Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 317/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 317/2023/HS-PT NGÀY 12/05/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 5 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 626/2022/TLPT- HS ngày 12 tháng 7 năm 2022 đối với các bị cáo Bùi Thị H, Lương Văn H1 phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 168/2022/HSST ngày 30 tháng 5 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.

* Các bị cáo có kháng cáo:

1. Bùi Thị H, sinh ngày 01/3/1986 tại tỉnh Hưng Yên; nơi ĐKHKTT: thôn Duyên H2, xã Minh Th, huyện Vụ B, tỉnh Nam Định; chỗ ở: Tập thể phân lân Văn Đ, thị trấn Văn Đ, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội; giới tính: Nữ; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 12/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; đoàn thể, đảng phái: Không; con ông Bùi Xuân H3 và bà Lê Thị O; chồng là Phạm Tuấn A, có 02 con, con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 13/7/2020; hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1 - Công an thành phố Hà Nội; có mặt.

2. Lương Văn H1, sinh ngày 29/4/1991 tại tỉnh Nam Định; nơi ĐKHKTT: số 162/12, Hồng K, xóm 10, xã Hồng Th, huyện Giao Th1, tỉnh Nam Định; chỗ ở: số 107/205 Xuân Đ1, phường Xuân Đ1, quận Bắc Từ L, thành phố Hà Nội; giới tính: Nam; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 12/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; đoàn thể, đảng phái: Không; con ông Lương Văn L1 và bà Bùi Thị T; vợ là Đỗ Thị L2, có 01 con sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 03/7/2019; hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1- Công an thành phố Hà Nội; có mặt.

* Người bào chữa cho các bị cáo:

- Người bào chữa cho bị cáo Bùi Thị H: Luật sư Nguyễn Mạnh Th2 và luật sư Phạm Quang H3 - Văn phòng luật sư Hưng L2 thuộc Đoàn luật sư thành phố Hà Nội; đều có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Lương Văn H1: Luật sư Trần Thị Tr, luật sư Nguyễn Thị Ng và luật sư Nguyễn Thị Vân H4 - Công ty Luật TNHH LEVINA thuộc Đoàn luật sư thành phố Hà Nội; đều có mặt.

* Người bị hại không kháng cáo được triệu tập: Công ty tài chính TNHH MTV H Việt Nam (viết tắt là Công ty H); trụ sở: Tầng G, 8 và 10, Tòa nhà P, số 20, Nguyễn Đăng Giai, phường Thảo Điền, quận 2, thành phố Hồ Chí Minh; Người đại diện theo pháp luật: Ông Dmitry M - Tổng giám đốc; vắng mặt; Ông Dmitry M ủy quyền cho ông Nguyễn Văn Đ2 - Chuyên viên an ninh; có mặt.

Ngoài ra, trong vụ án còn có bị cáo Vũ Hồng C có kháng cáo sau đó đã có đơn xin rút kháng cáo, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã ban hành Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo Vũ Hồng C.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Công ty tài chính TNHH MTV H Việt Nam (gọi tắt là Công ty H) có trụ sở chính tại tầng 1, 194, Golden Building, số nhà 473, đường Điện Biên Phủ, phường 25, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh; chi nhánh tại Hà Nội: tầng 12, tòa nhà Việt Tower, số 01-02, phố Thái Hà, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội. Trong khoảng thời gian từ tháng 5/2013 đến tháng 10/2014, Công ty H đã ký thỏa thuận hợp tác kinh doanh với các cửa hàng bán xe máy, điện thoại di động, đồ điện tử gia dụng... ở các tỉnh, thành khác nhau trên cả nước để cung cấp dịch vụ cho khách vay tiền mua hàng trả góp; nếu khách hàng có nhu cầu, Công ty H sẽ hỗ trợ bằng cách ký hợp đồng tín dụng cho khách hàng vay tiền mua sản phẩm. Theo quy định, để được Công ty H chấp thuận ký hợp đồng tín dụng cho vay tiền thì khách hàng phải có chứng minh nhân dân và sổ hộ khẩu hoặc giấy phép lái xe (đều là bản chính) để nhân viên của Công ty H kiểm tra, đối chiếu. Tại thời điểm ký hợp đồng, khách hàng phải có mặt để tiến hành các nội dung thẩm định, ký tên trên hợp đồng và chụp hình khách hàng để đưa vào hồ sơ vay tài chính nhằm có căn cứ thu hồi tiền vay. Quy trình cho vay và quản lý hợp đồng tín dụng cho vay mua hàng hóa trả góp của khách hàng như sau:

