Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 343/2022/HS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 343/2022/HS-PT NGÀY 19/05/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 5 năm 2022, tại Trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng; Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 521/2021/TLPT-HS ngày 27 tháng 10 năm 2021 đối với bị cáo Huỳnh Thị Nh.

Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 33/2021/HS-ST ngày 22 tháng 9 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng.

- Bị cáo có kháng cáo:

Huỳnh Thị Nh, sinh năm 1971 tại tỉnh Vĩnh Long; nơi ĐKHKTT và cư trú: Thôn R, xã Ph, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Văn Q, con bà Phạm Thị B (đều đã chết); chồng: Nguyễn Văn N, sinh năm 1970 (cùng bị cáo trong vụ án này), có 04 con, lớn nhất sinh 1996, nhỏ nhất sinh 2008. Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo tại ngoại. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Hoàng Thị Minh H, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.

Trong vụ án còn có bị cáo Nguyễn Văn N, bị hại Quàng Thị L nhưng không có kháng cáo, không liên quan đến kháng cáo nên Toà không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 29/11/2017 bị cáo N, bị cáo Nh (các bị cáo là vợ chồng) vay của bà Th (thị trấn Th, huyện Đ1) số tiền 1.000.000.000đ để sử dụng cho gia đình và cho bà C vay lại 790.000.000đ với lãi suất cao hơn để hưởng chênh lệch. Ngoài ra, bị cáo N, bị cáo Nh còn vay của Ngân hàng Đ, chi nhánh Lâm Đồng số tiền 1.000.000.000đ, thời hạn vay 05 năm.

Do đã quá thời hạn và không có tiền để trả nợ cho bà Th, nên ngày 04/2/2018, bị cáo Nh điện thoại cho bị hại bà L đặt vấn đề “vợ chồng bị cáo Nh đang vay tiền tại Ngân hàng Đ, thời hạn vay là 05 năm, nay muốn vay của bị hại L số tiền là 1.000.000.000đ để thanh toán hợp đồng này, làm lại hợp đồng mới vay với thời hạn là 01 năm và vay thêm tiền”. Bị hại bà L tưởng thật nên đồng ý; yêu cầu ngày 05/02/2018 bị cáo N, bị cáo Nh mang các giấy tờ liên quan ra thị trấn L, huyện Đ để bị hại L xem.

Sáng ngày 05/02/2018, tại quán cà phê ở thị trấn L, huyện Đ, bị cáo N, bị cáo Nh trình bày với bà L về mục đích vay “đáo hạn Ngân hàng” và đưa cho bà L xem Hợp đồng tín dụng trung hạn của Ngân hàng Đ, (hợp đồng số N0202/1217), Chứng minh nhân dân của bị cáo N, bị cáo Nh. Sau khi xem các giấy tờ trên, bà L đồng ý cho bị cáo N, bị cáo Nh vay số tiền 1.000.000.000đ để thực hiện việc đáo hạn ngân hàng. Tại đây bị cáo N, bị cáo Nh viết 01 giấy vay tiền với nội dung “có vay của bà L số tiền 1.000.000.000đ để đáo hạn ngân hàng và khi ngân hàng giải ngân cho vay lại thì sẽ hoàn trả đầy đủ số tiền nêu trên”. Sau khi bị cáo N, bị cáo Nh viết giấy vay tiền, bà L cầm toàn bộ các giấy tờ của vợ chồng bị cáo N và lên Ngân hàng Đ chi nhánh huyện Đ nộp số tiền 1.000.000.000đ vào tài khoản của bị cáo N.

Sau khi bà L nộp số tiền 1.000.000.000đ vào tài khoản, ngay trong chiều ngày 05/02/2018 bị cáo N và bị cáo Nh từ huyện Đ lên Ngân hàng Đ chi nhánh thành phố Đ2 rút toàn bộ số tiền này mang về trả cho bà Th mà không thực hiện việc đáo hạn ngân hàng như đã cam kết.

Quá trình điều tra, bị hại bà L khai số tiền 1.000.000.000đ là do bà L vay Ngân hàng và sử dụng tài sản là nhà đất của mình để thế chấp, nên hàng tháng phải trả lãi ngân hàng, bị cáo N có trả số tiền lãi 64.154.000đ.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 32/2021/HS-ST ngày 22/9/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng đã tuyên xử:

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38; khoản 2 Điều 54 của Bộ luật hình sự năm 2015 Xử phạt bị cáo Huỳnh Thị Nh 07 (bảy) năm tù; Thời hạn tù tính từ ngày bắt giam để thi hành án.

Ngoài ra, Toà án cấp sơ thẩm còn tuyên phạt bị cáo Nguyễn Văn N 09 năm tù, tuyên về trách nhiệm dân sự, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Nguyễn Văn N không có đơn kháng cáo.

