nộp đấu giá) thành 2.340.000.000 đồng, T1 ký séc rút 2.340.000.000 đồng nộp vào tài khoản của bà Mai Thị T6 2.340.000.000 đồng để trả lại tiền cho bà T6 đặt trước đấu giá lô đất mặt tiền đường P, phường L, thành phố Q (bà H3 nộp thay ngày 14/01/2021) nhưng đã bị T chiếm đoạt trước đó. Lương Thị Diễm T đã trả lại cho bà Lê Thị H2 63.000.000 đồng (trả trước thời điểm bị phát hiện), còn lại chiếm đoạt 4.529.000.000 đồng.
+ Ngày 26/01/2021, ông Trần Việt K3 nộp 4.529.000.000 đồng, theo yêu cầu của T, T1 ký séc rút tiền mặt rồi mang đến ngân hàng làm thủ tục rút 4.527.000.000 đồng (còn lại 2.000.000 đồng ngân hàng thu phí). Theo đề nghị của T, T1 nộp vào tài khoản của bà Nguyễn Thị Xuân Y 1.875.000.000 đồng để trả lại tiền cho bà Y đặt trước đấu giá căn nhà số H P, phường L, thành phố Q (bà Y nộp ngày 15/01/2021, có phiếu thu tiền) nhưng đã bị T chiếm đoạt trước đó; T1 nộp 2.000.000.000 đồng vào tài khoản của ông Đỗ Vũ Thanh P1 để trả lại tiền cho ông P1 đặt trước đấu giá lô đất tại địa chỉ số C đường T, thành phố Q (ông P1 nộp ngày 08/01/2021) nhưng bị T chiếm đoạt trước đó. Còn lại 652.000.000 đồng cộng với 2.848.000.000 đồng dư trong tài khoản công ty (do người khác nộp vào để đấu giá) thành 3.500.000.000 đồng, T1 rút ra rồi nộp vào tài khoản của bà Nguyễn Thị Hồng V2 (em gái của bà Nguyễn Thị Hồng P2) để trả nợ tiền mà T đã vay của bà P2 trước đó.
+ Ngày 04/02/2021 và ngày 05/02/2021, bà Bùi Thị Diễm L nộp tổng cộng 9.058.000.000 đồng vào tài khoản công ty; trong ngày 05/02/2021 theo yêu cầu của T, T1 ký séc rút tiền mặt rồi mang đến ngân hàng làm thủ tục rút 9.058.000.000 đồng. Sau khi rút 9.058.000.000 đồng, theo yêu cầu của T, T1 nộp vào tài khoản của bà Mai Thị T6 3.282.000.000 đồng để trả lại số tiền mà bà T6 đã đặt trước đấu giá căn nhà số E Q (bà T6 nộp ngày 25/01/2021) nhưng bị T chiếm đoạt trước đó; còn lại 5.775.000.000 đồng nộp vào tài khoản bà Lê Thị Hoàng C (cháu của T). Sau đó theo yêu cầu của T, bà Lê Thị Hoàng C chuyển khoản cho ông Lê Như L3 4.529.000.000 đồng để trả lại số tiền mà ông L3 đã đặt trước để đấu giá căn nhà số C Q, thành phố Q (nộp ngày 01/02/2021) nhưng đã bị T chiếm đoạt. Còn lại 1.246.000.000 đồng bà C rút ra đưa T sử dụng trả nợ vay của bà Nguyễn Thị Hồng P2. Như vậy, Lương Thị Diễm T và Nguyễn Thanh T1 đưa thông tin gian dối về việc đấu giá căn nhà tại số C Q, thành phố Q để chiếm đoạt của bà Lê Thị H2, ông Trần Việt K3, bà Bùi Thị Diễm L 17.016.000.000 đồng (17.079.000.000 đồng bị hại nộp vào Công ty - 63.000.000 đồng T trả lại cho bà Lê Thị H2).
4. Đưa ra thông tin gian dối về việc đấu giá đối với lô đất 84 P, thành phố Q để chiếm đoạt tiền của ông Lê Văn H4: Lương Thị Diễm T đã đưa ra thông tin gian dối, không có thật với ông Lê Văn H4 là Công ty Đ2 chuẩn bị tổ chức bán đấu giá lô đất 84 P, T còn nói đây là đấu giá kín, lô đất này đã có người muốn mua, giờ nộp tiền đặt trước vào tài khoản Công ty Đ2 sẽ được người mua chi tiền dàn xếp đấu giá. Ông Lê Văn H4 nói không đủ tiền thì T nói góp vốn cùng để chia nhau. Bên cạnh đưa ra lời nói gian dối thì Lương Thị Diễm T còn yêu cầu Nguyễn Thanh T1 làm giả Quy chế đấu giá và Thông báo đặt trước của lô đất này và gửi cho ông Lê Văn H4 xem. Sau khi xem giấy tờ trên, đồng thời trước đó ông H4 cũng đã từng nộp tiền đặt trước đấu giá vào Công ty Đ2 để đăng ký đấu giá, đã được T chi tiền dàn xếp hồ sơ và được nhận lại tiền đặt trước đúng thời hạn nên ông Lê Văn H4 tưởng là thật nên ngày 26/01/2021 đã góp 1.528.000.000 đồng cùng với 950.000.000 đồng của Lương Thị Diễm T đưa tổng cộng là 2.478.000.000 đồng nộp vào tài khoản Công ty Đ2 với nội dung “nộp tiền đặt trước đấu giá lô đất 84 P”. Sau khi ông Lê Văn H4 chuyển số tiền trên vào tài khoản Công ty thì T chi cho ông H4 100.000.000 đồng tiền dàn xếp hồ sơ. T chi trước cho H4 sau đó sẽ nhận lại của người trúng đấu giá.
Ngay sau khi ông Lê Văn H4 nộp 2.478.000.000 đồng, cộng với số tiền còn dư trong tài khoản Công ty (do người khác nộp vào đấu giá), tổng cộng là 3.500.000.000 đồng, theo yêu cầu của T, T1 ký séc rút tiền mặt rồi nộp vào tài khoản của của bà Nguyễn Thị Hồng V2 (em gái của bà Nguyễn Thị Hồng P2) để trả nợ tiền mà T đã vay của bà P2 trước đó.
Như vậy, Lương Thị Diễm T và Nguyễn Thanh T1 đưa thông tin gian dối về việc đấu giá lô đất 84 Q, thành phố Q để chiếm đoạt của ông Lê Văn H4 1.528.000.000 đồng (Đã trừ số tiền T đưa 950.000.000 đồng).
