Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 341/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 341/2021/HS-ST NGÀY 26/10/2021 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 10 năm 2021 tại trụ sở tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 257/2021/TLST-HS ngày 02/7/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 387/2021/QĐXXST-HS ngày 27/9/2021 đối với bị cáo:

VŨ HOÀNG A; sinh năm 1993; Giới tính: Nam ; ĐKNKTT: quận H, thành phố Hà Nội; nơi ở : Không nơi cố định; quốc tịch : Việt Nam ; dân tộc : Kinh ; Tôn giáo : Không ; nghề nghiệp : Tự do; trình độ văn hóa :12/12 ; con ông: Vũ Đình U, con bà: Nguyễn Thị Lan O; vợ, con : Chưa; tiền án, tiền sự : không ; danh chỉ bản số 000000163 ngày 07/4/2020 tại công an quận Hoàn Kiếm, Hà Nội; bị bắt ngày 02/4/2020; có mặt.

- Người bào chữa:

Ông B, luật sư Công ty Luật TNHH Mai Anph - Đoàn luật sư thành phố Hà Nội; bào chữa cho bị cáo; có mặt.

- Bị hại:

1) Anh Thái Văn L, sinh năm: 1992; trú tại: phường L, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa; có mặt.

2) Anh Nguyễn Lộc Đ, sinh năm 1986; trú tại: phường H, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam; vắng mặt.

3) Anh Đỗ Thanh T, sinh năm 1988; trú tại: quận H, thành phố Hà Nội; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1) Anh Phan Văn H, sinh năm 1998 trú tại: phường L, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội; vắng mặt

2) Anh Nguyễn Đức N, sinh năm 1995; trú tại: phường Đ, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội; vắng mặt.

3) Chị Phạm Thị Thanh P, sinh năm 1998; trú tại phường H, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương; có đơn xin xử vắng mặt.

4) Bà Nguyễn Thị Lan C, sinh năm 1959; trú tại: phường H, quận H, thành phố Hà nội; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 01/4/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội nhận đơn của anh Đỗ Thanh T, sinh 1988, quận H, TP Hà Nội tố cáo: Vũ Hoàng A, sinh 1993, HKTT phường H, quận H, Hà Nội lừa đảo chiếm đoạt tiền của anh T thông qua việc nhận tiền đặt cọc mua bán hàng khẩu trang y tế và làm thủ tục vận chuyển hàng ra nước ngoài. Quá trình điều tra, nhiều bị hại khác tố cáo Vũ Hoàng A lừa đảo chiếm đoạt tiền của họ với thủ đoạn tương tự.

Qua điều tra xác định: Trong thời gian tháng 3/2020, do cần tiền trả nợ và chi tiêu cá nhân và lợi dụng tình hình dịch bệnh Covid19, Vũ Hoàng A, sinh 1993, HKTT phường H, quận H, thành phố Hà Nội đã nảy sinh ý định lừa đảo chiếm đoạt tài sản thông qua việc gian dối hứa hẹn, nhận tiền đặt cọc mua hàng khẩu trang y tế với số lượng lớn của những người có nhu cầu, nhưng không thực hiện mà chiếm đoạt tiền của họ sử dụng vào mục đích cá nhân. Cụ thể như sau:

1/. Hành vi lừa đảo chiếm đoạt 870.000.000 đồng của anh Thái Văn L.

Khoảng đầu tháng 3/2020, thông qua mạng xã hội Facebook trên Internet, anh Thái Văn L, sinh 1992, trú tại phường L, TP Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa (có số điện thoại 0966.05xxxx, tên tài khoản Zalo “Thai Van L”) quen biết với Vũ Hoàng A có lai lịch trên (số điện thoại 0385.66xxxx, tên tài khoản Zalo “Vu A”) giới thiệu bản thân có khả năng cung cấp hàng khẩu trang y tế các loại với số lượng lớn. Sáng ngày 04/3/2020, theo hẹn anh L đến gặp Vũ Hoàng A tại khu vực phường Vĩnh Tuy, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội để trao đổi, đặt mua của Hoàng A 52 thùng khẩu trang y tế nhãn hiệu An Phú, với giá 13.000.000 đồng/1 thùng (trong đó mỗi thùng có 50 hộp, mỗi hộp có 50 chiếc khẩu trang y tế), tổng số tiền thanh toán lô hàng là 676.000.000 đồng, Hoàng A yêu cầu anh L phải chuyển trước 100.000.000 đồng tiền đặt cọc lô hàng và khi nhận đủ hàng anh L sẽ thanh toán nốt tiền hàng còn lại, anh L đồng ý. Ngay sau khi ký hợp đồng, anh L đã chuyển 100.000.000 đồng tiền đặt cọc lô hàng trên vào tài khoản số 1903443154xxxx của Vũ Hoàng A qua InternetBanking tại Ngân hàng Techcombank (có Sao kê - nội dung ghi: Chuyển tiền). Đến chiều cùng ngày 04/3/2020, Vũ Hoàng A gọi điện cho anh L trao đổi về việc bản thân có khả năng cung cấp thêm 300 thùng khẩu trang y tế nhãn hiệu An Phú cho anh L, cũng với giá 13.000.000 đồng/1 thùng, tổng số tiền thanh toán là 3,9 tỷ đồng và yêu cầu anh L phải chuyển trước cho Hoàng A tiền đặt cọc bằng 30% tổng giá trị của lô hàng, anh L đồng ý. Hồi 17h35’ngày 04/3/2020, anh L chuyển vào tài khoản của Vũ Hoàng A qua Internet Banking 200.000.000 đồng và khoảng 10 phút sau anh L chuyển tiếp vào tài khoản của Hoàng A qua Internet Banking 300.000.000 đồng (có Sao kê - nội dung ghi: Chuyển tiền cọc lô 300 thùng), tổng cộng anh L đã chuyển cho Hoàng A 500.000.000 đồng tiền đặt cọc mua lô hàng 300 thùng khẩu trang y tế.