Ngày 07/10/2021, bị cáo Huỳnh Thị Nh có đơn kháng cáo với nội dung: Bị cáo thừa nhận vợ chồng bị cáo có vay của bà L 01 tỷ đồng để đáo hạn Ngân hàng nhưng bị bà Phan Thị Kim C lừa lấy hết số tiền này. Bị cáo không có ý chiếm đoạt tiền của bà L, Toà án tỉnh Lâm Đồng kết án bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là oan cho bị cáo.

Tại phiên toà phúc thẩm:

Bị cáo thừa nhận có nói với bà L vay 1.000.000.000 đồng để đáo hạn ngân hàng nhưng sau khi nhận tiền từ bà L thì bị cáo bị bà C lừa mất chứ bị cáo không có ý lừa bà L, bị cáo làm theo hướng dẫn của bà C.

Bị cáo thay đổi nội dung kháng cáo từ kêu oan sang xin giảm nhẹ hình phạt mong Hội đồng xét xử xem xét.

Đại diện Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm phát biểu:

Căn cứ vào các chứng cứ có tại hồ sơ vụ án và lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa thấy rằng; tại phiên toà bị cáo thay đổi nội dung kháng cáo từ kêu oan sang xin giảm nhẹ hình phạt. Toà án cấp sơ thẩm tuyên bố bị cáo phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là có căn cứ, đúng pháp luật. Toà án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo mức án 07 năm tù là dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ nào mới nên đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên án sơ thẩm.

Luật sư bào chữa cho bị cáo phát biểu:

Thống nhất về tội danh như án sơ thẩm đã tuyên, bị cáo thay đổi nội dung kháng cáo từ kêu oan sang xin giảm nhẹ hình phạt, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, tuy nhiên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, hiện nay không có nhà ở, chồng bị cáo cũng bị đi tù, một mình bị cáo nuôi 04 con nhỏ trong đó có 01 người con bị trầm cảm. Đề nghị xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo thống nhất với phần bào chữa của luật sư và không tranh luận gì thêm.

Bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Cơ quan tiến hành tố tụng tại giai đoạn sơ thẩm đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Đơn kháng cáo của bị cáo Huỳnh Thị Nh đúng về hình thức, nội dung, trong hạn luật định nên kháng cáo của bị cáo được Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét theo trình tự phúc thẩm. Tại phiên toà phúc thẩm bị cáo Nh thay đổi nội dung kháng cáo từ kêu oan sang xin giảm nhẹ hình phạt.

[3] Do cần tiền để trả nợ nên các bị cáo Nguyễn Văn N, Huỳnh Thị Nh đã gặp bà Quàng Thị L đưa ra thông tin gian dối là cần vay 1.000.000.000 đồng của bà L để đáo hạn ngân hàng, sau đó làm hồ sơ vay lại số tiền lớn hơn. Do tin tưởng những thông tin mà N, Nh đưa ra là thật nên ngày 05/02/2018 bà L đã nộp 1.000.000.000 đồng vào tài khoản của N tại Ngân hàng Đ chi nhánh huyện Đ. Ngay trong chiều ngày 05/02/2018 các bị cáo N, Nh từ huyện Đ lên Ngân hàng Đ chi nhánh thành phố Đ2 rút toàn bộ số tiền này mang về trả cho bà Th chứ không thực hiện việc trả nợ ngân hàng để vay lại như thông tin ban đầu đã đưa ra.

[5] Quá trình điều tra, xét xử các bị cáo khai nhận diễn biến hành vi phạm tội như nêu trên. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác. Hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tội cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Do tài sản các bị cáo chiếm đoạt là 1.000.000.000 đồng nên Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng tình tiết định khung tăng nặng “Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên” theo điểm a khoản 4 Điều 174 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[6] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nh thấy rằng; Khi quyết định hình phạt, Toà án cấp sơ thẩm đã xem xét về nhân thân của bị cáo, đánh giá tính chất hành vi, hậu quả của tội phạm, áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự và xử phạt bị cáo 07 năm tù là dưới mức thấp nhất của khung hình phạt. Tại phiên toà hôm nay, bị cáo không xuất trình được tình tiết gì mới nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Hội đồng xét xử phúc thẩm giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

[7] Quan điểm của luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo là không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

[8] Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên Bản án sơ thẩm là có căn cứ nên được chấp nhận.

[9] Án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Huỳnh Thị Nh phải chịu tiền án phí hình sự phúc thẩm theo quy định.

[10] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355 của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Huỳnh Thị Nh.

Giữ nguyên quyết định về hình phạt của Bản án hình sự sơ thẩm số 32/2021/HS-ST ngày 22/9/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng đối với bị cáo Huỳnh Thị Nh.

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, khoản 2 Điều 54 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Huỳnh Thị Nh 07 (bảy) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.

Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Huỳnh Thị Nh phải chịu 200.000 đồng. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

893
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 343/2022/HS-PT

Số hiệu:343/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về