5. Đưa ra thông tin gian dối về việc đấu giá đối với lô đất mặt tiền đường T, thành phố Q để chiếm đoạt tiền của ông Lê Văn H4, bà Mai Thị T6, bà Võ Thị L1, bà Hồ Thị Kim T5, bà Trương Thị Quỳnh N2, bà Trương Thị Bích V1: Lương Thị Diễm T đã đưa ra thông tin gian dối, không có thật với ông Lê Văn H4, bà Mai Thị T6, bà Võ Thị L1, bà Hồ Thị Kim T5, bà Trương Thị Bích V1, bà Trương Thị Quỳnh N2 là Công ty Đ2 chuẩn bị tổ chức bán đấu giá lô đất mặt tiền đường T, thành phố Q; T còn nói đây là cuộc đấu giá kín, lô đất này đã có người muốn mua, giờ nộp tiền đặt trước vào tài khoản Công ty Đ2 sẽ được người mua chi tiền dàn xếp với 100.000.000 đồng/1 hồ sơ. Bên cạnh đưa ra lời nói gian dối thì Lương Thị Diễm T còn yêu cầu Nguyễn Thanh T1 làm giả Quy chế đấu giá, Thông báo đặt trước để T đưa cho họ xem; đồng thời trước đó họ cũng đã từng nộp tiền đặt trước đấu giá vào Công ty Đ2 để đăng ký đấu giá, đã được T chi tiền dàn xếp hồ sơ và được nhận lại tiền đặt trước đúng thời hạn nên họ tưởng thật nộp tiền vào tài khoản Công ty, cụ thể:
+ Ngày 27/01/2021, ông Lê Văn H4 nộp 1.500.000.000 đồng với nội dung “nộp tiền đặt trước đấu giá lô đất MT đường Trương Định”.
+ Ngày 28/01/2021, bà Mai Thị T6 nộp 3.150.000.000 đồng (trong đó tiền của bà T6 góp 2.150.000.000 đồng, T đưa cho bà T6 1.000.000.000 đồng thành 3.150.000.000 đồng cho đủ số tiền đặt trước) với nội dung “nộp tiền đặt trước đấu giá lô đất MT đường Trương Định”. Bà T6 khai sau khi nộp số tiền trên vào tài khoản Công ty thì được Lương Thị Diễm T chi 70.000.000 đồng.
+ Ngày 28/01/2021, ông Trần Văn D nộp thay cho bà Võ Thị L1 2.150.000.000 đồng. Ngày 29/01/2021, bà Võ Thị L1 nộp 1.000.000.000 đồng với nội dung “nộp tiền đặt trước đấu giá lô đất MT đường Trương Định”. Tổng cộng số tiền bà Võ Thị L1 nộp là 3.150.000.000 đồng. Sau khi nộp số tiền trên vào tài khoản Công ty thì được Lương Thị Diễm T chi 429.000.000 đồng tiền dàn xếp hồ sơ (bà L1 ký nhận trong sổ tay của T). + Ngày 29/01/2021, bà Hồ Thị Kim T5 nộp 3.150.000.000 đồng với nội dung “nộp tiền đặt trước đấu giá lô đất MT đường Trương Định”. Bà T5 trình bày sau khi nộp số tiền trên vào tài khoản Công ty thì được Lương Thị Diễm T chi 101.000.000 đồng tiền dàn xếp hồ sơ.
+ Ngày 01/02/2021, ông Nguyễn Văn Đ1 nộp 3.150.000.000 đồng với nội dung “nộp tiền đặt trước đấu giá lô đất MT đường Trương Định”; ngày 01/02/2021, ông Võ Văn B nộp 1.500.000.000 đồng với nội dung “nộp tiền đặt trước đấu giá lô đất MT đường Trương Định”. Người nộp tiền là ông Nguyễn Văn Đ1 (con rể bà T5) và ông Võ Văn B (con bà T5) nhưng thực tế ông Nguyễn Văn Đ1 và ông Võ Văn B chỉ đứng tên nộp cho bà T5 còn tiền là của bà T5. Bà T5 khai sau khi nộp số tiền trên vào tài khoản Công ty thì được Lương Thị Diễm T chi 170.000.000 đồng tiền dàn xếp hồ sơ. Tuy nhiên, T khai chi 238.000.000 đồng (không viết giấy tờ gì). Đối chất giữa Lương Thị Diễm T với bà Hồ Thị Kim T5 thì bà T5 khẳng định chỉ nhận của T 170.000.000 đồng.
+ Ngày 18/02/2021, bà Trương Thị Quỳnh N2 nộp 1.400.000.000 đồng (trong đó bà N2 góp 600.000.000 đồng, bà Trương Thị Bích V1 - cô ruột của bà N2 góp 800.000.000 đồng) với nội dung “nộp tiền đặt trước đấu giá lô MT đường Trương Định”.
Sau khi các cá nhân trên nộp tổng số tiền 17.000.000.0000 đồng vào tài khoản Công ty theo yêu cầu của Lương Thị Diễm T, T1 ký séc rút tiền mặt rồi mang đến ngân hàng làm thủ tục rút 17.000.000.000 đồng này ra sử dụng như sau:
+ Ngày 27/01/2021, ông Lê Văn H4 nộp 1.500.000.000 đồng, ngay trong ngày 27/01/2021, T1 rút 1.500.000.000 đồng này ra, cùng với 375.000.000 đồng T đưa thêm cho T1 thành 1.875.000.000 đồng (1.500.000.000 đồng + 375.000.000 đồng), theo yêu cầu của T, T1 nộp vào tài khoản của bà Võ Thị L1 để trả lại tiền bà L1 đặt trước đấu giá lô mặt tiền đường P (bà L1 nộp ngày 18/01/2021) nhưng bị T chiếm đoạt trước đó.
+ Số tiền ngày 28/01/2021, bà Mai Thị T6 nộp 3.150.000.000 đồng, ông Trần Văn D nộp thay cho bà Võ Thị L1 2.150.000.000 đồng. Tổng cộng 5.300.000.000 đồng; theo yêu cầu của T, cùng ngày T1 rút 5.298.000.000 đồng (còn lại 2.000.000 đồng ngân hàng thu phí đếm tiền mặt), T1 nộp vào tài khoản Phạm Lệ T9 1.875.000.000 đồng để trả lại cho Phạm Lệ T9 đặt trước đấu giá đối với lô đất mặt tiền đường P (P nộp ngày 18/01/2021) nhưng bị T chiếm đoạt trước đó; T1 nộp vào tài khoản của bà Mai Thị T6 1.875.000.000 đồng để trả lại cho bà T6 đặt trước đấu giá đối với lô đất mặt tiền đường P (bà T6 nộp ngày 15/01/2021) nhưng bị T chiếm đoạt trước đó. Còn lại 1.548.000.000 đồng, T1 khai đưa cho T sử dụng (lúc đưa tiền không có viết giấy tờ gì).