Đến chiều tối cùng ngày 04/3/2020, Hoàng A dẫn anh L đến gặp anh Đặng Văn S, sinh 1997, trú tại phường Định Công, quận H, Hà Nội (giới thiệu là người cung cấp hàng khẩu trang y tế cho Hoàng A, có số điện thoại 0969.473xxxx, tên tài khoản Zalo “Đặng S”) tại khu vực phường Định Công nhận 06 thùng khẩu trang y tế nhãn hiệu An Phú. Khoảng 19h cùng ngày 04/3/2020, Hoàng A đi cùng anh S đến gặp anh L tại khu vực phường Vĩnh Tuy, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội giao tiếp 20 thùng khẩu trang y tế nhãn hiệu An Phú. Ngay sau khi nhận được 26 thùng hàng khẩu trang y tế/trên tổng số lô hàng là 52 thùng khẩu trang y tế như đã thỏa thuận với Hoàng A, hồi 19h41’ cùng ngày 04/3/2020 anh L đã chuyển vào tài khoản của Vũ Hoàng A qua Internet Banking 286.000.000 đồng thanh toán tiền hàng trên (có Sao kê - nội dung ghi: Chuyển tiền). Sáng ngày 05/3/2020 lúc 02h42’, anh L chuyển tiếp vào tài khoản của Vũ Hoàng A qua Internet Banking 300.000.000 đồng thanh toán tiền hàng trên để lấy nốt 26 thùng khẩu trang y tế còn lại (có Sao kê - nội dung ghi: Chuyển tiền). Theo hẹn của Hoàng A, anh L đến đường gần khu vực phường Định Công, quận H, Hà Nội gặp anh Đặng Văn S nhận 16 thùng hàng khẩu trang y tế nhãn hiệu An Phú, sau đó anh L cùng đi với anh S đến đường gần khu vực Sân bay quốc tế Nội Bài, huyện Sóc Sơn, Hà Nội nhận nốt 10 thùng khẩu trang y tế nhãn hiệu An Phú từ anh S, nhưng do lúc này Hoàng A chưa chuyển đủ tiền hàng cho anh S để lấy hàng trên, nên Hoàng A gọi điện thỏa thuận với anh L là anh L thanh toán trực tiếp tiền hàng cho anh S 330.000.000 đồng để lấy hàng, còn số tiền 300.000.000 đồng anh L đã chuyển khoản cho Hoàng A trước đó lúc 02h42’ ngày 05/3/2020 thanh toán tiền lô hàng 52 thùng khẩu trang y tế sẽ chuyển sang thành tiền cọc lô hàng 300 thùng khẩu trang y tế với tổng số tiền đặt cọc là 800.000.000 đồng, anh L đồng ý. Ngay sau đó lúc 02h54’ngày 05/3/2020, theo số tài khoản anh S cung cấp, anh L chuyển 330.000.000 đồng vào tài khoản mang tên Nguyễn Văn V qua Internet Banking tại Ngân hàng TechcomBank để thanh toán tiền hàng trên cho Hoàng A và nhận đủ 26 thùng khẩu trang y tế nhãn hiệu An Phú từ anh S (anh S khai là số tài khoản do chủ hàng cung cấp, không nhớ họ tên, địa chỉ cụ thể chủ hàng, do anh S tìm mua hàng trên mạng Internet). Sau khi tính toán tiền hàng của lô 52 thùng khẩu trang y tế là 676.000.000 đồng và Vũ Hoàng A đã nhận tiền thanh toán lô hàng trên của anh L là 716.000.000 đồng (tiền hàng thừa 40.000.000 đồng), nên hồi 04h11’ ngày 05/3/2020 Hoàng A chuyển khoản trả lại 40.000.000 đồng cho anh L qua Internet Banking (có Sao kê - nội dung ghi Hoàng A CK tiền hàng).

Tuy nhiên, ngay sau khi nhận 800.000.000 đồng tiền đặt cọc lô hàng 300 thùng khẩu trang y tế của anh L, Vũ Hoàng A khai không tìm nguồn hàng để giao cho anh L như đã hứa hẹn mà đã sử dụng trả nợ và chi tiêu cá nhân hết (không nhớ họ tên, địa chỉ, số tiền cụ thể), sau đó Hoàng A nại ra nhiều lý do khác nhau để khất hẹn, không giao hàng cho anh L. Đến ngày 07/3/2020 theo hẹn tại phường Vĩnh Tuy, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội, anh L gặp Vũ Hoàng A yêu cầu soạn thảo, ký hợp đồng mua bán lô hàng 300 thùng khẩu trang y tế nhãn hiệu An Phú đã thỏa thuận trước đó, nhưng do số tiền đặt cọc anh L đã chuyển cho Hoàng A là 800.000.000 đồng chỉ đủ tiền đặt cọc lô hàng 240 thùng khẩu trang y tế, nên anh L và Hoàng A thống nhất ký kết Hợp đồng mua bán hàng hóa số 01/2020/HĐMB (có nội dung thỏa thuận: Anh L đặt mua của Vũ Hoàng A 240 kiện hàng khẩu trang y tế, với giá 14.000.000 đồng/1 kiện hàng, tổng số tiền thanh toán là 3.360.000.000 đồng. Cam kết sáng ngày 08/3/2020 trước 12h giao 60 thùng, đến chiều ngày 08/3/2020 giao nốt 180 thùng. Địa điểm giao hàng tại Hà Nội. Thanh toán bằng chuyển khoản và ứng trước 30%. Bên mua là anh L đã thanh toán 800.000.000 đồng để ký hợp đồng trước 18h chiều ngày 07/3, - Anh L ký Bên A, Vũ Hoàng A ký Bên B). Quá hạn hợp đồng, Vũ Hoàng A không giao hàng khẩu trang y tế cho anh Thái Văn L như đã cam kết trên, anh L nhiều lần gọi điện cho Vũ Hoàng A yêu cầu giao hàng, trả lại tiền đặt cọc trên,nhưng Hoàng A lẩn tránh không gặp, không liên lạc được. Ngày 09/4/2020 anh L đã gửi đơn tố cáo Vũ Hoàng A đến Công an quận Hoàn Kiếm, TP Hà Nội để giải quyết.

Qua điều tra bổ sung xác định đối với số tiền 500.000.000 đồng Vũ Hoàng A đã sử dụng được Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam (Techcombank) cung cấp như sau: Khách hàng là Vi Thị I, sinh năm 1988, trú tại phường Hoàng Văn Thụ, TP Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn, có số tài khoản 1903212982xxxx mở tại Ngân hàng Techcombank chi nhánh Lạng Sơn, kèm theo bản sao Hồ sơ mở tài khoản và Sao kê số tài khoản trên. Điều tra xác định: Khoảng tháng 02/2020, thông qua mạng xã hội Facebook trên Internet, anh Vũ Việt X, sinh 1988, trú tại phường Hoàng Văn Thụ, thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn có quen biết với Vũ Hoàng A (số điện thoại 0385.66xxxx, tên tài khoản Zalo “Vu A”) giới thiệu bản thân có khả năng cung cấp hàng khẩu trang y tế các loại với số lượng lớn. Ngày 12/2/2020, anh Vũ Việt X ký Hợp đồng mua bán hàng hóa số 01/2020/HĐMB với Vũ Hoàng A (có nội dung thỏa thuận: Anh X đặt mua của Vũ Hoàng A 150 kiện hàng khẩu trang y tế kháng khuẩn 04 lớp, với giá 10.500.000 đồng/1 kiện hàng, tổng số tiền thành toán là 1.575.000.000 đồng. Cam kết 18 giờ chiều ngày 02/3/2020 giao 80 kiện, đến 3 giờ sáng ngày 03/3/2020 giao nốt 70 kiện hàng. Địa điểm giao hàng tại Hà Nội. Thanh toán bằng chuyển khoản và ứng trước 40%. Bên mua là anh X đã thanh toán 630 triệu đồng để ký hợp đồng, nếu không ký hợp đồng trước 18h chiều ngày 02/3/2020 thì Bên bán là Vũ Hoàng A sẽ được bán số hàng mà Bên mua yêu cầu và Bên mua sẽ mất toàn bộ số tiền cọc để ký hợp đồng - anh X ký Bên A, Hoàng A ký Bên B). Sau khi ký hợp đồng trên, ngày 02/3/2020 anh X đã chuyển tiền từ tài khoản số 19032198xxxx mang tên chị Vi Thị I, sinh 1988 (là vợ anh X) tại Ngân hàng Techcombank chi nhánh Lạng Sơn vào tài khoản của Vũ Hoàng A tại Ngân hàng Techcombank chi nhánh Nguyễn Cơ Thạch, Hà Nội qua InternetBanking 02 lần với tổng số tiền là 1,1 tỷ đồng để đặt cọc mua lô hàng 150 thùng khẩu trang y tế trên (gồm lần 01 là 750 triệu đồng và lần 02 là 350 triệu đồng - có Sao kê, nội dung đều ghi: X lạng sơn CK), sau đó cùng ngày 02/3/2020 Vũ Hoàng A đã chuyển cho anh X 36 thùng khẩu trang y tế có tổng giá trị tiền hàng là 378.000.000 đồng. Đến hạn, do không có hàng để chuyển cho anh X như đã cam kết trên, nên ngày 03/3/2020 Hoàng A đã chuyển trả lại tiền đặt cọc mua hàng trên cho anh X số tiền 222.000.000 đồng vào tài khoản của chị Vi Thị I tại Ngân hàng Techcombank qua InternetBanking (có Sao kê - không ghi nội dung CK). Đến ngày 04/3/2020, ngay sau khi nhận tiền chuyển khoản 500.000.000 đồng của anh Thái Văn L để đặt cọc mua lô hàng 300 thùng khẩu trang y tế (gồm lần 01 là 200 triệu đồng và lần 02 là 300 triệu đồng - có Sao kê, nội dung ghi: Chuyển tiền cọc lô 300 thùng), Vũ Hoàng A đã chuyển khoản tiếp số tiền 500.000.000 trên vào tài khoản của chị Vi Thị I để trả nợ tiền đặt cọc mua lô hàng 150 thùng khẩu trang y tế cho anh Vũ Việt X (gồm lần 01 là 200.000.000 đồng và lần 02 là 300.000.000 đồng - có Sao kê, nội dung ghi: Hoàng A CK). Quá trình điều tra bổ sung, bị can Vũ Hoàng A khai: Việc Hoàng A khai tại phiên tòa ngày 24/3/2021 là ngay sau khi nhận chuyển khoản 500.000.000 đồng tiền đặt cọc mua lô hàng 300 thùng khẩu trang y tế ngày 04/3/2020 của anh Thái Văn L, Hoàng A đã sử dụng chuyển khoản số tiền 500.000.000 đồng trên để đặt cọc mua 300 thùng khẩu trang y tế cho anh L là không đúng. Thực tế, ngay sau khi nhận số tiền 500.000.000 đồng chuyển khoản trên của anh L, cùng ngày 04/3/2020 Hoàng A đã chuyển khoản số tiền 500.000.000 đồng trên vào tài khoản mang tên chị Vi Thị I để trả nợ tiền đặt cọc lô hàng 150 thùng khẩu trang y tế cho anh Vũ Việt X ở Lạng Sơn. Anh Vũ Việt X và chị Vi Thị I không có yêu cầu, đề nghị gì do Hoàng A đã trả hết nợ tiền đặt cọc lô hàng 150 thùng khẩu trang y tế trên cho anh X.