Khách hàng đến cửa hàng có hợp tác kinh doanh với Công ty H để lựa chọn sản phẩm. Tại đây có các nhân viên kinh doanh (SA) của Công ty H trực và tư vấn khách hàng mua sản phẩm điện thoại di dộng, máy tính xách tay, xe máy... khách hàng có nhu cầu mua trả góp thông qua Công ty cho vay tài chính H sẽ được nhân viên (SA) tư vấn thông tin trả góp như: Thông tin về khoản vay, lãi suất, hình thức trả tiền, lãi phạt quá hạn... Nếu khách hàng đồng ý vay trả góp, nhân viên (SA) sẽ kiểm tra các giấy tờ tùy thân của khách hàng gồm: chứng minh nhân dân (bắt buộc phải có đối với tất cả các khoản vay), giấy phép lái xe còn hiệu lực (đối với khoản vay dưới 10.000.000 đồng), sổ hộ khẩu (đối với khoản vay trên 10.000.000 đồng). Nhân viên kinh doanh phải kiểm tra các thông tin hợp lệ về giấy tờ tuỳ thân của khách vay, cụ thể: Hình ảnh trên chứng minh nhân dân phải giống khách hàng trên thực tế; đối chiếu bản sao sổ hộ khẩu đủ trang và thông tin; địa chỉ thường trú trong sổ hộ khẩu; họ tên khách hàng; số chứng minh nhân dân của khách hàng; thông tin cá nhân của khách hàng (phải giống trên chứng minh nhân dân); Đối chiếu bản sao bằng lái xe với chứng minh nhân dân)... Nếu khách hàng đưa bản sao sổ hộ khẩu và bản sao chứng minh nhân dân thì địa chỉ thường trú trên sổ hộ khẩu phải thuộc địa phương nơi Công ty H có hoạt động kinh doanh; nếu hồ sơ khách hàng có gì sai, nhân viên phải đề nghị khách hàng điều chỉnh lại thông tin và có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền; nếu hồ sơ đầy đủ thì nhân viên (SA) mở Web-client, mở mục “New contract” để điền mẫu đơn. Nhân viên (SA) hỏi khách hàng thông tin cá nhân và nhập thông tin vào mẫu đơn trên Web-client; phải điền đầy đủ mẫu đơn. Web- client sẽ thông báo nếu điền thiếu phần thông tin bắt buộc... nhân viên (SA) mở Web-client, tìm số hợp đồng trên Web-client để kiểm tra kết quả Hợp đồng sau khi nhân viên tổng đài ở trụ sở công ty đã hoàn tất thẩm định. Khi hồ sơ được duyệt, nhân viên (SA) sẽ in hồ sơ theo mẫu ban hành của Công ty để khách hàng ký. Nhân viên (SA) ký xác nhận vào các tài liệu là giấy tờ tùy thân của khách bản photo xác định “đã đối chiếu với bản gốc”, sau đó đưa cho nhân viên bán hàng của siêu thị ký. Khách hàng sẽ nộp một phần số tiền trả trước theo gói vay và nhận sản phẩm cần mua. Hồ sơ sau khi hoàn thiện sẽ nộp về Công ty H để quản lý. Đối với hợp đồng tín dụng đã ký, trong vòng 04 tháng đầu tiên nhân viên kinh doanh (SA) có trách nhiệm quản lý thông tin khách hàng, được Công ty thông báo việc khách hàng chấp hành thanh toán gốc, lãi khi đến kỳ. Nếu khách hàng chậm thanh toán nhân viên (SA) sẽ bị trừ hoa hồng theo hợp đồng. Sau 04 tháng kể từ ngày ký hợp đồng, việc theo dõi và quản lý hoạt động thanh toán của khách hàng sẽ được chuyển cho bộ phận thu hồi nợ của Công ty, từ thời điểm này trở đi nhân viên kinh doanh (SA) không phải chịu trách nhiệm việc khách hàng không thanh toán hoặc chậm thanh toán khi đến kỳ và không bị trừ tiền thưởng hoa hồng. Hợp đồng vay dưới 10.000.000 đồng thì nhân viên (SA) sẽ được thưởng hoa hồng 90.000 đồng/hợp đồng; hợp đồng vay trên 10.000.000 đồng sẽ được thưởng hoa hồng 175.000 đồng/hợp đồng; các hợp đồng có mua bảo hiểm rủi ro sẽ được thưởng thêm 20.000 đồng/hợp đồng và không phân biệt mức tiền vay; các hợp đồng cho vay không lãi suất thì chỉ được nhận hoa hồng 20.000đồng/hợp đồng (là tiền hoa hồng cho mức bảo hiểm rủi ro). Trong các tháng cao điểm, nếu nhân viên đạt vượt chỉ tiêu kinh doanh, sẽ được nhân đôi mức hoa hồng cho hợp đồng ký thành công, được thưởng 180.000 đồng/hợp đồng... Năm 2015, qua hoạt động kiểm soát nội bộ, phòng chống gian lận, Công ty H phát hiện 02 đối tượng nguyên là nhân viên của Công ty là Bùi Thị H, Lương Văn H1 đã cấu kết với đối tượng ngoài Công ty là Vũ Hồng C thiết lập giả nhiều hồ sơ hợp đồng tín dụng vay tiền mua hàng trả góp thực hiện tại Chi nhánh Công ty H tại Hà Nội để chiếm đoạt tiền vay của Công ty H nên đã trình báo Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hà Nội.

Cơ quan điều tra xác định như sau: Trong khoảng thời gian từ tháng 02/2014 đến tháng 10/2014, Bùi Thị H và Lương Văn H1 là nhân viên kinh doanh (SA) của Công ty H được giao nhiệm vụ trực tại các cửa hàng và tư vấn khách hàng có nhu cầu mua trả góp sản phẩm điện thoại di động, Ipad, máy tính bảng... Lợi dụng quy định của Công ty H thiếu chặt chẽ, Bùi Thị H và Lương Văn H1 đã cấu kết với Vũ Hồng C là người ngoài Công ty thiết lập các hồ sơ hợp đồng tín dụng vay tiền mua hàng trả góp nhưng không có khách hàng thật đến giao dịch vay và mua sản phẩm trả góp để chiếm đoạt tiền vay của Công ty H.

Tại Cơ quan điều tra, Vũ Hồng C khai đã bàn bạc với Bùi Thị H, Lương Văn H1 đi mua các bản photo giấy tờ tùy thân như: Chứng minh nhân dân, giấy phép lái xe (do người khác bỏ lại) tại các cửa hàng photocopy để lấy thông tin đưa vào hồ sơ hợp đồng tín dụng cho vay; đi mua sim điện thoại để đưa vào hồ sơ để bộ phận thẩm định của Công ty H sẽ gọi điện thẩm định, ký giả tên khách hàng vào hồ sơ, xác nhận nội dung “đã đối chiếu bản gốc” vào các giấy tờ tuỳ thân photo của khách hàng không có thật; hồ sơ cho vay tín dụng sau khi được duyệt, số tiền chiếm đoạt được các đối tượng dùng để thanh toán cho các chi phí như: tiền trả trước ban đầu sản phẩm (30% giá trị sản phẩm), tiền chi phí để duyệt nhanh hồ sơ. Theo C khai phải chi phí khoản duyệt nhanh hồ sơ bằng 10% số tiền vay, số tiền này do H, H1 cầm để chi phí; để nộp tiền gốc và lãi của khoản vay vào Công ty H để duy trì hợp đồng trong 02-03 tháng cho đến khi hồ sơ và hợp đồng cho vay tín dụng được chuyển sang bộ phận thu hồi nợ của Công ty; theo C khai số tiền còn lại sau khi trừ hết các chi phí thì C và H1 hoặc C và H sẽ chia đôi để hưởng lợi bất chính.

- Hành vi của Lương Văn H1: Lương Văn H1 vào làm nhân viên kinh doanh tại Công ty H từ tháng 8/2013, đến tháng 6/2014 H1 được Công ty thông báo nhiều khách hàng chậm thanh toán hoặc không thanh toán tiền gốc và lãi theo các hồ sơ hợp đồng vay tín dụng mua hàng trả góp do Vũ Hồng C cung cấp thông tin khách hàng; từ tháng 6/2014 đến tháng 9/2014, H1 đã thực hiện tổng số 258 hợp đồng tín dụng cho vay nhưng không có khách hàng thực tế đến giao dịch vay tiền và mua trả góp sản phẩm; hồ sơ khách hàng do Vũ Hồng C cung cấp thông tin. Sau khi nhận được các hồ sơ khách hàng không đến cửa hàng bán sản phẩm để giao dịch vay tiền và mua sản phẩm trả góp do C đưa, H1 đã cố ý xác nhận không đúng sự thật vào giấy tờ tuỳ thân là các bản photocopy chứng minh nhân dân, giấy phép lái xe (thực tế không có bản gốc, kết quả xác minh đều không có con người thật hoặc địa chỉ không tồn tại) với nội dung “Đã đối chiếu bản gốc” nhằm thiết lập hồ sơ và hợp đồng tín dụng vay mua hàng trả góp để đưa lên hệ thống trang Web mạng nội bộ của Công ty H chờ xét duyệt cho khách hàng vay tiền. Do tin tưởng 258 hồ sơ hợp đồng của nhân viên Lương Văn H1 thực hiện là khách quan và khách hàng thật đến cửa hàng bán sản phẩm giao dịch vay tiền để mua hàng trả góp nên Công ty H đã xét duyệt cho vay tiền theo 258 hồ sơ hợp đồng tín dụng và bị chiếm đoạt 1.738.540.000 đồng (trong đó 1.704.770.000 đồng tiền cho vay theo 258 hợp đồng tín dụng và 33.770.000 đồng tiền hưởng hoa hồng theo các hợp đồng tín dụng).