+ Số tiền ngày 29/01/2021, bà Võ Thị L1 nộp 1.000.000.000 đồng và bà Hồ Thị Kim T5 nộp 3.150.000.000 đồng. Sau khi hai khoản tiền trên vào tài khoản công ty, theo yêu cầu của T, T1 lập ủy nhiệm chi chuyển khoản cho bà Trương Thị Bích V1 2.765.000.000 đồng để trả lại cho bà V1 đặt trước đấu giá đối với lô đất khác mà T đã chiếm đoạt trước đó, còn lại 1.383.000.000 đồng chuyển vào tài khoản của bà Tạ Lương Diễm D1 (con gái của T).
+ Số tiền ngày 01/02/2021, ông Nguyễn Văn Đ1 nộp 3.150.000.000 đồng, ông Võ Văn B nộp 1.500.000.000 đồng, tổng cộng 4.650.000.000 đồng. Cùng ngày, theo yêu cầu của T, T1 ký séc làm thủ tục rút 4.847.000.000 đồng (gồm 4.650.000.000 đồng nêu trên cộng với 197.000.000 đồng còn tồn trong tài khoản công ty do ông Lê Như L3 nộp vào để đấu giá trước đó). Sau khi rút 4.847.000.000 đồng, theo yêu cầu của T, T1 nộp vào tài khoản của bà Nguyễn Thị Hồng V2 3.000.000.000 đồng để trả nợ vay cho T, T1 nộp 1.840.000.000 đồng vào tài khoản của bà Tạ Lương Diễm D1 (con gái T), còn lại 7.000.000 đồng T1 sử dụng cá nhân.
+ Số tiền ngày 18/02/2021, bà Trương Thị Quỳnh N2 nộp 1.400.000.000 đồng vào tài khoản công ty, theo đề nghị của T, T1 rút hết số tiền này rồi đưa cho T sử dụng cá nhân (đưa tại quán C3, khu B, không có viết giấy tờ gì).
Như vậy, Lương Thị Diễm T và Nguyễn Thanh T1 đưa thông tin gian dối về việc đấu giá lô đất mặt tiền đường T, phường T để chiếm của ông Lê Văn H4, bà Mai Thị T6, bà Võ Thị L1, bà Hồ Thị Kim T5, bà Trương Thị Quỳnh N2, bà Trương Thị Bích V1 với tổng số tiền 16.000.000.000 đồng (17.000.000.000 đồng - 1.000.000.000 đồng T góp).
6. Đưa ra thông tin gian dối về việc đấu giá đối với căn nhà 388 Q để chiếm đoạt tiền của ông Nguyễn Ngọc Á1: Lương Thị Diễm T đưa ra lời nói gian dối, không có thật với ông Nguyễn Ngọc Á1 là Công ty Đ2 chuẩn bị tổ chức đấu giá căn nhà 388 Q nói trên; T còn nói đây là đấu giá kín, đã có người muốn mua, chỉ cần nộp tiền đặt trước vào tài khoản công ty thì được chi tiền dàn xếp đấu giá. Bên cạnh đưa ra lời nói gian dối trên thì T còn yêu cầu T1 làm giả Quy chế đấu giá và Thông báo đặt trước của căn nhà nói trên để cho T sử dụng gửi cho ông Nguyễn Ngọc Á1 xem để ông Á1 tưởng là thật nên ngày 22/02/2021 ông Á1 nộp 2.480.000.000 đồng vào tài khoản Công ty Đ2 với nội dung “nộp tiền đặt trước đấu giá căn nhà số C Q”. Sau khi nộp số tiền trên vào tài khoản Công ty thì được T chi cho ông Á1 60.000.000 đồng gọi là tiền dàn xếp hồ sơ. Theo yêu cầu của T, T1 ký séc rút 2.479.000.000 đồng (còn lại 1.000.000 đồng ngân hàng thu phí rút tiền mặt) cộng với 671.000.000 đồng T đưa, tổng cộng là 3.150.000.000 đồng (2.479.000.000 đồng + 671.000.000 đồng), T1 nộp vào tài khoản của ông Lê Như L3 để trả lại cho ông Lê Như L3 đã nộp đấu giá lô MT đường Trương Định nhưng đã bị T chiếm đoạt trước đó.
Như vậy, Lương Thị Diễm T và Nguyễn Thanh T1 đưa thông tin gian dối về việc đấu giá căn nhà C Q, thành phố Q để chiếm đoạt của ông Nguyễn Ngọc Á1 2.480.000.000 đồng.
7. Đưa ra thông tin gian dối về việc đấu giá đối với căn nhà số H C để chiếm đoạt tiền của bà Huỳnh Thị Ngọc N3: Năm 2017, trong lần tham gia đấu giá đất, Lương Thị Diễm T có gặp và làm quen với bà Huỳnh Thị Ngọc N3. Sau khi quen biết, vào năm 2019 T và bà N3 có góp vốn để tham gia đấu giá nhà đất, bán lại kiếm lời. Bên cạnh đó, T còn vay tiền của bà N3 để sử dụng cá nhân nên thân quen nhau. Đến khoảng cuối tháng 11/2020, vì cần tiền để trả nợ nên T đưa ra thông tin bằng lời nói gian dối với bà N3 rằng Công ty Đ2 chuẩn bị tổ chức bán đấu giá căn nhà 84 Chu Văn A, thành Q (thực tế Công ty Đ2 không tổ chức bán đấu giá tài sản này) và rủ bà N3 góp tiền để tham gia đấu giá, bán lại kiếm lời. Tưởng là thật nên bà N3 đã đồng ý và chuyển 1.400.000.000 đồng cho T (chuyển vào tài khoản của bà Tạ Lương Diễm D1, con gái của T) để góp vốn đấu giá tài sản nói trên. Sau khi bà N3 chuyển số tiền trên thì T rút ra chiếm đoạt sử dụng trả nợ cá nhân (trả cho ai thì không nhớ).