Ngoài ra, quá trình điều tra bổ sung bị can Vũ Hoàng A và anh Thái Văn L khai: Lời khai trước đây tại cơ quan điều tra của Vũ Hoàng A và anh Thái Văn L về số tiền 110.000.000 đồng anh L chuyển khoản cho Hoàng A vay cá nhân, không liên quan đến hợp đồng mua bán ký ngày 07/3/2020 đối với lô 300 thùng hàng khẩu trang y tế trên là không đúng. Thực tế, anh L chuyển khoản số tiền 110.000.000 đồng trên cho Vũ Hoàng A với mục đích ứng trước tiền để Hoàng A lấy được hàng khẩu trang y tế và hai bên thỏa thuận sẽ tính trừ vào thanh toán tiền hàng khi anh L nhận được lô hàng 300 thùng khẩu trang y tế trên.

Như vậy, anh Thái Văn L đã chuyển cho Vũ Hoàng A tổng số tiền là 910.000.000 đồng để đặt cọc và tiền ứng mua lô hàng 300 thùng khẩu trang y tế. Hoàng A đã trả 40.000.000 đồng cho anh L, hiện chiếm đoạt của anh L số tiền 870.000.000 đồng.

Về dân sự: Anh Thái Văn L yêu cầu bị can Vũ Hoàng A phải bồi thường số tiền đã chiếm đoạt là 870.000.000 đồng.

2/. Hành vi lừa đảo chiếm đoạt 35.000.000 đồng của anh Nguyễn Lộc Đ.

Khoảng tháng 3/2020, thông qua mạng xã hội Facebook trên Internet, anh Nguyễn Lộc Đ, sinh 1986, trú phường H, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam (số điện thoại 0971.09xxxx) quen biết với Vũ Hoàng A (có số điện thoại 0385.66xxxx, tên tài khoản Zalo “Vu A”) giới thiệu bản thân có khả năng cung cấp hàng khẩu trang y tế các loại với số lượng lớn. Khoảng 11h ngày 18/3/2020, anh Đ gọi điện liên hệ với Vũ Hoàng A thỏa thuận đặt mua của Hoàng A 20 thùng khẩu trang y tế nhãn hiệu Xuân Lai, với giá 11.725.000 đồng/1 thùng, tổng số tiền thanh toán lô hàng là 234.500.000 đồng, Hoàng A yêu cầu anh Đ phải chuyển trước 35.000.000 đồng tiền đặt cọc lô hàng cho Hoàng A và hẹn khi nào hàng chuyển đến kho của anh Đ tại thành phố Đà Nẵng thì anh Đ sẽ thanh toán nốt số tiền hàng còn lại, đồng thời Hoàng A cam kết với anh Đ là đúng 19h00’ ngày 18/3/2020 xe chở hàng sẽ bắt đầu đi từ Hà Nội và đến 09h00’ sáng ngày 19/3/2020 anh Đ sẽ nhận được số hàng khẩu trang y tế trên tại kho của anh Đ ở Đà Nẵng, anh Đ đồng ý. Cùng ngày 18/3/2020, anh Đ chuyển tiền vào tài khoản của Vũ Hoàng A tại Ngân hàng Techcombank Hà Nội 02 lần với tổng số tiền 35.000.000 đồng đặt cọc mua 20 thùng hàng khẩu trang y tế (Lần 1 là 30.000.000 đồng và Lần 2 là 5.000.000 đồng - có Sao kê, nội dung đều ghi: Chuyển tiền cọc mua 20 thùng ktyt). Tuy nhiên, sau khi nhận tiền đặt cọc mua hàng trên của anh Đ, Hoàng A không tìm nguồn hàng và chuyển hàng khẩu trang y tế trên cho anh Đ như đã hứa hẹn, mà dùng để trả nợ và chi tiêu cá nhân hết. Quá hạn, đến sáng ngày 20/3/2020, anh Đ gọi điện, nhắn tin qua Zalo nhiều lần cho Hoàng A giục giao hàng, nhưng thực tế lúc này Hoàng A không có hàng để chuyển cho anh Đ như đã hứa hẹn, Hoàng A nói dối với anh Đ là xe ô tô chở 20 thùng hàng khẩu trang y tế trên đang đến kho của anh Đ tại TP Đà Nẵng và cam kết nếu anh Đ không nhận được hàng thì Hoàng A sẽ trả lại tiền đặt cọc. Đến 17h ngày 20/3/2020, anh Đ chờ không thấy xe hàng đến nên tiếp tục gọi điện giục Hoàng A, Hoàng A nhờ người quen là Phan Văn H, sinh 1998, trú tại phường L, quận H, Hà Nội (số điện thoại 0961.25xxxx, tên tài khoản Zalo “Phan H”) giả là lái xe ô tô chở hàng để nghe điện thoại khách hàng của Hoàng A gọi đến và nói là hẹn đến đêm xe chở hàng từ Đắc Lăk quay lại Đà Nẵng sẽ giao hàng cho anh Đ, nhưng khách hàng của Hoàng A (tức anh Nguyễn Lộc Đ) yêu cầu xe hàng phải đến trước 19h ngày 20/3/2020 không sẽ bị hủy đơn hàng. Do không nhận được số hàng khẩu trang y tế như Hoàng A đã hứa hẹn, anh Đ gọi điện cho Vũ Hoàng A nhiều lần yêu cầu trả lại tiền đặt cọc mua hàng, nhưng không liên lạc, không trả tiền. Đến ngày 13/4/2020, anh Nguyễn Lộc Đ đã gửi đơn tố cáo Vũ Hoàng A lừa đảo chiếm đoạt tài sản đến Cơ quan CSĐT- Công an quận Hoàn Kiếm, TP Hà Nội.