Cơ quan điều tra đã xác minh tại Công ty TNHH Nhật Cường (là đơn vị hợp tác kinh doanh với Công ty H để thu thập 52 hóa đơn giá trị gia tăng đối với 52 hợp đồng tín dụng do Lương Văn H1 thực hiện, xác định H1 đã trực tiếp ký vào 05/52 hóa đơn VAT bán hàng cho khách hàng tại mục “người mua hàng”. Cụ thể:

+ Ngày 11/3/2014, C ký hóa đơn số 0013221, tên khách hàng là Vũ Ngọc H5, trú tại số nhà 22/179/169/18, phường Vĩnh H6, Hoàng M, Hà Nội; mua sản phẩm điện thoại di động Samsung N7100, giá tiền 8.690.000 đồng;

+ Ngày 12/3/2014, ký hóa đơn số 0013244, tên khách hàng là Trần Nam Ph, trú tại số nhà 22/149/24/74, đường Nguyễn Ch, phường Thịnh L3, Hoàng M, Hà Nội; mua sản phẩm điện thoại di động Samsung N7100, giá tiền 8.690.000 đồng;

- Ngày 12/3/2014, ký hóa đơn số 0013245, tên khách hàng là Lê Quỳnh A1, trú tại số nhà 24/85/12, phố Đào T1, phường Ngọc Kh, Ba Đ3, Hà Nội; mua sản phẩm điện thoại di động Samsung SM-G7102, giá tiền 7.990.000 đồng;

- Ngày 15/3/2014, ký hóa đơn số 0013532, tên khách hàng là Đào Mạnh T2, trú tại số nhà 22/95/8/7, đường Thúy L4, phường Lĩnh N, Hoàng M, Hà Nội; mua sản phẩm điện thoại di động Samsung 19300, giá tiền 7.990.000 đồng;

- Ngày 15/3/2014, ký hóa đơn số 0013533, tên khách hàng là Trần Văn Tr1, trú tại số nhà 33/81/4, đường Hòa B1, phường Minh Kh, Hai Bà Tr2, Hà Nội; mua sản phẩm điện thoại di động Samsung 19300, giá tiền 7.990.000 đồng.

Ngày 22/4/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hà Nội đã trưng cầu giám định chữ ký, chữ viết tại “mục khách hàng” trên 52 hóa đơn VAT do Công ty TNHH Nhật Cường (là đơn vị bán hàng trả góp có hợp tác kinh doanh với Công ty H). Tại Kết luận giám định số 2936/PC09-Đ4 ngày 15/5/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội, kết luận: Chữ ký, chữ viết tay tại mục “Người mua hàng” trên các hóa đơn khách hàng: Đào Mạnh T2, Trần Nam Ph, Trần Văn Tr1 là chữ ký, chữ viết của Lương Văn H1; Vũ Hồng C không ký và viết trên hóa đơn nào trong số 52 hóa đơn gửi giám định.

Tại các Kết luận giám định số 762, số 765, số 766/C09 ngày 31/3/2020 của Viện Khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: Chữ ký, chữ viết đứng tên Lương Văn H1 trên 234 hợp đồng tín dụng gửi giám định với mẫu chữ viết, chữ ký của Lương Văn H1 tại Cơ quan điều tra do cùng một người viết và ký ra.

Theo Lương Văn H1 khai nhận do các hồ sơ C đưa đến không có khách hàng thật đến giao dịch vay tiền và mua sản phẩm nên H1 ký thay cho khách để Công ty Nhật Cường lưu hóa đơn. Tuy nhiên, H1 không giải trình được việc nhận và sử dụng các sản phẩm trên; H1 khai đã đưa sản phẩm mua trả góp cho Vũ Hồng C nhưng không có giấy tờ biên nhận gì.

- Hành vi của Bùi Thị H: Bùi Thị H vào làm nhân viên kinh doanh tại Công ty H từ tháng 5/2013 đến tháng 6/2014 H được Công ty thông báo nhiều khách hàng chậm thanh toán hoặc không thanh toán tiền gốc và lãi theo các hồ sơ hợp đồng vay tín dụng mua hàng trả góp do Vũ Hồng C cung cấp thông tin khách hàng; từ tháng 6/2014 đến tháng 10/2014, H đã thực hiện tổng số 318 hợp đồng tín dụng không có khách hàng thực tế đến giao dịch vay tiền mua trả góp sản phẩm điện thoại di động, máy tính bảng, Ipad tại Công ty TNHH nhà nước MTV thương mại và xuất nhập khẩu Viettel; nguồn gốc hồ sơ khách hàng không có thật do Vũ Hồng C cung cấp thông tin; sau khi nhận được hồ sơ khách hàng do C đưa, H đã có hành vi gian dối, cố ý xác nhận không đúng sự thật vào giấy tờ tuỳ thân là các bản photocopy chứng minh nhân dân, giấy phép lái xe (thực tế không có bản gốc, kết quả xác minh đều không có con người thật hoặc địa chỉ không tồn tại) với nội dung “Đã đối chiếu bản gốc” nhằm thiết lập hồ sơ và hợp đồng tín dụng cho vay mua hàng trả góp để đưa lên hệ thống trang Web mạng nội bộ của Công ty H chờ xét duyệt cho khách hàng vay tiền. Do tin tưởng 318 hồ sơ hợp đồng của nhân viên Bùi Thị H thực hiện là khách quan và có khách hàng thật đến cửa hàng bán sản phẩm trả góp để giao dịch vay tiền mua hàng nên Công ty H đã xét duyệt cho vay tiền theo 318 hồ sơ hợp đồng tín dụng trên và bị chiếm đoạt 1.950.447.000 đồng (trong đó 1.916.207.000 đồng tiền cho vay theo 318 hợp đồng tín dụng và 34.240.000 đồng tiền hưởng hoa hồng theo các hợp đồng tín dụng).