Như vậy, tổng số tiền các bị hại bị chiếm đoạt là: 49.204.000.000 đồng (6.930.000.000 đồng + 3.850.000.000 đồng + 17.016.000.000 đồng + 1.528.000.000 đồng + 16.000.000.000 đồng + 2.480.000.000 đồng + 1.400.000.000 đồng).
Ngoài việc thực hiện hành vi gian dối chiếm đoạt tiền của các cá nhân nêu trên thì Lương Thị Diễm T còn có hành vi gian dối để chiếm đoạt tiền của các cá nhân sau:
- Bà Nguyễn Thị Hồng P2 (sinh năm 1981), là nhân viên tín dụng Chi nhánh ngân hàng NN&PTNT tỉnh Q quen biết với Lương Thị Diễm T từ khoảng năm 2018. Từ khi quen nhau, bà P2 thường xuyên cho T vay tiền với lãi suất 2%/tháng. Việc bà P2 cho T vay có khi đưa tiền mặt, có khi chuyển vào tài khoản bà Tạ Lương Diễm D1 (con gái của T được T nhờ đứng tên mở tài khoản để giao dịch).
Tuy nhiên, đến giữa tháng 01/2021, T biết thực tế Công ty Đ2 không tổ chức bán đấu giá lô đất mặt tiền đường Phạm Quang Ả và thửa đất 1084, phường L, thành phố Q nhưng vì cần tiền để trả cho những người đã nộp tiền đặt trước vào tài khoản Công ty mà T đã chiếm đoạt trước đó nên T đã đưa ra lời nói gian dối không có thật với bà Nguyễn Thị Hồng P2 rằng “Công ty Đ2 chuẩn bị đấu giá hai tài sản trên, chị muốn tham gia đấu giá nhưng không đủ tiền để tham gia, em có tiền cho chị vay để tham gia đấu giá”. Vì trước đó bà P2 đã nhiều lần cho T vay tiền để tham gia đấu giá nên bà P2 đã đồng ý cho T vay tiền với lãi suất 0,35-0,4%/ngày (vì tiền này bà P2 vay của người khác với lãi suất từ 0,25- 0,35%/ngày); bà P2 và T thống nhất: bà P2 sẽ nộp luôn số tiền bà P2 cho T mượn vào tài khoản của Công ty Đ2 để T sử dụng đấu giá, khi tổ chức đấu giá xong thì Công ty trả lại tiền luôn cho bà P2 chứ không trả lại cho T. Do đó, bà Nguyễn Thị Hồng P2 đã nộp tiền vào tài khoản của Công ty Đ2 để cho T vay, cụ thể:
+ Ngày 25/01/2021, bà P2 nhờ bà Nguyễn Thị Hồng V2 (em gái bà P2) nộp 4.865.000.000 đồng với nội dung “nộp tiền đặt trước đấu giá lô mặt tiền đường P, phường L”. Sau khi bà P2 nộp 4.865.000.000 đồng vào tài khoản Công ty thì T nhờ T1 ký séc rút tiền mặt ra rồi T1 nộp vào tài khoản của bà Võ Thị M1 2.100.000.000 đồng để trả lại cho bà M1 đặt đấu giá đối với lô đất số 316 T (bà M1 nộp ngày 08/01/2021) nhưng đã bị T chiếm đoạt trước đó; nộp vào tài khoản của ông Lê Văn H4 2.650.000.000 đồng để trả lại cho ông H4 tiền đặt đấu giá đối với lô đất số 316 T nhưng đã bị T chiếm đoạt trước đó. Còn lại 115.000.000 đồng cộng với số tiền dư trong tài khoản (do người đấu giá nộp), T1 nộp trả cho bà Mai Thị T6 2.340.000.000 đồng mà bà T6 nộp trước đó bị T chiếm đoạt.
+ Ngày 03/02/2021, bà P2 nhờ bà Nguyễn Thị Hồng V2 nộp 3.700.000.000 đồng với nội dung “nộp tiền đặt trước đấu giá thửa đất 1084 phường L”. Sau khi bà P2 nộp 3.700.000.000 đồng vào tài khoản Công ty thì T nhờ T1 chuyển khoản 3.699.000.000 đồng vào tài khoản của bà Tạ Lương Diễm D1 con gái của T để T sử dụng cá nhân.
Số tiền bà P2 chuyển cho T vay để đấu giá đất đối với 02 khoản trên là 8.565.000.000 đồng. T đã trả tiền gốc cho bà P2 200.000.000 đồng (trả trước khi bị phát hiện), còn lại 8.365.000.000 đồng T chiếm đoạt.
- Ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1988, nguyên Trưởng phòng tín dụng doanh nghiệp - Chi nhánh ngân hàng NN&PTNT tỉnh Q. Khoảng cuối năm 2019, thông qua sự giới thiệu của bà Lê Thị H2 (là khách hàng vay tiền tại Chi nhánh ngân hàng NN&PTNT tỉnh Q) nên ông Nguyễn Văn Đ biết Lương Thị Diễm T. Bà H2 giới thiệu T là khách hàng làm ăn với bà H2, rất uy tín, bà H2 nhiều lần cho T vay tiền để đấu giá đất được T thanh toán đầy đủ gốc, lãi. Sau khi đã quen biết nhau, vì T cần tiền để trả nợ vay nóng ở ngoài nên T đã chủ động liên hệ với ông Đ đưa ra lời nói gian dối với ông Đ rằng “Công ty Đ2 chuẩn bị đấu giá đất, chị muốn tham gia đấu giá nhưng không đủ tiền để tham gia, em có tiền cho chị vay để tham gia đấu giá ”, ông Đ tưởng là T nói thật nên đồng ý, T nói với ông Đ “tiền cho vay Đ chuyển luôn vào tài khoản của Công ty Đ2 để T sử dụng đấu giá để khi tổ chức đấu giá xong thì T sẽ đề nghị Công ty trả lại tiền luôn cho Đ”, do đó từ tháng 12/2019 đến tháng 9/2020 ông Nguyễn Văn Đ đã cho T vay 11 lượt với tổng số tiền 37.389.000.000 đồng, số tiền này được ông Đ chuyển vào tài khoản của Công ty Đ2 (có bảng kê kèm theo). Ông Đ khai lãi suất cho T vay là 0,1%/ngày (T khai lãi suất vay là 0,5%/ngày). Số tiền 37.389.000.000 đồng này không được T sử dụng để đấu giá như T đã nói với ông Đ (vì thực tế Công ty Đ2 không có tổ chức đấu giá). T nhờ Nguyễn Thanh T1 ký séc làm thủ tục rút toàn bộ số tiền trên ra đưa T sử dụng trả nợ vay của bà Lê Thị H2 và một số người khác như bà Nguyễn Thị Mỹ H5, bà Bùi Thị Nguyệt Á2, vì đã lâu nên T không còn nhớ cụ thể số tiền đã trả cho từng người. Trước khi bị phát hiện, T đã trả lại cho ông Đ 21.997.000.000 đồng tiền gốc và tiền lãi vay (không nhớ cụ thể bao nhiêu, trả bằng tiền mặt là chủ yếu), còn lại chiếm đoạt 15.392.000.000 đồng.