Về dân sự: Anh Nguyễn Lộc Đ yêu cầu Vũ Hoàng A bồi thường số tiền đã chiếm đoạt là 35.000.000 đồng.

3/. Hành vi lừa đảo chiếm đoạt 625.000.000 đồng của anh Đỗ Thanh T.

Khoảng đầu tháng 3/2020, thông qua bạn là anh Nguyễn Đức N, sinh 1995, trú tại số phường Đ, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội, anh Đỗ Thanh T, sinh 1988, trú tại số phường Quảng An, quận H, TP Hà Nội có quen biết với Vũ Hoàng A, sinh 1993, HKTT phường H, quận H, Hà Nội. Qua nói chuyện, khi biết anh T có nhu cầu mua khẩu trang y tế số lượng lớn để gửi cho người nhà ở nước ngoài và thời điểm này Chính phủ Việt Nam có Nghị quyết về việc cấm xuất khẩu hàng khẩu trang y tế ra nước ngoài trong giai đoạn phòng, chống dịch Covid19 (chỉ cho phép xuất khẩu với mục đích viện trợ, hỗ trợ quốc tế do Chính phủ thực hiện). Do cần tiền trả nợ và chi tiêu cá nhân, Vũ Hoàng A đã gian dối giới thiệu với anh T là Hoàng A có khả năng cung cấp hàng khẩu trang y tế các loại với số lượng lớn và lo được thủ tục chuyển hàng ra nước ngoài theo diện hàng viện trợ nhân đạo quốc tế của Hội chữ thập đỏ Việt Nam, tin tưởng anh T đã đồng ý thỏa thuận, đặt mua của Hoàng A 50 thùng khẩu trang y tế, với giá 12.300.000 đồng/1 thùng, tổng số tiền thanh toán lô hàng là 615.000.000 đồng và Hoàng A có trách nhiệm làm thủ tục vận chuyển số hàng mua trên ra nước ngoài cho người nhà của anh T tại Singapore và Malaysia, Hoàng A đồng ý.

Khoảng trưa ngày 23/3/2020, theo hẹn tại quán cafe phường Tràng Tiền, Hoàn Kiếm, Hà Nội, anh Đỗ Thanh T và Vũ Hoàng A đã ký kết Hợp đồng mua bán hàng hóa số 01/2020/HĐMB (có nội dung ghi: Anh T đồng ý đặt mua của Vũ Hoàng A 50 kiện hàng khẩu trang y tế 4 lớp, với giá 13.200.000 đồng/1 kiện hàng, tổng giá trị thanh toán tiền hàng là 660.000.000 đồng. Bên mua là anh T đã thanh toán 100.000.000 đồng để ký hợp đồng, nếu không ký hợp đồng trước 18h chiều ngày 23/3/2020 thì Bên bánlà Vũ Hoàng Ạ sẽ được bán số hàng mà Bên mua yêu cầu và Bên mua sẽ mất toàn bộ số tiền cọc để ký hợp đồng- Anh T ký Bên A, Hoàng A ký Bên B), đồng thời Hoàng A cam kết với anh T sẽ lo làm thủ tục vận chuyển 50 thùng khẩu trang y tế đặt mua trên ra nước ngoài cho người nhà của anh T tại Singapore và Malaysia theo diện có giấy xác nhận hàng viện trợ nhân đạo của Hội chữ thập đỏ Việt Nam, với chi phí vận chuyển thỏa thuận là 1.000.000 đồng/1 thùng và thỏa thuận khi người nhà của anh T nhận được hàng thì anh T thanh toán phí vận chuyển cho Hoàng A. Ngay sau khi ký hợp đồng, anh T chuyển tiền vào tài khoản của Vũ Hoàng A qua InternetBanking tại Ngân hàng Techcombank Hà Nội 02 lần với tổng số tiền là 110.000.000 đồng để đặt cọc và làm thủ tục vận chuyển hàng ra nước ngoài (Lần 1 là 50.000.000 đồng - có Sao kê, nội dung ghi Đặt cọc mua ktyte; Lần 2 là 60.000.000 đồng - nội dung ghi: Đặt cọc mua khẩu trang và làm giấy viện trợ).

Sau khi nhận tiền đặt cọc mua hàng của anh T, cùng ngày 23/3/2020 Vũ Hoàng A gọi điện liên hệ với anh Đặng Việt Y, sinh 1995, trú tại phường Cống Vị, quận Ba Đình, Hà Nội (số điện thoại 058.440.xxxx, tên tài khoản Zalo “Dang Viet Y”) thỏa thuận, đặt mua của Việt A 50 thùng khẩu trang y tế, với giá 12.200.000 đồng/1 thùng và yêu cầu Hoàng A phải đặt cọc trước số tiền 150.000.000 đồng để giữ hàng và thỏa thuận nếu quá thời hạn đặt cọc là 02 ngày mà Hoàng A không lấy hàng thì sẽ mất số tiền đặt cọc trên với chủ hàng, Hoàng A đồng ý. Ngay sau đó, theo số tài khoản Việt Y cung cấp, Hoàng A đã chuyển trước 90.000.000 đồng tiền đặt cọc mua 50 thùng hàng khẩu trang y tế vào tài khoản mang tên Đào Thị Thu G qua InternetBanking tại Ngân hàng Viettinbank (do Việt Y nhờ số tài khoản của chị G). Đến khoảng 19 giờ cùng ngày 23/3/2020, Việt Y gọi điện cho Hoàng A nói đã gom được 23 thùng khẩu trang y tế nhãn hiệu An Phú và để nhờ số hàng trên tại nhà vợ chồng người quen là anh Nguyễn Văn Q, sinh 1984 và chị Đào Thị Thu G sinh 1987, trú tại phường Khương Mai, Thanh Xuân, Hà Nội. Sau đó, Hoàng A dẫn anh Đỗ Thanh T đến nhà anh Q tại địa chỉ trên để xem hàng, anh T kiểm tra thấy mới có 23 thùng khẩu trang y tế nhãn hiệu An Phú nên anh T yêu cầu Hoàng A phải có đủ 50 thùng khẩu trang y tế như đã cam kết mới chuyển thanh toán tiền hàng. Khoảng 23 giờ cùng ngày 23/3/2020, Việt Y gọi điện cho Hoàng A nói là đã gom thêm được 27 thùng khẩu trang y tế nhãn hiệu Quyền Anh, với giá 12,2 triệu đồng/thùngvà để nhờ số hàng trên tại nhà anh Q. Ngay sau đó, Hoàng A gọi điện báo với anh T là đã gom đủ 50 thùng khẩu trang y tế và dẫn anh T quay lại nhà anh Q để kiểm tra hàng, tại nhà Q sau khi kiểm tra đủ 50 thùng khẩu trang y tế cùng giấy tờ lô hàng như đã thỏa thuận, anh T đã chuyển vào tài khoản của Vũ Hoàng A qua Internet Banking02 lần với tổng số tiền là 415.000.000 đồng để thanh toán tiền hàng trên (Lần 1 là 300.000.000đ và Lần 2 là 115.000.000đ - có Sao kê, nội dung ghi: Thanh toán ktyte 50 thùng), đồng thời anh T quay video clip và bàn giao lại 50 thùng khẩu trang y tế trên cho Vũ Hoàng A để làm thủ tục vận chuyển số hàng trên sang Singapore 20 thùng và Malaysia 30 thùng như đã thỏa thuận. Anh T hẹn khi nào Hoàng A làm thủ tục chuyển số hàng trên qua hãng vận chuyển xuất hóa đơn sang Singapore và Malaysia thì sẽ chuyển thanh toán nốt số tiền hàng còn lại cho Hoàng A. Khoảng 00h ngày 24/3/2020, theo yêu cầu của Việt Y, Hoàng A đã chuyển nốt 60.000.000 đồng tiền đặt cọc mua 50 thùng khẩu trang y tế trên vào tài khoản của chị G qua InternetBanking (gồm lần 1 là 40.000.000 đồng và lần 2 là 20.000.000đ - có Sao kê, nội dung ghi: CK tiền cọc 50t).