Tại Cơ quan điều tra, anh Nguyễn Tiến Đ4 (sinh năm 1989; ở tại P1904, chung cư Intracom Riverside Vĩnh Ng1, Đông A2, Hà Nội) và anh Trần Văn B2 (sinh năm 1991; ở tại P1407 HH2E khu đô thị Dương N1, Yên Ngh, Hà Đ5, Hà Nội) đều là nhân viên của shop Viettel Công ty TNHH nhà nước MTV thương mại và xuất nhập khẩu Viettel (địa chỉ: 1A, phố Ngọc Khánh, Giảng Võ, Ba Đình, Hà Nội) khai: thời điểm Lương Văn H1 và Bùi Thị H là nhân viên của Công ty H trực tại shop thì anh Đ4 và anh B2 đều quen biết H1 và H. Anh B2 và anh Đ4 có biết việc khách hàng đến mua trả góp sản phẩm phải có mặt tại cửa hàng và xuất trình chứng minh nhân dân, giấy phép lái xe bản gốc để kiểm tra đối chiếu; đối với các hợp đồng tín dụng do H1 và H thực hiện thì anh B2 và anh Đ4 không nắm được cụ thể, tuy nhiên sau khi thấy Công ty H đã duyệt cho khách vay tiền để mua sản phẩm trả góp thì anh B2 và anh Đ4 đã ký vào mục “Bên bán hàng” trên hợp đồng tín dụng theo yêu cầu của H1 và H, không thấy khách hàng đến cửa hàng giao dịch vay tiền và nhận sản phẩm trả góp. Theo quy định của Công ty Viettel, sau khi hợp đồng tín dụng được duyệt, khách hàng sẽ vào gặp thu ngân để nộp một phần tiền trả trước và nhận sản phẩm từ nhân viên bán hàng của Công ty Viettel, nhưng anh B2 và anh Đ4 chỉ thấy Bùi Thị H và Lương Văn H1 là người nhận sản phẩm mua bằng tiền cho vay trả góp của Công ty H. Cơ quan điều tra đã tổ chức cho anh Bằng và anh Đạt nhận dạng qua ảnh, kết quả anh B2 và anh Đ4 đã nhận dạng được H và H1 là người nhận sản phẩm trả góp từ shop bán hàng Công ty Viettel (do anh B2 và anh Đ4 giao), khi nhận thì H và H1 đều nói mang về cho khách hàng; ngoài ra, anh Trần Văn B2 còn nhận dạng được Vũ Hồng C là khách hàng của H, H1 và thấy C đến shop để lấy sản phẩm trả góp cho khách.

Ngày 14/4/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hà Nội đã trưng cầu giám định chữ viết của Bùi Thị H trên 10 hợp đồng tín dụng do C khai đã cung cấp cho H để thiết lập hồ sơ hợp đồng vay tiền mua hàng trả góp giả mạo. Tại Kết luận giám định số 4780/PC09-CATPHN ngày 19/6/2020 Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội kết luận: Chữ viết, chữ ký trên các tài liệu gửi giám định với chữ viết chữ ký của Bùi Thị H tại Cơ quan điều tra do cùng một người ký và viết ra.

- Hành vi của Vũ Hồng C: Tại Cơ quan điều tra, Vũ Hồng C khai đã cùng với Lương Văn H1, Bùi Thị H thực hiện 15 hồ sơ hợp đồng vay tín dụng mua hàng trả góp giả, không có khách hàng đến giao dịch. Kết quả điều tra xác định được H1 và H đã nhận nhiều hồ sơ vay tín dụng nhưng không có khách hàng đến giao dịch vay theo quy định của Công ty H và được H1, H đưa cho C ký vào nhiều Hợp đồng vay tín dụng mục “khách hàng vay tiền”, cụ thể:

Theo C khai nhận được hưởng lợi bất chính từ việc cùng H làm 10 hồ sơ hợp đồng tín dụng vay mua hàng trả góp giả được khoảng 17.200.000 đồng, gồm:

+ Ngày 08/02/2014, làm Hợp đồng tín dụng số 3415997211, tên khách hàng là Nguyễn Hoàng S (trú tại: số nhà 28/161/151/21, phố Thái Hà, Trung Liệt, Đống Đa, Hà Nội; mua sản phẩm Iphone 5S giá tiền 15.799.000 đồng; số tiền trả trước 8.000.000 đồng; số tiền vay 8.286.000 đồng đã bao gồm phí bảo hiểm). Sau khi bán máy, trừ các chi phí, chia nhau C và H mỗi người được hưởng khoảng 2.000.000 đồng/người.

+ Ngày 13/02/2014, làm Hợp đồng tín dụng số 3416197135, tên khách hàng là Lê Quyết Th2 (trú tại: số nhà 39/1/88, phố Võ Thị Sáu, Thanh Nhàn, Hai Bà Trưng, Hà Nội; mua sản phẩm Iphone 5S giá tiền 15.799.000 đồng; số tiền trả trước 8.000.000 đồng; số tiền vay 8.286.000 đồng đã bao gồm phí bảo hiểm). Sau khi bán máy, trừ các chi phí, chia nhau C và H mỗi người được hưởng khoảng 2.000.000 đồng/người.

+ Ngày 05/3/2014, làm Hợp đồng tín dụng số 3417173617, tên khách hàng là Trần Mạnh T2 (trú tại: số nhà 6/76/6, phố Nam Dư, phường Lĩnh Nam, Hoàng Mai, Hà Nội; mua sản phẩm Iphone 5S giá tiền 15.799.000 đồng; số tiền trả trước 8.200.000 đồng; số tiền vay 8.073.000 đồng đã bao gồm phí bảo hiểm). Sau khi bán máy, trừ các chi phí, chia nhau C và H mỗi người được hưởng khoảng 2.000.000 đồng/người.

+ Ngày 12/4/2014, làm Hợp đồng tín dụng số 3419070985, tên khách hàng là Nguyễn Quốc C1 (trú tại: số nhà 18/41/49, đường Huỳnh Thúc Kháng, phường Láng Hạ, Đống Đa, Hà Nội; mua sản phẩm Ipad Mini giá tiền 6.990.000 đồng; số tiền trả trước 1.500.000 đồng; số tiền vay 5.832.000 đồng đã bao gồm phí bảo hiếm). Sau khi bán máy, trừ các chi phí, chia nhau C và H mỗi người dược hưởng khoảng 1.500.000 đồng/người.