Như vậy, tổng cộng số T, Nguyễn Thanh T1 đã lừa đảo chiếm đoạt của các bị hại trong vụ án này là: 72.961 000.000 đồng (49.204.000.000 đồng + 8.365.000.000 đồng + 15.392.000.000 đồng).
* Hành vi làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức:
Quá trình điều tra xác định Nguyễn Thanh T1 đã làm giả các tài liệu sau:
+ Thông báo số 0511/2020/TB/HDQN ngày 05/11/2020 của Công ty Đ2 về việc tài khoản nộp tiền đặt trước;
+ Quy chế cuộc đấu giá của Công ty Đ2 số 1912/2020/QC/HDQN ngày 19/12/2020 của Công ty Đ2 về việc đấu giá tài sản lô đất MT P, phường L, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi; + Quy chế cuộc đấu giá của Công ty Đ2 số 2212/2020/QC/HDQN ngày 22/12/2020 của Công ty Đ2 về việc đấu giá tài sản ngôi nhà MT P, phường L, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi; + Thông báo số 1401/2021/TB/HDQN ngày 14/01/2021 của Công ty Đ2 về việc tài khoản nộp tiền đặt trước;
+ Thông báo số 2601/2021/TB/HDQN ngày 26/01/2021 của Công ty Đ2 về việc tài khoản nộp tiền đặt trước;
+ Quy chế cuộc đấu giá của Công ty Đ2 số 0601/2021/QC/HDQN ngày 06/01/2021 của Công ty Đ2 về việc đấu giá tài sản lô đất MT T, phường T, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi; + Thông báo số 0502/2021/TB/HDQN ngày 05/2/2021 của Công ty Đ2 về việc thay đổi thời gian đấu giá lô đất mặt tiền T, phường T, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi; + Thông báo số 2101/2021/TB/HDQN ngày 21/01/2021 của Công ty Đ2 về việc tài khoản nộp tiền đặt trước;
+ Quy chế cuộc đấu giá của Công ty Đ2 số 0512/2020/QC/HDQN ngày 05/12/2020 của Công ty Đ2 về việc đấu giá tài sản ngôi nhà C Q, phường N, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi; + Thông báo số 0302/2021/TB/HDQN ngày 03/2/2021 của Công ty Đ2 về việc thay đổi thời gian đấu giá ngôi nhà C Q, phường N, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi; + Thông báo số 1702/2021/TB/HDQN ngày 17/2/2021 của Công ty Đ2 về việc thay đổi thời gian đấu giá ngôi nhà C Q, phường N, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi; + Thông báo số 2102/2021/TB/HDQN ngày 19/2/2021 của Công ty Đ2 về việc trả tiền đặt cọc cho khách hàng;
+ Thông báo số 1902/2021/TB/HDQN ngày 19/02/2021 của Công ty Đ2 về việc tài khoản nộp tiền đặt trước và thời gian đấu giá.
+ Quyết định số 123/QD-TTPTQĐ ngày 03/12/2020 của Trung tâm phát triển quỹ đất tỉnh Q về việc phê duyệt đơn vị trúng chỉ định thầu Tổ chức bán đấu giá ngôi nhà C Q, phường N, thành phổ Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi.
Quá trình điều tra, Nguyễn Thanh T1 khai nhận:
Đối với việc làm giả các văn bản, tài liệu của Công ty Đ2: T1 đến các tiệm photocopy ở thành phố Q sử dụng các máy vi tính để bàn truy cập vào mail J@gmail.com của mình để tải Quy chế đấu giá và Thông báo đặt trước được lưu trong mail này để sửa lại thông tin (khi làm hồ sơ đấu giá 04 lô đất ở phường C còn lưu lại). Sau khi tải Quy chế và Thông báo đặt trước (bản Word) lên máy tính, căn cứ thông tin do T cung cấp (vị trí lô đất, thời gian đấu giá, thời gian đặt cọc, số tiền đặt trước), T1 đánh máy cập nhật những thông tin này vào mẫu Quy chế đấu giá và Thông báo nộp tiền đặt trước (nếu T không cung cấp thì T1 tự nghĩ ra các thông tin trên để cập nhật Quy chế đấu giá và Thông báo nộp tiền đặt trước). Sau khi cập nhật thông tin xong thì T1 in Quy chế đấu giá và Thông báo nộp tiền đặt trước (in bằng khổ giấy A4), T1 ký giả chữ ký của ông Phạm Văn T7 vào mục giám đốc sau đó lấy con dấu đỏ tròn của Công ty Đ2 (do T đưa trước đó) đóng vào Quy chế đấu giá và Thông báo nộp tiền đặt trước rồi đưa cho Lương Thị Diễm T sử dụng.
Đối với việc làm giả Quyết định chỉ định thầu của Trung tâm phát triển quỹ đất tỉnh Quảng Ngãi: T1 đến các tiệm photocopy ở thành phố Q (tiệm nào không nhớ) sử dụng các máy vi tính để bàn truy cập vào mail J@gmail.com của mình để tải Quyết định chỉ định thầu của UBND phường C chỉ định Công ty Đ2 trúng thầu tổ chức bán đấu giá 04 lô đất ở phường C năm 2018 (Quyết định này T1 làm giúp cho UBND phường C nên còn lưu trên mail). Sau khi tải xuống máy tính thì T1 chỉnh sửa lại thông tin thành Trung tâm phát triển quỹ đất tỉnh Quảng Ngãi chỉ định thầu tổ chức bán đấu giá căn nhà số C Q cho Công ty Đ2. T1 lên mạng vào trang thông tin điện tử của Trung tâm phát triển quỹ đất tỉnh Q để tìm kiếm văn bản do Trung tâm phát triển quỹ đất tỉnh Quảng Ngãi đã ban hành, T1 dùng phần mềm Paint (phần mềm xử lý ảnh) copy mục giám đốc trong văn bản này có chữ ký và tên của ông Nguyễn Hải N4 - Giám đốc Trung tâm phát triển quỹ đất tỉnh Q rồi dán hình ảnh này vào Quyết định chỉ định thầu tổ chức bán đấu giá căn nhà số C Q được T1 soạn sẵn trước đó để tạo thành Quyết định chỉ định thầu giống như thật. Sau đó in ra đưa Lương Thị Diễm T sử dụng.