Tuy nhiên, ngay sau khi nhận tiền hàng của anh T, Hoàng A đã sử dụng trả nợ và chi tiêu cá nhân hết, không mua hàng và không chuyển 50 thùng khẩu trang y tế trên ra nước ngoài cho người nhà của anh T tại Singapore và Malaysia như đã hứa hẹn, mà lên mạng Internet tìm khách bán 50 thùng hàng khẩu trang y tế trên đã đặt mua của Việt Y để thu hồi tiền đã đặt cọc về. Khoảng 02h sáng ngày 24/3/2020, Hoàng A gọi điện cho bạn là anh Nguyễn Đức N, sinh 1995 nói là “Công ty anh có hàng khẩu trang y tế, mai đến phiên anh giữ hàng có 50 thùng Nam Anh, 23 thùng An Phú và 27 thùng Quyền Anh” và nhờ N tìm khách để bán ngay. Anh N đồng ý và gọi điện báo với Hoàng A là đã tìm được khách hàng trên mạng Internet (không nhớ họ tên, địa chỉ, tên tài khoản) mua 23 thùng khẩu trang y tế nhãn hiệu An Phú với giá 12,6 triệu đồng/1 thùng (x 23 thùng = 289.800.000 đồng). Khoảng 10h cùng ngày 24/3/2020, theo hẹn anh N dẫn khách hàng đến gặp Hoàng A tại địa chỉ nhà anh Q để xem hàng, tại đây khách hàng đồng ý mua 23 thùng khẩu trang y tế nhãn hiệu An Phú với giá 12,6 triệu đồng/1 thùng và chuyển thanh toán tiềnhàng trên cho anh N là 289.800.000 đồng, ngay sau đó anh N chuyển 262.800.000 đồng cho Hoàng A vào tài khoản mang tên Đào Thị Thu G qua InternetBanking để thanh toán 23 thùng hàng khẩu trang y tế trên(có Sao kê - nội dung ghi: HA ck), còn lại số tiền 27.000.000 đồng Hoàng A cho anh N hưởng tiền môi giới. Đến ngày 25/3/2020, do Hoàng A không tìm được khách mua 27 thùng khẩu trang y tế nhãn hiệu Quyền Anh còn lại đang để tại nhà anh Q và quá thời hạn đặt cọc là 02 ngày để giữ hàng như đã thỏa thuận, nên Việt Y và anh Thịnh gọi điện báo cho Hoàng A biết đã trả lại số hàng khẩu trang y tế trên cho chủ hàng và Hoàng A bị trừ mất 150.000.000 đồng tiền đặt cọc đã chuyển trên.

Ngày 25/3/2020, anh T gặp Vũ Hoàng A yêu cầu ký Biên bản cam kết (có nội dung ghi: Hoàng A có nhận của anh Đỗ Thanh T 50 thùng hàng thiết bị y tế vận chuyển giao hàng sang Sing và Malay trong thời hạn là 7 ngày, trong đó 20 thùng đi Singapore và 30 thùng đi Malaysia. Hoàng A đã nhận đủ số tiền 660.000.000 đồng của anh T thanh toán cho lô hàng. Tiền vận chuyển anh T sẽ thanh toán lại cho Hoàng A khi hàng sang đến địa chỉ người gửi. Hoàng A cam kết hàng sẽ được giao đến nơi đúng thời hạn, nguyên vẹn, đúng chủng loại hàng mà anh T đã bàn giao, nếu không sẽ phải trả lại toàn bộ số tiền hàng đã nhận của anh T. Sau đó, cùng ngày 25/3/2020 Hoàng A liên hệ qua Zalo với Công ty Thương mại dịch vụ T và S (là đại lý của Công ty dịch vụ gửi hàng và chuyển phát nhanh quốc tế DHL), địa chỉ tại quận H, Hà Nội đăng ký gửi 01 kiện hàng khẩu trang vải sang Singapore có vận đơn mã số 2756490xxx và 01 kiện hàng khẩu trang vải sang Malaysia có Vận đơn mã số 2756498xxx, chụp lại 02 mã vận đơn trên gửi qua Zalo cho anh T. Anh T kiểm tra thấy mỗi vận đơn trên chỉ ghi 01 kiện hàng và có hỏi lại, Hoàng A nói là do hệ thống máy tính của Công ty DHL lỗi, chưa cập nhật và sẽ gửi lại vận đơn sau. Đến ngày 26/3/2020, Hoàng A tải 02 file vận đơn (dưới định dạng PDF) trên trang: DHL.com.vn về điện thoại Iphone 6S Plus của Hoàng A và tự chỉnh sửa tờ Vận đơn sang Singapore số lượng 01 kiện hàng thành 30 kiện hàng và tờ Vận đơn sang Malaysia số lượng 01 kiện hàng thành 18 kiện hàng, rồi gửi lên nhóm Zalo “khẩu trang xuất khẩu” trên Facebook cho anh T biết (Hoàng A khai do nhớ nhầm là ký hợp đồng mua 48 thùng ktyt). Sau khi xem lại 02 mã vận đơn giả trên, anh T tưởng là thật đã chuyển 100.000.000 đồng vào tài khoản của Vũ Hoàng A qua InternetBanking để thanh toán nốt số tiền hàng còn lại. Tổng cộng, Vũ Hoàng A đã nhận của anh Đỗ Thanh T 625.000.000 đồng để thanh toán 50 thùng khẩu trang y tế và lo làm thủ tục vận chuyển hàng trên ra nước ngoài. Sau đó, Hoàng A mua 02 thùng khẩu trang vải với giá 5 triệu đồng/1 thùng (mỗi thùng 100 chiếc khẩu trang) gửi theo địa chỉ anh T yêu cầu sang Singapore 01 thùng và sang Malaysia 01 thùng thông qua Công ty T và S. Đến ngày 31/3/2020, người nhà anh T ở Singapore và Malaysia nhận được 01 thùng hàng (gồm 100 chiếc khẩu trang vải) nên đã gọi điện báo lại cho anh T biết, anh T đã tìm gặp Hoàng A yêu cầu trả lại tiền hàng trên nhưng không liên lạc được, ngày 01/4/2020 anh T đã gửi đơn tố cáo sự việc trên đến Cơ quan CSĐT - Công an quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.