+ Ngày 23/4/2014, làm Hợp đồng tín dụng số 3419777075, tên khách hàng là Đào Văn B3 (trú tại: số nhà 31, tố 45, phường Nghĩa Tân, Cầu Giấy, Hà Nội; mua sản phẩm Ipad Mini giá tiền 6.990.000 đồng; số tiền trả trước 1.500.000 đồng; số tiền vay 5.832.000 đồng đã bao gồm phí bảo hiểm). Sau khi bán máy, trừ các chi phí, chia nhau C và H mỗi người được hưởng khoảng 1.500.000 đồng/người.

+ Ngày 06/5/2014, làm Hợp đồng tín dụng số 3420387938, tên khách hàng là Hoàng Hải Đ5 (trú tại số nhà 07/132/58, phố Khương Trung, phường Khương Trung, Thanh Xuân, Hà Nội; mua sản phẩm Ipad Mini 16Gb giá tiền 6.990.000 đồng; số tiền trả trước 1.500.000 đồng; số tiền vay 5.832.000 đồng đã bao gồm phí bảo hiểm). Sau khi bán máy, trừ các chi phí, chia nhau C và H mỗi người được hưởng khoảng 1.500.000 đồng/người.

+ Ngày 10/5/2014, làm Hợp đồng tín dụng số 3420596212, tên khách hàng là Vũ Văn C2 (trú tại số nhà 46, tổ 2, phố Linh Quang, phường Văn Chương, Đống Đa, Hà Nội; mua sản phẩm Iphone 4S giá tiền 8.299.000 đồng; số tiền trả trước 2.000.000 đồng; số tiền vay 6.692.000 đồng đã bao gồm phí bảo hiểm). Sau khi bán máy, trừ các chi phí, chia nhau C và H mỗi người được hưởng khoảng 1.700.000 đồng/người.

+ Ngày 11/5/2014, làm Hợp đồng tín dụng số 3420626550, tên khách hàng là Nguyễn Công T3 (trú tại: phường Phú Diễn, Nam Từ L, Hà Nội; mua sản phẩm Ipad Mini 16Gb giá tiền 6.890.000 đồng; số tiền trả trước 1.500.000 đồng; số tiền vay 5.726.000 đồng đã bao gồm phí bảo hiểm). Sau khi bán máy, trừ các chi phí, chia nhau C và H mỗi người được hưởng khoảng 1.800.000 đồng/người.

+ Ngày 04/6/2014, làm Hợp đồng tín dụng số 3421809820, tên khách hàng là Trần Xuân C3 (trú tại: số nhà 07/132/58, phố Khương Trung, phường Khương Trung, Thanh Xuân, Hà Nội; mua sản phẩm Ipad Mini 16Gb; giá tiền 6.890.000 đồng; số tiền trả trước 1.500.000 đồng; số tiền vay 5.726.000 đồng đã bao gồm phí bảo hiểm). Sau khi bán máy, trừ các chi phí, chia nhau C và H mỗi người được hưởng khoảng 1.600.000 đồng/người.

+ Ngày 17/6/2014, làm Hợp đồng tín dụng số 3422514502, tên khách hàng là Nguyễn Văn Ph (trú tại: số nhà P507 - B5 làng quốc tế Thăng Long, phường Dịch Vọng, Cầu Giấy, Hà Nội; mua sản phẩm Ipad Mini 16Gb giá tiền 6.890.000 đồng; số tiền trả trước 1.500.000 đồng; sổ tiền vay 5.726.000 đồng đã bao gồm phí bảo hiếm). Sau khi bán máy, trừ các chi phí, chia nhau C và H mỗi người được hưởng khoảng 1.600.000 đồng/người.

Theo C khai được hưởng lợi bất chính từ việc cùng H1 thiết lập giả 05 hồ sơ hợp đồng vay tín dụng mua hàng trả góp được khoảng 10.800.000 đồng, gồm:

+ Ngày 03/3/2014, làm Hợp đồng tín dụng sổ 3417126064, tên khách hàng là Đỗ Văn Ph1 (trú tại: số nhà 6/2/56, ngõ giếng Mứt, phường Bạch Mai, Hai Bà Trưng, Hà Nội; mua sản phẩm Ipad Mini giá tiền 10.090.000 đồng; số tiền trả trước 3.000.000 đồng; số tiền vay 7.532.000 đồng đã bao gồm phí bảo hiểm). Sau khi bán máy, trừ các chi phí, chia nhau C và H1 mỗi người được hưởng khoảng 1.800.000 đồng/người.

+ Ngày 13/3/2014, làm Hợp đồng tín dụng số 3417614387, tên khách hàng là Đỗ Văn L5 (trú tại: số nhà 15/42/46/94, đường Kim Giang, phường Kim Giang, Thanh Xuân, Hà Nội; mua sản phẩm Ipad Mini 4G giá tiền 10.090.000 đồng; số tiền trả trước 3.000.000 đồng; số tiền vay 7.532.000 đồng đã bao gồm phí bảo hiểm). Sau khi bán máy, trừ các chi phí, chia nhau C và H1 mỗi người được hưởng khoảng 1.800.000 đồng/người.

+ Ngày 17/3/2014, làm Hợp đồng tín dụng số 3417816776, tên khách hàng là Nguyễn Thanh S (trú tại: số nhà 4/336/1, đường Nguyễn Trãi, phường Thanh Xuân Trung, Thanh Xuân, Hà Nội; mua sản phẩm Ipad Air 4G giá tiền 9.790.000 đồng; số tiền trả trước 2.500.000 đồng; số tiền vay 7.745.000 đồng đã bao gồm phí bảo hiểm). Sau khi bán máy, trừ các chi phí, chia nhau C và H1 mỗi người được hưởng khoảng 2.000.000 đồng/người.

+ Ngày 23/3/2014, làm Hợp đồng tín dụng số 3418157380, tên khách hàng là Lê Tất Th3 (trú tại: số nhà 15/135/35/48, đường Nguyễn Văn Cừ, phường Ngọc Lâm, Long Biên, Hà Nội; mua sản phẩm Ipad Air 4G giá tiền 13.790.000 đồng; số tiền trả trước 6.700.000 đồng; số tiền vay 7.532.000 đồng đã bao gồm phí bảo hiểm). Sau khi bán máy, trừ các chi phí, chia nhau C và H1 mỗi người được hưởng khoảng 1.800.000 đồng/người.

+ Ngày 27/7/2014, làm Hợp đồng tín dụng số 3424510298, tên khách hàng là Hoàng Văn Ph1 (trú tại: thôn Phúc Hậu, xã Dục Tú, Đông Anh, Hà Nội; mua sản phấm Ipad Mini giá tiền 6.690.000 đồng; số tiền trả trước 1.400.000 đồng; số tiền vay 5.620.000 đồng đã bao gồm phí bảo hiểm). Sau khi bán máy, trừ các chi phí thì C và H1 chia nhau mỗi người được hưởng 1.600.000 đồng.