Lương Thị Diễm T khai nhận: T trực tiếp nhờ Nguyễn Thanh T1 làm giả các tài liệu của Công ty Đ2 và Trung tâm phát triển quỹ đất tỉnh Quảng Ngãi để đưa cho T sử dụng. T sử dụng các văn bản, tài liệu này để tư vấn cho các bị hại (đưa trực tiếp hoặc chụp ảnh gửi qua tin nhắn zalo), các bị hại tin tưởng những văn bản, tài liệu này là thật nên đã nộp tiền vào tài khoản Công ty Đ2. * Giám định tư pháp:
Ngày 28/11/2021, Phòng K5 Công an tỉnh Q ban hành Kết luận giám định số 976/KLGD-PC09 xác định chữ ký của ông Phạm Văn T7, giám đốc Công ty Đ2 trong các Quy chế đấu giá và Thông báo nộp tiền đặt trước nêu trên là giả.
Ngày 13/01/2022, Phòng K5 Công an tỉnh Q ban hành Kết luận giám định số 978/KLGD-PC09 kèm theo hình ảnh liên quan đến tiền lãi của khoản tiền 4.865.000.000 đồng bà P2 cho T vay ngày 25/01/2021).
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 40/2023/HS-ST ngày 02/6/2023 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi đã quyết định:
Tuyên bố các bị cáo Lương Thị Diễm T, Nguyễn Thanh T1 phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”.
1. Áp dụng: điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Lương Thị Diễm T 20 (Hai mươi) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Áp dụng: điểm a khoản 3 Điều 341; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Lương Thị Diễm T 04 (B1) năm tù về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”.
Áp dụng Điều 55 Bộ luật hình sự: Buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của 02 tội là 24 (Hai mươi bốn) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giam 10/3/2021.
2. Áp dụng: điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 54; Điều 17; Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh T1 09 (C1) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Áp dụng: điểm a khoản 3 Điều 341; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh T1 04 (B1) năm tù về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”.
Áp dụng Điều 55 Bộ luật hình sự: Buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của 02 tội là 13 (Mười ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giam 10/3/2021.
+ Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 46, Điểu 48 BLHS.
Buộc bị cáo Lương Thị Diễm T phải trả cho những người bị hại số tiền 68.953.000.000 đồng. Trong đó, có những người bị hại sau:
- Trả cho bà Bùi Thị Diễm L số tiền: 6.798.000.000 đồng - Trả cho bà Mai Thị Tuyết s tiền: 1.940.000.000 đồng - Trả cho bà Võ Thị L1 số tiền: 1.865.000.000 đồng
- Trả cho bà Hồ Thị Kim T5 số tiền: 7.372.000.000 đồng Buộc bị cáo Nguyễn Thanh T1 phải trả cho bà Hồ Thị Kim T5 số tiền: 7.000.000 đồng.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về phần trách nhiệm dân sự còn lại, phần xử lý vật chứng, biện pháp cưỡng chế, án phí, nghĩa vụ thi hành án và thông báo về quyền kháng cáo.
- Ngày 07/6/2023, bị cáo Nguyễn Thanh T1 có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
- Ngày 09/6/2023, bị cáo Lương Thị Diễm T có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
- Ngày 13/6/2023, những người bị hại bà Bùi Thị Diễm L, bà Mai Thị T6, bà Võ Thị L1, bà Hồ Thị Kim T5 có đơn kháng cáo huỷ bản án sơ thẩm để điều tra lại với lý do: Xác định Công ty Đ2 là bị hại trong vụ án, các bà là nguyên đơn dân sự; buộc các thành viên của Công ty Đ2 phải trả lại tiền cho người bị hại đã nộp vào tài khoản của công ty. Khởi tố, điều tra, xét xử hành vi đồng phạm của ông Phạm Văn T7 và ông Phạm Đình N1; Các bị cáo Lương Thị Diễm T, Nguyễn Thanh T1 thực hiện theo sự chỉ đạo của ông Phạm Đình N1 nhưng mức án bị xét xử quá nghiêm khắc.
- Ngày 27/6/2023, người bị hại bà Trương Thị Bích V1 có đơn kháng cáo yêu cầu cần điều tra, thanh tra làm rõ số tiền mà các bị cáo T và T1 chiếm đoạt có mua nhà, đất đứng tên người khác không.
- Ngày 30/6/2023, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng ban hành Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 09/2023/QĐ - VC2 đề nghị Toà án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xử tù chung thân đối với bị cáo Lương Thị Diễm T. Tuyên bố các bị cáo Lương Thị Diễm T, Nguyễn Thanh T1 phạm tội: “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” và áp dụng tình tiết tăng nặng định khung “Sử dụng con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng” được quy định tại điểm b khoản 3 Điều 341 BLHS đối với các bị cáo.
Tại phiên toà phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng giữ nguyên Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 09/2023/QĐ - VC2 ngày 30/6/2023 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng. Các bị cáo Lương Thị Diễm T, Nguyễn Thanh T1 giữ nguyên kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Những người bị hại bà Bùi Thị Diễm L, bà Võ Thị L1 giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Bà L, bà L1 cũng như tại đơn kháng cáo của bà Mai Thị T6, bà Hồ Thị Kim T5 đều yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm huỷ bản án sơ thẩm để điều tra, xét xử lại với lý do: Xác định Công ty Đ2 là bị hại trong vụ án, các bà là nguyên đơn dân sự; buộc các thành viên của Công ty Đ2 phải trả lại tiền cho người bị hại đã nộp vào tài khoản của công ty; khởi tố, điều tra, xét xử hành vi đồng phạm của ông Phạm Văn T7 và ông Phạm Đình N1; các bị cáo Lương Thị Diễm T, Nguyễn Thanh T1 thực hiện theo sự chỉ đạo của ông Phạm Đình N1 nhưng mức án bị xét xử quá nghiêm khắc. Người bị hại bà Trương Thị Bích V1 tại đơn kháng cáo cho rằng cần điều tra, thanh tra làm rõ số tiền mà các bị cáo T và T1 chiếm đoạt có mua nhà, đất đứng tên người khác không.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Lương Thị Diễm T, Nguyễn Thanh T1 và kháng cáo của những người bị hại bà Bùi Thị Diễm L, bà Mai Thị T6, bà Võ Thị L1, bà Hồ Thị Kim T5, bà Trương Thị Bích V1; chấp nhận Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 09/2023/QĐ – VC2 ngày 30/6/2023 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét xử xử tù chung thân đối với bị cáo Lương Thị Diễm T. Tuyên bố các bị cáo Lương Thị Diễm T, Nguyễn Thanh T1 phạm tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” và áp dụng tình tiết tăng nặng định khung “Sử dụng con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng” được quy định tại điểm b khoản 3 Điều 341 BLHS đối với các bị cáo.