Về dân sự: Ngày 02/4/2020, chị Phạm Thị Thanh P (là bạn của Hoàng A) đã chuyển vào tài khoản của anh T 200.000.000 đồng tại Ngân hàng VPBank để khắc phục hậu quả và Vũ Hoàng A trả cho anh T 10.000.000 đồng, tổng cộng đã khắc phục trả lại anh T 210.000.000 đồng, hiện còn chiếm đoạt 415.000.000 đồng. Anh Đỗ Thanh T yêu cầu Vũ Hoàng A bồi thường số tiền đã chiếm đoạt trên và có đơn đề nghị xin giảm nhẹ hình phạt cho Vũ Hoàng A.

Tại cơ quan điều tra, bị can Vũ Hoàng A khai: Trong thời gian tháng 3/2020, khi tình hình đại dịch Covid-19 bùng phát, Vũ Hoàng A có làm môi giới bán hàng khẩu trang y tế trên mạng Internet, nhưng do cần tiền trả nợ và chi tiêu cá nhân Hoàng A đã nảy sinh ý định lừa đảo chiếm đoạt tài sản, bằng cách giới thiệu bản thân có khả năng cung cấp hàng khẩu trang y tế với số lượng lớn để nhận tiền đặt cọc của những người có nhu cầu mua hàng khẩu trang y tế, sau đó không giao hàng như đã hứa hẹn và chiếm đoạt tiền của họ. Với thủ đoạn trên, Vũ Hoàng A đã lừa đảo chiếm đoạt 800.000.000 đồng của anh Thái Văn L để mua 300 thùng khẩu trang y tế, 35.000.000 đồng của anh Nguyễn Lộc Đ để mua 20 thùng khẩu trang y tế và chiếm đoạt 625.000.000 đồng của anh Đỗ Thanh T để mua 240 thùng khẩu trang y tế và lo làm thủ tục vận chuyển hàng trên ra nước ngoài. Về hành vi chiếm đoạt 625.000.000 đồng của anh Đỗ Thanh T, Hoàng A khai: Hoàng A đã nảy sinh ý định chiếm đoạt tiền của anh T từ khi anh T đặt vấn đề có nhu cầu mua 50 thùng khẩu trang y tế để gửi ra nước ngoài cho người nhà của anh T ở Singapore và Malaysia, nên khoảng giữa tháng 3/2020 Hoàng A có liên hệ qua Zalo với Công ty T&S company (số điện thoại 0916.66xxxx) hỏi về thủ tục xuất khẩu hàng khẩu trang y tế ra nước ngoài, công ty có tư vấn cho Hoàng A biết thời gian này Chính phủ đã có văn bản cấm xuất khẩu hàng khẩu trang y tế ra nước ngoài trong giai đoạn phòng chống đại dịch COVID-19, nếu muốn vận chuyển hàng ra nước ngoài phải có Giấy ủng hộ nhân đạo hàng khẩu trang y tế ra nước ngoài của Hội chữ thập đỏ Việt Nam và có gửi cho Hoàng A 01 hình ảnh mẫu Giấy ủng hộ.

Sau đó, Hoàng A có gửi hình ảnh mẫu Giấy ủng hộ cho anh T xem và nói Hoàng A có khả năng cung cấp hàng khẩu trang y tế với số lượng lớn và lo được thủ tục vận chuyển hàng trên ra nước ngoài cho anh T. Anh T tin tưởngđồng ý ký hợp đồng mua bán 50 thùng khẩu trang y tế với Hoàng A và có trách nhiệm vận chuyển hàng trên ra nước ngoài cho anh T. Thực tế, bản thân Hoàng A là lao động tự do, không có chức năng, khả năng làm thủ tục xuất khẩu hàng khẩu trang y tế ra nước ngoài, không biết xin giấy ủng hộ trên ở đâu và thủ tục như thế nào. Nhưng do cần tiền để trả nợ cá nhân, Hoàng A vẫn đưa ra thông tin gian dối giới thiệu bản thân có khả năng cung cấp 50 thùng khẩu trang y tế và lo thủ tục vận chuyển hàng khẩu trang y tế trên ra nước ngoài nhằm chiếm đoạt 625.000.000 đồng của anh Đỗ Thanh T. Ngay sau khi nhận 625.000.000 đồng của anh T, Hoàng A đã sử dụng 150.000.000 đồng để đặt cọc mua hàng cho Việt Y ngày 24/3/2020, chuyển khoản cho anh N 102.200.000 đồng để nhờ trả nợ vay cho anh Phan Văn H 100.000.000 đồng vàcho anh N 2.200.000 đồng vì đã giới thiệu cho Hoàng A với anh T, chuyển khoản cho bạn là Phạm Thị Thanh P, sinh 1998, trú tại phường H, TP Hải Dương, tỉnh Hải Dương 200.000.000 đồng để trả nợ vay trước đó, trả nợ vay 40.000.000 đồng cho anh L, số tiền còn lại Hoàng A dùng để trả nợ và chi tiêu cá nhân hết (không nhớ họ tên, địa chỉ, số tiền trả); Khi Hoàng A nhờ anh N tìm khách mua 23 thùng khẩu trang y tế trên, Hoàng A không cho anh N biết số hàng khẩu trang y tế trên do Hoàng A ký hợp đồng và đã bán cho anh T. Việc Hoàng A đặt vận đơn rồi mua 2 thùng khẩu trang vải để chuyển ra nước ngoài cho người nhà của anh T, dù biết là sẽ bị phát hiện nhưng Hoàng A vẫn thực hiện vì cần tiền để trả nợ. Anh N, Việt Y, anh Q, chị G không biết, không liên quan đến việc Hoàng A giao dịch, nhận tiền mua 50 thùng khẩu trang y tế của anh T. Đối với số tiền cọc 150.000.000 đồng Việt Y trừ do Hoàng A không lấy hàng như đã thỏa thuận, Hoàng A không yêu cầu đề nghị gì. Ngoài việc lừa đảo chiếm đoạt tiền của 3 người bị hại trên, Hoàng A không lừa đảo chiếm đoạt tài sản của ai khác.

Cơ quan điều tra đã thu giữ của Vũ Hoàng A: 01 điện thoại di động Iphone 6S màu hồng, 01 điện thoại di động Iphone X màu trắng (thuê bao số 0385.668.326) và 01 Căn cước công dân mang tên Vũ Hoàng A. Các bị hại là anh Thái Văn L, Nguyễn Lộc Đ và Đỗ Thanh T đã giao nộp cho Cơ quan điều tra về tài liệu tin nhắn điện thoại qua Zalo với Vũ Hoàng A (có số điện thoại 0385.66xxxx, tên tài khoản là “Vũ A”) thể hiện nội dung trao đổi mua bán hàng khẩu trang y tế, giao hàng, chuyển tiền đặt cọc hàng, đòi trả lại tiền.