Tại Cơ quan điều tra, Vũ Hồng C thừa nhận tham gia làm giả hồ sơ hợp đồng vay tín dụng bằng thủ đoạn C trực tiếp kí vào phần “khách hàng” và “người vay” trong hồ sơ hợp đồng vay tín dụng; C khai H1 và H còn hướng dẫn C cách mua sim điện thoại để đăng ký thông tin cá nhân của khách hàng (mua sim 10 số, không mua sim 11 số vì sẽ bị coi là sim rác và không được duyệt hồ sơ), hướng dẫn cách nghe và trả lời điện thoại khi có bộ phận thẩm định của Công ty H gọi điện kiểm tra, chỉ nghe sim chính, còn sim phụ là sim người thân của khách không cần nghe cũng không sao. Ngoài ra khi hồ sơ được duyệt, H1 hoặc H sẽ là người trực tiếp lấy sản phấm (điện thoại di động, Ipad...) ra khỏi cửa hàng và đem bán (bán ở đâu C không biết). C khai không được H1 và H cho lên cửa hàng để lấy sản phẩm vì H1 và H là nhân viên Công ty H có hợp tác kinh doanh với cửa hàng bán sản phẩm trả góp nên dễ làm việc với cửa hàng. Theo C khai được hưởng lợi bất chính từ việc cấu kết với H1, H làm giả hồ sơ hợp đồng vay tín dụng mua hàng trả góp được tổng số khoảng 28.000.000 đồng.

Ngày 12/8/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hà Nội ban hành Quyết định số 638a, b, c, d trưng cầu Viện Khoa học hình sự Bộ Công an giám định lại chữ ký, chữ viết trên 24 hợp đồng tín dụng (bao gồm 15 hợp đồng C khai nhận đã ký mục người vay và được ăn chia tiền với H1, H và 09 hợp đồng có dấu hiệu C tham gia giả mạo khách hàng vay tín dụng mua hàng trả góp).

Tại Kết luận giám định số 4700 a, b, c, d ngày 31/10/2019 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận Vũ Hồng C đã ký và viết ra tại mục “bên vay” và “người vay” trên hồ sơ của các khách hàng sau:

- Nguyễn Hoàng S (đ/c: số nhà 28/161/151/21, phố Thái Hà, phường Trung Liệt, Đống Đa, Hà Nội) mua điện thoại di động Iphone 5s, số tiền vay 8.286.000 đồng.

- Lê Quyết Th2 (đ/c: số nhà 39/1/88, phố Võ Thị Sáu, phường Thanh Nhàn, Hai Bà Trưng, Hà Nội) mua điện thoại di động hiệu Iphone 5S 16Gb, số tiền vay 8.286.000 đồng.

- Trần Mạnh T2 (đ/c: số nhà 06/76/6, phố Nam Dư, phường Lĩnh Nam, Hoàng Mai, Hà Nội) mua điện thoại di động iphone 5S, số tiền vay 8.073.000 đồng.

- Nguyễn Quốc C1 (đ/c: số nhà 18/41/49, phố Huỳnh Thúc Kháng, phường Láng Hạ, Đống Đa, thành phố Hà Nội) mua Ipad Mini 16Gb, số tiền vay 5.832.000 đồng.

- Đào Văn B3 (đ/c: số nhà 31, tổ 45, phường Nghĩa Tân, Cầu Giấy, Hà Nội) mua Ipad Mini 16Gb, số tiền vay 5.832.000 đồng.

- Nguyễn Công T2 (đ/c: Tập thể xưởng 5, phường Phú Diễn, Từ L, Hà Nội) mua Ipad Mini 16Gb, số tiền vay 5.726.000 đồng.

- Trần Xuân C4 (đ/c: số nhà 07/132/58, phố Khương Trung, phường Khương Trung, Thanh Xuân, thành phố Hà Nội) mua Ipad Mini 16Gb, số tiền vay 5.726.000 đồng.

- Nguyễn Văn Ph (đ/c: số nhà 01/1/52, đường Hoàng Quốc Việt, phường Nghĩa Đô, Cầu Giấy, Hà Nội) mua Ipad Mini 16Gb, số tiền vay 5.726.000 đồng.

- Đỗ Văn Ph1 (đ/c: số nhà 06/2/56, ngõ Giếng Mứt, phường Bạch Mai, Hai Bà Trưng, Hà Nội) mua Ipad Mini 4G, số tiền vay 7.532.000 đồng.

- Nguyễn Thanh S (đ/c: số nhà 41/336/1, đường Nguyễn Trãi, phường Thanh Xuân Trung, Thanh Xuân, Hà Nội) mua Ipad Mini 4G, số tiền vay 7.745.000 đồng.

- Đinh Công C5 (đ/c: số nhà 903, CT5D khu đô thị Mễ Trì Hạ, phường Mễ Trì, Nam Từ L, Hà Nội) mua Ipad Mini 16Gb, số tiền vay 5.673.000 đồng.

- Nguyễn Cao C6 (đ/c: số nhà 15/32, phố Khâm Thiên, phường Trung Phụng, Đống Đa, Hà Nội) mua Ipad Retina 4G, số tiền vay 7.647.000 đồng.

- Lê Tất Th3 (đ/c: số nhà 15/135/35/48, đường Nguyễn Văn Cừ, phường Ngọc Lâm, Long Biên, Hà Nội) mua Ipad 4G, số tiền vay 7.532.000 đồng.

Tổng số Vũ Hồng C đã ký và viết tên khách hàng vào 13 hồ sơ hợp đồng vay tín dụng với tổng số tiền vay trên hợp đồng là 89.616.000 đồng.

Vật chứng của vụ án: trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã tạm giữ do Vũ Hồng C nộp số tiền 130.000.000 đồng; tạm giữ do Bùi Thị H nộp số tiền 30.000.000 đồng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 168/2022/HSST ngày 30/5/2022, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã quyết định:

Tuyên bố: Các bị cáo Vũ Hồng C, Bùi Thị H, Lương Văn H1 phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sảnˮ.

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự;

- Xử phạt bị cáo Vũ Hồng C 15 (mười lăm) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 26/3/2020.

- Xử phạt bị cáo Bùi Thị H 13 (mười ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 13/7/2020.

- Xử phạt bị cáo Lương Văn H1 12 (mười hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 03/7/2019.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 02/6/2022, bị cáo Vũ Hồng C kháng cáo xin giảm hình phạt; ngày 10/6/2022, bị cáo Bùi Thị H kháng cáo xin giảm hình phạt, bị cáo Lương Văn H1 kháng cáo đề nghị xem xét lại tội danh.