Lời bào chữa của các luật sư cho các bị cáo Lương Thị Diễm T, Nguyễn Thanh T1 nhất trí về phần tội danh và khung hình phạt mà Toà án cấp sơ thẩm áp dụng để xét xử đối với các bị cáo. Luật sư bào chữa cho bị cáo T đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng và giữ nguyên bản án sơ thẩm. Luật sư bào chữa cho bị cáo T1 cho rằng bị cáo T1 đã ra đầu thú. Số tiền chiếm đoạt của người bị hại do bị cáo T sử dụng, những giấy tờ giả cũng do bị cáo T sử dụng nên đề nghị Hội đồng xét xử giảm cho bị cáo T1 một phần hình phạt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những người bị hại có kháng cáo đề nghị Hội đồng xét xử huỷ bản án sơ thẩm để điều tra lại.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các tài liệu có trong vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên toà; Hội đồng xét xử nhận định:
1. Về phần thủ tục tố tụng: Tại phiên toà phúc thẩm, một số người bị hại có kháng cáo vắng mặt, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có đơn xin xét xử vắng mặt. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét xử xử vắng mặt những người nói trên. Xét nội dung kháng cáo của những người bị hại vắng mặt cùng nội dung với những người bị hại có mặt tại phiên toà; việc vắng mặt những người này không ảnh hưởng đến quá trình xét xử nên căn cứ Điều 351 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vụ án.
2. Về phần nội dung: Các bị cáo Lương Thị Diễm T, Nguyễn Thanh T1 khai nhận tội, đối chiếu thấy phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập có tại hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:
- Về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của các bị cáo: Năm 2017, Công ty Đ2 được thành lập với ngành nghề kinh doanh là đấu giá tài sản. Từ ngày 08/11/2017, ông Phạm Văn T7, giám đốc công ty bổ nhiệm Nguyễn Thanh T1 giữ chức vụ phó giám đốc công ty và T1 được uỷ quyền ký các văn bản, tài liệu của công ty, phó chủ tài khoản ký các chứng từ giao dịch với ngân hàng; Lương Thị Diễm T là nhân viên của công ty. Từ khi thành lập, Công ty Đ2 chỉ tổ chức đấu giá 01 lần duy nhất vào năm 2018, bán đấu giá 04 lô đất ở Khu dân cư L thuộc tổ B, phường C, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi. Từ tháng 6/2019 đến tháng 02/2021, do cần tiền trả nợ và tiêu xài, Lương Thị Diễm T đã cùng Nguyễn Thanh T1 làm giả nhiều quy chế đấu giá tài sản, thông báo nộp tiền đặt trước để đưa cho những người bị hại, nói dối Công ty Đ2 sắp đấu giá tài sản để những người này nộp tiền vào công ty sẽ được chi tiền lời dàn xếp hồ sơ đấu giá. Nhiều người bị hại đã tin nên nộp tổng số tiền 49.204.000.000 đồng vào tài khoản Công ty Đ2, các bị cáo đã rút ra chiếm đoạt. Ngoài ra, Lương Thị Diễm T biết mình không còn khả năng trả tiền cho những người nộp vào tài khoản công ty để tham gia đấu giá, T đã đưa ra thông tin gian dối với ông Nguyễn Văn Đ và bà Nguyễn Thị Hồng P2 là Công ty Đ2 chuẩn bị đấu giá tài sản, T muốn tham gia đấu giá để bán lại để kiếm lời nhưng không đủ tiền nên cần vay tiền của ông Nguyễn Văn Đ và bà Nguyễn Thị Hồng P2. Ông Đ và bà P2 tin là thật nên đã chuyển tiền vào tài khoản Công ty Đ2 cho T vay với số tiền 23.757.000.000 đồng. Theo yêu cầu của T, Nguyễn Thanh T1 rút ra để chi trả cho những người khác.
Như vậy, tổng số tiền các bị cáo Lương Thị Diễm T, Nguyễn Thanh T1 đã chiếm đoạt của những người bị hại là 72.961.000.000 đồng.
Hành vi nêu trên của các bị cáo Lương Thị Diễm T, Nguyễn Thanh T1 đã bị Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi xét xử về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 BLHS là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
- Về hành vi làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức: Để làm cho người bị hại tin tưởng, Công ty Đ2 có tổ chức đấu giá tài sản và chuyển tiền cho các bị cáo, Lương Thị Diễm T và Nguyễn Thanh T1 thống nhất làm giả các văn bản, tài liệu của Công ty Đ2 để đưa cho người bị hại, cụ thể: Nguyễn Thanh T1 đến các tiệm photocopy ở thành phố Q, sử dụng máy vi tính truy cập vào email J@gmail.com T rồi tải quy chế đấu giá và thông báo nộp tiền đặt trước mà trước đây còn lưu trong mail về rồi sửa lại thông tin như vị trí lô đất, thời gian đấu giá, thời gian đặt cọc, số tiền đặt trước,… Những thông tin này do T cung cấp hoặc do T1 nghĩ ra. Sau khi truy cập xong T1 in ra ký giả chữ ký của ông Phạm Văn T7 vào mục giám đốc, lấy con dấu của Công ty Đ2 do T đưa trước đó đóng dấu vào các văn bản này. Sau khi hoàn tất, T1 đưa các văn bản, tài liệu giả này cho T để T sử dụng. Nguyễn Thanh T1 đã làm giả 13 văn bản, tài liệu gồm: 04 quy chế đấu giá tài sản, 04 thông báo nộp tiền đặt trước, 03 thông báo về việc thay đổi thời gian đấu giá, 01 thông báo nộp tiền đặt trước và thời gian đấu giá, 01 thông báo trả tiền đặt cọc cho khách hàng. Riêng đối với việc làm giả Quyết định số 123/QĐ TTPTQĐ ngày 03/12/2020 của Trung tâm phát triển quỹ đất tỉnh Quảng Ngãi về việc phê duyệt đơn vị trúng chỉ định thầu tổ chức bán đấu giá ngôi nhà C Q, phường N, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi; sau khi tải file mẫu từ mail và chỉnh sửa thông tin như cách làm đối với các văn bản khác, T1 lên mạng vào trang thông tin điện tử của Trung tâm phát triển quỹ đất tỉnh Q tìm kiếm văn bản do Trung tâm đã ban hành, dùng phần mềm Paint copy mục giám đốc có chữ ký của văn bản này dán vào Quyết định số 123/QĐ – TTPTQĐ được soạn thảo sẵn trước đó tạo thành quyết định chỉ định thầu giống như thật, in ra đưa cho T sử dụng.