Cơ quan điều tra đã thu thập các văn bản liên quan do Tổng cục Hải quan - Bộ Tài chính cung cấp: Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 28/02/2020 của Chính Phủ về việc áp dụng chế độ cấp giấy phép xuất khẩu đối với mặt hàng khẩu trang y tế trong giai đoạn phòng, chống dịch COVID-19 và Công văn hỏa tốc số 1431 ngày 09/3/2020 của Tổng cục Hải quan về việc tăng cường công tác phòng, chống dịch COVID-19.

Tại Kết luận giám định số 3219 ngày 08/6/2020 của Viện Khoa học hình sự- Bộ Công an, kết luận: Đối với 02 clip do anh Đỗ Thanh T giao nộp cho Cơ quan điều tra có tên: “Clip 1 kiểm tra 23 thùng.MP4”, dung lượng 19,2 MB, thời lượng 01 phút 39 giây; “Clip 2 kiểm tra 27 thùng.MP4”, dung lượng 3,05 MB, thời lượng 00 phút 35 giây, không tìm thấy dấu vết cắt ghép, chỉnh sửa nội dung hình ảnh trong các tệp video gửi giám định.

Tại Kết luận giám định số 5038 ngày 01/7/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự- Công an TP Hà Nội, kết luận: Chữ ký, chữ viết đứng tên Vũ Hoàng A trên các tài liệu Hợp đồng mua bán hàng hóa số 01/2020/HĐMB ngày 07/3/2020 (Ký hiệu A1), Hợp đồng mua bán hàng hóa số 01/2020/HĐMB ngày 23/3/2020 (Ký hiệu A2), Biên bản cam kết ngày 25/3/2020 (Ký hiệu A3), so với mẫu chữ ký, chữ viết của Vũ Hoàng A là chữ do cùng một người ký và viết ra.

Về trách nhiệm dân sự: Vũ Hoàng A đã khắc phục hậu quả trả lại anh T 210.000.000 đồng, còn chiếm đoạt của các bị hại là 1.320.000.000 đồng. Bà Nguyễn Thị Lan C (là mẹ đẻ của Vũ Hoàng A) đã tự nguyện nộp 5.000.000 đồng để khắc phục hậu quả vụ án.

Đối với những người liên quan gồm Đặng Văn S, Phan Văn H, Đặng Việt Y, Nguyễn Văn Q, Đào Thị Thu G và Nguyễn Đức N, qua điều tra xác định những người này không biết việc giao dịch, nhận tiền mua bán hàng khẩu trang y tế giữa Vũ Hoàng A với các bị hại trên, không được trao đổi, bàn bạc và không hưởng lợi từ hành vi lừa đảo chiếm tài sản của Vũ Hoàng A. Do vậy, không đủ căn cứ xác định những người này đồng phạm với Vũ Hoàng A về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tiền của các bị hại, nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý.

Tại bản cáo trạng số 212 /CT-VKSHN - P3 ngày 03/6/2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội đã truy tố Vũ Hoàng A tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng truy tố.

Bị hại anh Thái Văn L xác nhận số tiền bị cáo chiếm đoạt của anh là 870 triệu đồng, mẹ bị cáo đã chuyển khoản trả anh 05 triệu đồng nên đề nghị buộc bị cáo phải bồi thường trả anh là 865 triệu đồng và xử lý bị cáo theo quy định pháp luật.

Bị hại anh Đỗ Thanh T xác nhận khoản tiền bị cáo chiếm đoạt của anh là 625 triệu đồng, anh đã nhận lại 210 triệu còn 415 triệu. Đến nay anh thông cảm với hoàn cảnh của bị cáo nên không yêu cầu bị cáo phải bồi thường nữa và đề nghị tòa án giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bà Nguyễn Thị Lan C là mẹ bị cáo xác nhận đã tự nguyện trả bị hại L 05 triệu đồng và nộp tại cơ quan điều tra 05 triệu đồng để khắc phục hậu quả thay bị cáo. Bà C không có ý kiến gì về khoản tiền này chỉ đề nghị hội đồng xét xử xem xét hoàn cảnh để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội có quan điểm:

Căn cứ lời khai của bị cáo, bị hại và các tài liệu có trong hồ sơ, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố tại bản cáo trạng truy tố đối với Vũ Hoàng A. Bị cáo phạm tội nhiều lần, thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội và khắc phục một phần hậu quả nên đề nghị hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 4 điều 174; điểm b,s khoản 1 điều 51; điểm g khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Vũ Hoàng A từ 12 đến 13 năm tù.

Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo phải bồi thường số tiền còn chiếm đoạt theo yêu cầu của bị hại. Buộc anh Nguyễn Đức N và anh Phan Văn H phải nộp lại khoản tiền đã nhận của bị cáo để trả cho bị hại.

Vật chứng đề nghị sung vào ngân sách nhà nược 02 điện thoại di động, trả bị cáo 01 căn cước công dân và tiếp tục giữ khoản tiền 05 triệu đồng để đảm bảo thi hành án.

Luật sư bào chữa cho bị cáo trình bày quan điểm được tóm tắt như sau:

Không có ý kiến gì về tội danh.

Tuy nhiên đề nghị hội đồng xét xử xem xét về số tiền 800 triệu đồng bị cáo nhận của anh L. Bản chất bị cáo là môi giới kiếm lời, anh L đặt vấn đề trước mua thêm 300 thùng khẩu trang, giữa bị cáo và anh L có ký hợp đồng mua bán nên ở đây là mua bán ngay thẳng không có sự gian dối. Việc sau khi nhận tiền của anh L bị cáo đã chuyển trả tiền hàng cho anh X chỉ là chiếm dụng vốn của người sau trả cho người trước do bị cáo còn non kém thiếu hiểu biết trong kinh doanh chứ không có ý chiếm đoạt.

Về bản thân và hoàn cảnh của bị cáo: Bị cáo là một thanh niên có ý thức vươn lên trong cuộc sống nên đã có thời gian kinh doanh nhưng do còn trẻ tuổi, năng lực yếu kém nên đã bị phá sản. Gia đình bị cáo đã phải bán nhà để trả nợ cho bị cáo. Sau đó vì thất nghiệp bị cáo đã phải bán hàng online, môi giới kiếm tiền song do thiếu kinh nghiệm nên đã nhất thời phạm tội. Bố, mẹ bị cáo đều làm trong lực lượng vũ trang, gia đình có bác là người có công với cách mạng. Đề nghị hội đồng xét xử áp dụng cho bị cáo các tình tiết giảm nhẹ tại các điểm b,s,x khoản 1 điều 51, điều 54 Bộ luật hình sự cho bị cáo được hưởng mức hình phạt thấp nhất để sớm trở về làm lại cuộc đời.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra công an quận Hoàn Kiếm, công an thành phố Hà Nội, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội, kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, luật sư bào chữa cho bị cáo và bị cáo không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Về nội dung:

Căn cứ lời khai của bị cáo, bị hại, người làm chứng, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ, có đủ cơ sở kết luận:

Vũ Hoàng A làm nghề tự do trong đó có việc môi giới bán hành khẩu trang. Tại thời điểm tháng 3/2020 là thời điểm dịch bệnh covid đang diễn biến phức tạp, nhu cầu khẩu trang y tế cần nhiều. Lợi dụng việc này, mặc dù không có nguồn hàng nhưng Vũ Hoàng A vẫn giới thiệu bản thân có khả năng cung cấp khẩu trang và hứa hẹn với nhiều người để chiếm đoạt tiền. Để các người bị hại tin tưởng, Hoàng A đã liên hệ mua một lượng ít khẩu trang bán tạo lòng tin, sau đó gợi ý bán số lượng lớn, nhận tiền đặt cọc và chiếm đoạt. Với thủ đoạn trên Vũ Hoàng A đã chiếm đoạt của anh Thái Văn L số tiền 870 triệu đồng, anh Nguyễn Lộc Đ 35 triệu đồng và anh Đỗ Thanh T số tiền 625 triệu đồng. Tổng cộng bị cáo đã chiếm đoạt 1.530.000.000 đồng của các bị hại.

Luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị xem xét lại khoản tiền 800 triệu đồng bị cáo nhận từ anh L không có yếu tố gian dối và chiếm đoạt. Hội đồng xét xử thấy rằng tại phiên tòa bị cáo thừa nhận khi gợi ý anh L mua lô hàng 300 thùng khẩu trang bị cáo không hề có nguồn hàng nhưng do cần tiền trả nợ bị cáo đã hứa hẹn với anh L để nhận tiền đặt cọc 800 triệu đồng. Sau khi nhận tiền bị cáo đã chuyển khoản ngay để trả nợ và thực tế bị cáo không có hàng giao cho anh L nên anh L đã yêu cầu bị cáo phải ký hợp đồng. Như vậy có đủ cơ sở kết luận bị cáo đã có hành vi gian dối để chiếm đoạt khoản tiền 800 triệu đồng của anh L. Đề nghị của luật sư không có căn cứ để chấp nhận.

Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 điều 174 Bộ luật hình sự.

Bản cáo trạng truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác với số lượng lớn, gây mất trật tự trị an xã hội cần phải được xử lý nghiêm khắc nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm.

Khi quyết định hình phạt hội đồng xét xử có xem xét quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, ăn năn hối cải; nhân thân tốt chưa tiền án, tiền sự; đã tác động gia đình khắc phục một phần hậu quả là 215 triệu đồng; tại phiên tòa bị hại là anh Đỗ Thanh T đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền bị cáo còn chiếm đoạt của anh. Vì vậy bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b,s khoản 1 khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo phạm tội nhiều lần nên phải chịu tình tiết tăng nặng theo điểm g khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự.

Về trách nhiệm dân sự:

Bị cáo đã chiếm đoạt tiền của các bị hại nên phải có trách nhiệm bồi thường. Cụ thể:

Buộc bị cáo phải bồi thường cho anh Thái Văn L số tiền 870 triệu đồng. Anh L xác nhận mẹ bị cáo đã trả anh 05 triệu đồng nên bị cáo còn phải bồi thường là 865 triệu đồng.

Buộc bị cáo phải bồi thường trả anh Nguyễn Lộc Đ số tiền 35 triệu đồng.

Buộc bị cáo phải bồi thường cho anh Đỗ Thanh T số tiền đã chiếm đoạt là 625 triệu đồng. Anh T đã nhận 210 triệu đồng, bị cáo còn phải bồi thường là 415 triệu đồng. Ghi nhận sự tự nguyện của anh Đỗ Thanh T tại phiên tòa không yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền còn chiếm đoạt.

Về số tiền Vũ Hoàng A nhận của các bị hại, bị cáo khai dùng để trả nợ và chi tiêu cá nhân. Cụ thể Hoàng A đã chuyển cho anh Nguyễn Đức N số tiền 102.200.000 đồng nhờ anh N trả nợ cho anh Phan Văn H 100 triệu đồng còn 2.200.000 đồng là trả công anh N giới thiệu anh T cho bị cáo. Lời khai này của bị cáo phù hợp với lời khai của anh N, anh H và các tài liệu sao kê thể hiện sau khi nhận 415 triệu đồng từ anh T bị cáo đã chuyển ngay cho anh N 102.200.000 đồng. Như vậy số tiền này là tiền do bị cáo thực hiện hành vi phạm tội mà có nên buộc anh Phan Văn H phải truy nộp lại 100 triệu đồng, anh Nguyễn Đức N phải truy nộp lại số tiền 2.200.000 đồng để trả cho bị hại là anh Đỗ Thanh T. Việc vay mượn giữa bị cáo và anh H sẽ tự giải quyết, nếu có tranh chấp giải quyết bằng vụ kiện dân sự khác.

Ngoài ra Vũ Hoàng A còn chuyển 200 triệu đồng cho chị Phạm Thị Thanh P để trả nợ, chị P đã tự nguyện nộp lại số tiền này để trả cho anh T, chị P không có yêu cầu gì nên tòa không giải quyết.

Đối với bà Nguyễn Thị Lan C đã tự nguyện trả anh L số tiền 05 triệu đồng và nộp tại cơ quan điều tra 05 triệu đồng để khắc phục hậu quả thay bị cáo. Bà O không có yêu cầu gì nên tòa không giải quyết.

Về xử lý vật chứng:

-Thu của bị cáo 02 điện thoại di động sử dụng thực hiện hành vi phạm tội nên cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

- Thu của bị cáo một căn cước công dân, đây là giấy tờ tùy thân nên trả lại cho bị cáo.

- Số tiền 05 triệu đồng giữ để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án của bị cáo.

Về án phí và quyền kháng cáo:

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, án phí dân sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Vũ Hoàng A phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”

- Áp dụng: Điểm a khoản 4 điều 174; điểm b,s khoản 1 khoản 2 điều 51; điểm g khoản 1 điều 52; điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Vũ Hoàng A 12(mười hai) năm tù. Hạn tù tính từ ngày 02/4/2020.

- Áp dụng điều 47; điều 48 Bộ luật hình sự; điều 106; điều 136, điều 331, điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của ủy ban thường vụ quốc hội về án phí, lệ phí tòa án.

+ Về trách nhiệm dân sự:

Buộc Vũ Hoàng A phải bồi thường cho anh Thái Văn L số tiền 865.000.000(năm trăm, sáu lăm triệu) đồng. Bồi thường cho anh Nguyễn Lộc Đ số tiền 35.000.000(ba lăm triệu) đồng.

Ghi nhận sự tự nguyện của anh Đỗ Thanh T không yêu cầu bị cáo phải bồi thường.

Buộc anh Nguyễn Đức N phải truy nộp số tiền 2.200.000(hai triệu, hai trăm nghìn) đồng. Anh Phan Văn H phải truy nộp số tiền 100.000.000(một trăm triệu) đồng để trả cho anh Đỗ Thanh T. Việc vay nợ giữa bị cáo và anh Phan Văn H sẽ tự giải quyết nếu có tranh chấp giải quyết bằng vụ kiện dân sự khác.

Kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật hoặc có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả được thực hiện theo khoản 2 điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015.

+ Về vật chứng:

- Sung vào ngân sách nhà nước 02 điện thoại di động - Trả bị cáo một căn cước công dân mang tên Vũ Hoàng A.

Toàn bộ vật chứng trên được mô tả và giữ tại Cục thi hành án dân sự thành phố Hà Nội theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 04/02/2021 (BL 842 có trong hồ sơ) - Giữ số tiền 5.000.000(năm triệu) đồng để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án của bị cáo. Số tiền này hiện đang được giữ tại tài khoản của Cục thi hành án dân sự thành phố Hà Nội theo ủy nhiệm chi số 01 ngày 03/02/2021(BL 841 có trong hồ sơ) + Về án phí và quyền kháng cáo:

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm; 39.000.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

321
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 341/2021/HS-ST

Số hiệu:341/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/10/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về