Ngày 04/4/2023, bị cáo Vũ Hồng C có đơn xin rút đơn kháng cáo. Ngày 22/4/2023, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội ban hành Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo Vũ Hồng C.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Bùi Thị H vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ để giảm hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo Lương Văn H1 thay đổi nội dung kháng cáo từ đề nghị xem xét lại tội danh sang xin giảm hình phạt, bị cáo xuất trình các tình tiết giảm nhẹ mới và đề nghị Hội đồng xét xử giảm một phần hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Công ty H đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo H, H1.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội có quan điểm: Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử các bị cáo Bùi Thị H, Lương Văn H1 về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tại cấp sơ thẩm, các bị cáo không thừa nhận hành vi phạm tội của mình, Tòa án cấp sơ thẩm cũng đã xem xét, áp dụng đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự xử phạt bị cáo H 13 năm tù, bị cáo H1 12 năm tù là có căn cứ, phù hợp. Tuy nhiên, tại cấp phúc thẩm, các bị cáo đã nhận thức được hành vi phạm tội của mình, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo H1 đã thay đổi nội dung kháng cáo từ đề nghị xem xét lại tội danh sang xin giảm hình phạt. Bị cáo H có thêm tình tiết giảm nhẹ mới: đã bồi thường thêm được 100 triệu đồng, đã nộp tiền án phí sơ thẩm, gia đình có công với cách mạng, bố bị cáo được tặng Huân chương chiến sỹ vẻ vang, bác bị cáo là liệt sỹ, chồng bị cáo có thời gian công tác tại Trường Sa. Bị cáo Lương Văn H1 có thêm tình tiết giảm nhẹ mới: bị cáo đã bồi thường cho người bị hại 360 triệu đồng, có xác nhận của chính quyền địa phương về hoàn cảnh khó khăn, có xác nhận của Đồn Biên phòng Ngọc Lâm về việc bị cáo có công giúp tố giác và cung cấp nguồn tin tội phạm. Xét thấy có căn cứ chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử giảm một phần hình phạt cho các bị cáo H, H1.

Người bào chữa cho bị cáo Bùi Thị H đề nghị Hội đồng xét xử xem xét: Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo H đã nhận thức được hành vi phạm tội của mình, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, hoàn cảnh gia đình khó khăn, tại giai đoạn điều tra, bị cáo đã chủ động nộp khắc phục số tiền 30 triệu đồng, tại cấp phúc thẩm bị cáo đã tác động gia đình bồi thường tiếp 100 triệu đồng, bị cáo đã nộp tiền án phí sơ thẩm, có bác là liệt sỹ, chồng bị cáo là chiến sỹ có thời gian công tác tại Trường Sa, bố bị cáo được tặng Huân chương chiến sỹ vẻ vang, bị cáo phạm tội một phần do sơ hở trong quản lý của Công ty H, được đại diện bị hại xin giảm hình phạt, do vậy đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giảm hình phạt cho bị cáo H.

Người bào chữa cho bị cáo Lương Văn H1 có quan điểm: Bị cáo H1 ban đầu kháng cáo đề nghị xem xét lại tội danh, tuy nhiên đến nay bị cáo đã nhận thức được hành vi phạm tội của mình và thay đổi kháng cáo sang xin giảm hình phạt, trước đó bị cáo đã khắc phục 33 triệu đồng, tại cấp phúc thẩm bị cáo tiếp tục bồi thường khắc phục hậu quả số tiền 330 triệu đồng và đã nộp án phí sơ thẩm, bị cáo khi phạm tội còn quá trẻ, chưa nhận thức được hành vi phạm tội của mình, bị cáo không được hưởng lợi, hoàn cảnh gia đình khó khăn được chính quyền địa phương xác nhận, bị cáo được Đồn biên phòng Ngọc Lâm xác nhận có công trong việc tố giác, cung cấp nguồn tin tội phạm, được đại diện bị hại xin giảm hình phạt, do đó đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm s, b, t khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 Bộ luật hình sự, xử bị cáo hưởng mức án 07 năm tù và miễn án phí dân sự sơ thẩm cho bị cáo H1.

Tại nói lời sau cùng các bị cáo Bùi Thị H, Lương Văn H1 đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ mới, xử phạt các bị cáo mức hình phạt thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng tại cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại cấp sơ thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung:

[2.1] Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Bùi Thị H, Lương Văn H1 thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình như bản án sơ thẩm quy kết, lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phiên tòa sơ thẩm về hành vi phạm tội, phù hợp với lời khai của bị cáo Vũ Hồng C, lời khai của người làm chứng, các kết luận giám định, cùng các tài liệu, chứng cứ được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án, có cơ sở kết luận: Bùi Thị H và Lương Văn H1 là nhân viên tư vấn tín dụng cho vay mua hàng trả góp của Công ty H được giao nhiệm vụ tư vấn cho các khách hàng có nhu cầu mua trả góp các sản phẩm điện thoại, Ipad…lợi dụng Công ty quy định nhân viên như H, H1 chỉ có trách nhiệm thu hồi và quản lý tiền vay đối với các Hợp đồng vay tín dụng của khách mua hàng trả góp do mình thực hiện trong thời gian 4 tháng, sau 4 tháng việc theo dõi, quản lý Hợp đồng thanh toán của khách được bộ phận thu hồi nợ của Công ty quản lý. Từ tháng 2/2014 đến tháng 10/2014 H và H1 đã cấu kết với Vũ Hồng C thiết lập các hợp đồng vay tín dụng trả góp Công ty H mà không có khách hàng đến giao dịch vay tiền và mua sản phẩm bằng thủ đoạn gian dối: C đi tìm, xin hoặc mua các giấy chứng minh nhân dân, bằng lái xe, sổ hộ khẩu bản photo cung cấp cho H, H1; H và H1 xác nhận vào bản photo đã đối chiếu bản gốc; H, C bàn với nhau C mua sim điện thoại cung cấp để khi bộ phận thẩm định kiểm tra C nghe máy; C cung cấp ảnh chụp thực tế người mua hàng để H1, H căn chỉnh lập hồ sơ vay tiền. Sau khi hồ sơ tín dụng được duyệt để mua sản phẩm thì sản phẩm được C hoặc H hoặc H1 lấy ra đưa cho C đem bán. Số tiền bán sản phẩm dùng để trả 30% gốc ban đầu cho các hợp đồng tín dụng mua sản phẩm sau, trả tiền vay gốc và lãi 4 tháng đầu, số tiền còn lại chia nhau. Tuy nhiên, các bị cáo đều không thừa nhận ăn chia với nhau tiền bán sản phẩm nên cùng phải chịu trách nhiệm về số tiền đã vay.