Như vậy, T và T1 đã thống nhất làm giả tổng cộng 14 văn bản, tài liệu để lừa đảo chiếm đoạt 72.961.000.000 đồng của người bị hại.
Hành vi nêu trên của các bị cáo Lương Thị Diễm T, Nguyễn Thanh T1 đã bị Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi xét xử về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” theo điểm a khoản 3 Điều 341 BLHS là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Các bị cáo T và T1 làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức là để lừa đảo nên các cơ quan tiến hành tố tụng ở cấp sơ thẩm không truy tố xét xử các bị cáo về hành vi sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức và không áp dụng điểm b khoản 3 Điều 341 BLHS là có cơ sở.
- Đối với bị cáo Lương Thị Diễm T đã thực hiện hành vi lừa đảo của những người bị hại với tổng số tiền 72.961.000.000 đồng, bị cáo T mới nộp số tiền 200.700.000 đồng để khắc phục hậu quả. Bản án sơ thẩm xử phạt bị cáo T với mức án 20 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là chưa tương xứng với hành vi và hậu quả do bị cáo gây ra. Hội đồng xét xử thấy cần chấp nhận một phần Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 09/2023/QĐ – VC2 ngày 30/6/2023 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xử tăng hình phạt đối với bị cáo T về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Đối với kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Lương Thị Diễm T đương nhiên là không được chấp nhận.
- Đối với bị cáo Nguyễn Thanh T1: Bản án sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất nghiêm trọng của vụ án, mức độ phạm tội, đồng thời xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và xử phạt Nguyễn Thanh T1 09 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, 04 năm tù về tội “Làm giả con dấu, tài liệu, của cơ quan, tổ chức”. Tổng hợp hình phạt của 2 tội là 13 năm tù. Mức hình phạt trên là không nặng. Tại phiên toà phúc thẩm không có tình tiết giảm nhẹ nào mới nên không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thanh T1 và giữ nguyên bản án sơ thẩm.
3. Xét kháng cáo của những người bị hại thì thấy:
Các bị cáo Lương Thị Diễm T, Nguyễn Thanh T1 đã có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản nên bản án sơ thẩm xác định những người bị các bị cáo chiếm đoạt tiền là người bị hại và các bị cáo phải chịu trách nhiệm bồi thường cho người bị hại chứ không phải các thành viên của Công ty Đ2 phải chịu trách nhiệm bồi thường.
Đối với ông Phạm Văn T7 và ông Phạm Đình N1, các cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm xác định các ông này không đồng phạm với các bị cáo và đã được bản án sơ thẩm nhận định rõ. Đối với việc làm rõ số tiền các bị cáo chiếm đoạt có sử dụng mua nhà, đất đứng tên người khác không, vấn đề này quá trình Thi hành án nếu người bị hại phát hiện thì sẽ báo cho cơ quan Thi hành án hoặc cơ quan có thẩm quyền xem xét sau. Do đó, không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của người bị hại bà Bùi Thị Diễm L, bà Mai Thị T6, bà Võ Thị L1, bà Hồ Thị Kim T5, bà Trương Thị Bích V1 và giữ nguyên bản án sơ thẩm.
4. Do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận nên các bị cáo Lương Thị Diễm T, Nguyễn Thanh T1 phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
5. Những phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên không xét.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 355, khoản 2 Điều 357 BLTTHS 1. Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Lương Thị Diễm T, Nguyễn Thanh T1 và kháng cáo của những người bị hại bà Bùi Thị Diễm L, bà Mai Thị T6, bà Võ Thị L1, bà Hồ Thị Kim T5, bà Trương Thị Bích V1. Chấp nhận một phần Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 09/2023/QĐ – VC2 ngày 30/6/2023 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, sửa một phần bản án sơ thẩm.
Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174, điểm a khoản 3 Điều 341, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 58 BLHS. Đối với tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” áp dụng thêm điểm b khoản 1 Điều 51 BLHS. Đối với bị cáo Nguyễn Thanh T1 áp dụng thêm Điều 38, khoản 2 Điều 51, điểm a khoản 1 Điều 55 BLHS và đối với tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" áp dụng thêm khoản 1 Điều 54 BLHS. Đối với bị cáo Lương Thị Diễm T áp dụng thêm Điều 39, điểm c khoản 1 Điều 55 BLHS.
Xử phạt:
- Lương Thị Diễm T tù chung thân về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, 04 (bốn) năm tù về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”. Tổng hợp hình phạt chung của 02 tội buộc bị cáo Lương Thị Diễm T phải chấp hành là tù chung thân. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 10/3/2021.
- Nguyễn Thanh T1 09 (chín) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, 04 (bốn) năm tù về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”. Tổng hợp hình phạt chung của 02 tội buộc bị cáo Nguyễn Thanh T1 phải chấp hành là 13 (mười ba) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 10/3/2021.
2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 46, Điều 48 BLHS buộc bị cáo Lương Thị Diễm T phải trả cho những người bị hại số tiền sau:
- Bà Bùi Thị Diễm L: 6.798.000.000 đồng;
- Bà Mai Thị T6: 1.940.000.000 đồng;
- Bà Võ Thị L1: 1.865.000.000 đồng;
- Bà Hồ Thị Kim T5: 7.372.000.000 đồng;
Buộc bị cáo Nguyễn Thanh T1 phải trả cho bà Hồ Thị Kim T5 7.000.000 đồng.
3. Về án phí: Lương Thị Diễm T, Nguyễn Thanh T1 mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm về phần trách nhiệm dân sự còn lại, nghĩa vụ thi hành án, xử lý vật chứng, biện pháp cưỡng chế, án phí không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 353/2023/HS-PT
Số hiệu: | 353/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/08/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về