Với thủ đoạn nêu trên, Công ty H đã tin tưởng vào các bộ hồ sơ tín dụng do H, H1 thiết lập có người vay thực tế và chấp nhận cho vay và trả tiền sản phẩm cho các cửa hàng mà Công ty H liên kết, cụ thể:

- H và C đã thực hiện 318 Hợp đồng tín dụng vay tiền mua hàng trả góp của Công ty H để mua sản phẩm với số tiền vay đến nay chưa trả Công ty là 1.614.207.824 đồng, trong đó có 1.579.967.824 đồng tiền gốc vay từ 318 hợp đồng tín dụng và 34.240.000 đồng tiền hoa hồng Công ty trả cho H.

- H1 và C đã thực hiện 258 Hợp đồng tín dụng vay tiền mua hàng trả góp của Công ty H với số tiền vay đến nay chưa trả Công ty 1.381.220.469 đồng, trong đó 1.347.450.469 đồng tiền gốc vay từ 258 hợp đồng tín dụng khống và 33.770.000 đồng tiền hoa hồng Công ty trả cho H1.

Các bị cáo C, H, H1 cố ý thực hiện hành vi phạm tội chiếm đoạt tiền vay, tiền hoa hồng của Công ty H. Tội phạm hoàn thành kể từ thời điểm hồ sơ được duyệt, tiền vay được Công ty H trả cho đơn vị bán hàng. Trong đó các bị cáo H, C chiếm đoạt của Công ty H 1.614.207.824 đồng; các bị cáo H1, C chiếm đoạt của Công ty H 1.381.220.469 đồng.

Do có hành vi nêu trên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã truy tố, xét xử các bị cáo Vũ Hồng C, Bùi Thị H, Lương Văn H1 về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[2.2] Xét kháng cáo xin giảm hình phạt của các bị cáo Bùi Thị H, Lương Văn H1, Hội đồng xét xử thấy:

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật hình sự bảo vệ nên cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

Bị cáo Bùi Thị H là người trực tiếp lập 318 Hợp đồng tín dụng vay tiền mua hàng trả góp của Công ty H trên cơ sở Vũ Hồng C cung cấp các giấy tờ tài liệu cho H, bị cáo cùng với C chiếm đoạt của Công ty H 1.614.207.824 đồng. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét: Bị cáo phạm tội nhiều lần nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Nhân thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, thành khẩn khai báo, đã nộp một phần tiền khắc phục hậu quả nên áp dụng cho bị cáo khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, quyết định mức hình phạt 13 năm tù đối với bị cáo H là phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Tuy nhiên, tại cấp phúc thẩm bị cáo H xuất trình thêm các tình tiết giảm nhẹ mới: bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, hoàn cảnh gia đình khó khăn có xác nhận của chính quyền địa phương, chồng bị cáo có thời gian công tác tại quần đảo Trường Sa, gia đình bị cáo có công với cách mạng, bố đẻ bị cáo được tặng thưởng Huy chương chiến sỹ vẻ vang, ông bà nội bị cáo được tặng Bảng vàng danh dự, bác ruột bị cáo là liệt sỹ, bị cáo đã nộp 100 triệu đồng khắc phục một phần cho người bị hại và được đại diện bị hại xin giảm hình phạt cho bị cáo, bị cáo đã nộp tiền án phí sơ thẩm. Do đó, có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo cũng như đề nghị của luật sư bào chữa cho bị cáo H, Hội đồng xét xử giảm một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

Bị cáo Lương Văn H1 là người trực tiếp lập 258 Hợp đồng tín dụng vay tiền mua hàng trả góp của Công ty H trên cơ sở Vũ Hồng C cung cấp các giấy tờ tài liệu cho H, bị cáo cùng với C chiếm đoạt của Công ty H 1.614.207.824 đồng. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét: bị cáo phạm tội nhiều lần nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự; bị cáo phạm tội lần đầu, xử phạt bị cáo mức án 12 năm tù là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Tuy nhiên, tại cấp phúc thẩm bị cáo có thêm các tình tiết giảm nhẹ mới: Bị cáo đã nhận thức được hành vi phạm tội của mình và thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, hoàn cảnh gia đình khó khăn có xác nhận của chính quyền địa phương, bị cáo đã tác động gia đình bồi thường khắc phục một phần cho người bị hại số tiền 363.770.000 đồng và được đại diện bị hại xin giảm hình phạt cho bị cáo, bị cáo đã nộp tiền án phí sơ thẩm, Đồn biên phòng Ngọc Lâm xác nhận và đề nghị giảm hình phạt cho vì bị cáo là cộng tác bí mật, có công tố giác tội phạm và cung cấp nguồn tin tội phạm, do vậy cần áp dụng thêm điểm s, b, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 54 Bộ luật hình sự cho bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo H1 cũng như đề nghị của luật sư bào chữa cho bị cáo, giảm một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[3] Về án phí: Do kháng cáo được chấp nhận nên các bị cáo Bùi Thị H, Lương Văn H1 không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án;

QUYẾT ĐỊNH

1. Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Bùi Thị H, Lương Văn H1;

Sửa quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm số 168/2022/HSST ngày 30 tháng 5 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội về phần hình phạt đối với các bị cáo Bùi Thị H, Lương Văn H1, cụ thể như sau:

Tuyên bố: Các bị cáo Bùi Thị H, Lương Văn H1 phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sảnˮ.

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Bùi Thị H 11 (mười một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 13/7/2020.

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51;

điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 54; Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Lương Văn H1 10 (mười) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 03/7/2019.

2. Xác nhận bị cáo Bùi Thị H đã nộp 100.000.000đ (Một trăm triệu đồng) tiền bồi thường và 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm tại Biên lai số 0002224 ngày 11/5/2023 của Cục thi hành án dân sự thành phố Hà Nội. Bị cáo còn phải bồi thường tiếp số tiền 694.223.912đ (Sáu trăm chín mươi tư triệu, hai trăm hai mươi ba nghìn chín trăm mười hai đồng).

Xác nhận bị cáo Lương Văn H1 đã nộp 33.770.000 đồng tiền bồi thường và 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm tại Biên lai số 0065065 ngày 16/8/2022 của Cục thi hành án dân sự thành phố Hà Nội và số tiền 330.000.000 đồng bồi thường tại Biên lai số 0002223 ngày 11/5/2023 của Cục thi hành án dân sự thành phố Hà Nội. Bị cáo còn phải bồi thường tiếp số tiền 345.725.234đ (Ba trăm bốn mươi lăm triệu, bẩy trăm hai mươi lăm nghìn hai trăm ba mươi tư đồng).

2. Về án phí: Các bị cáo Bùi Thị H, Lương Văn H1 không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 317/2023/HS-PT

Số hiệu:317/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:12/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về