TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 308/2022/HS-PT NGÀY 11/08/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 11 tháng 8 năm 2022, tại điểm cầu trung tâm trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên và điểm cầu thành phần Trại tạm giam Công an tỉnh Phú Yên, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai trực tuyến vụ án hình sự thụ lý số 185/2022/TLPT-HS ngày 17 tháng 5 năm 2022 đối với bị cáo Phạm Bảo N về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 13/2022/HS-ST ngày 06/4/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên.
Bị cáo có kháng cáo Phạm Bảo N, sinh năm 1992; tại tỉnh Quãng Ngãi. Nơi cư trú: tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; nghề nghiệp: Buôn bán gỗ; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Công V, sinh năm 1956 và bà Đặng Thị D, sinh năm 1963; có vợ Huỳnh Thị Quỳnh G, sinh năm 1995 và 02 con, lớn sinh năm 2016, nhỏ sinh năm 2020; tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/4/2021. Có mặt.
- Người bào chữa của bị cáo Phạm Bảo N: Luật sư Nguyễn Tâm H, Văn phòng Luật sư H, Đoàn luật sư tỉnh Phú Yên, bào chữa theo yêu cầu của Tòa án. Có mặt.
Ngoài ra trong vụ án còn có người bị hại, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo; không bị kháng cáo, kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Năm 2013, Công ty Trách nhiệm hữu hạn C, địa chỉ tỉnh Phú Yên trồng 115 ha rừng keo sản xuất tại tiểu khu 151 thuộc xã S và xã P, huyện P, tỉnh Phú Yên. Tháng 10/2020, Công ty Trách nhiệm hữu hạn C ủy quyền cho ông Trần Việt P, trú tại thành phố T đứng ra ký hợp đồng bán rừng keo nói trên. Biện Văn Q, cán bộ Trung tâm an điều dưỡng tàu ngầm - Quân chủng Hải Quân ở thành phố T, tỉnh Phú Yên quen biết với Phạm Bảo N nên gọi điện thoại hỏi N có mua 115 ha rừng keo thì Q giới thiệu để được hưởng tiền hoa hồng. N đồng ý và rủ Phạm Hoàng A, trú tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cùng đến tỉnh Phú Yên gặp Q và được Q giới thiệu N với ông P. Do cần tiền để trả nợ và tiêu xài cá nhân nên N nảy sinh ý định ký hợp đồng mua rừng keo rồi bán cho người khác để chiếm đoạt tiền. Ngày 23/10/2020, N ký hợp đồng với ông P mua 115 ha rừng keo với giá 5.750.000.000 đồng, thời gian thực hiện hợp đồng đến hết ngày 28/10/2020, nếu không thanh toán tiền đúng thời hạn thì hợp đồng sẽ bị hủy.
Phạm Bảo N đăng thông tin lên mạng xã hội để tìm người mua thì ông Nguyễn Công T, Giám đốc Công ty Trách nhiệm hữu hạn P, địa chỉ tỉnh Bình Định liên hệ và hẹn gặp nhau tại thành phố T, tỉnh Phú Yên. Mặc dù hợp đồng giữa N và ông P đã bị hủy do quá thời hạn thanh toán tiền nhưng N vẫn đưa ra thông tin gian dối cho ông T rằng N là chủ sở hữu 115 ha rừng keo và đưa ông T trực tiếp đi kiểm tra hiện trạng rừng keo này để ông T tin tưởng. Ngày 03/11/2020, ông T và N ký hợp đồng mua bán 100 ha trong tổng số 115 ha rừng trồng keo với giá 4.000.000.000 đồng và ông T đặt cọc 50.000.000 đồng. Ngày 09/11/2020, ông T chuyển vào tài khoản của N số tiền còn lại là 3.950.000.000 đồng tại Ngân hàng C Việt Nam - Chi nhánh Phú Yên. Ngày 13/11/2020, ông T tổ chức khai thác rừng keo trên thì thấy có người khai thác nên gọi điện thoại hỏi N. Sợ bị ông T phát hiện sự việc nên N nói dối sẽ trả lại cho ông T 4.000.000.000 đồng và bồi thường hợp đồng 1.000.000.000 đồng nhưng sau đó trốn tránh không chịu trả. Ngày 14/12/2020, ông T tố cáo hành vi của N đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Phú Yên.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm sổ 13/2022/HS-ST ngày 06/4/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên đã quyết định:
Tuyên bố: Bị cáo Phạm Bảo N phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” .
1. Về Hình phạt: Áp dụng Điểm a, Khoản 4 Điều 174; Điểm b, S, Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự;
Xử phạt: Bị cáo Phạm Bảo N - 15 (Mười lăm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 28/4/2021.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về phần trách nhiệm dân sự, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 12/4/2022 bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo; giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận; Hội đồng xét xử thấy đủ cơ sở kết luận:
Vào ngày 03/11/2020, tại thành phố T, tỉnh Phú Yên, Phạm Bảo N đưa ra thông tin gian dối là chủ sở hữu của 100 ha rừng trồng keo tại xã S và xã P thuộc huyện P, tỉnh Phú Yên để ông Nguyễn Công T tin tưởng ký hợp đồng mua gỗ keo và chuyển tiền cho N chiếm đoạt số tiền 4.000.000.000 đồng. Do đó, án sơ thẩm tuyên bố bị cáo Phạm Bảo N phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại Điểm a, Khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
[1]. Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Phạm Bảo N, nhận thấy: Bị cáo bị truy tố, xét xử về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự, có khung hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân; bị cáo đã chiếm đoạt 4.000.000.000đ, hơn 08 lần mức khởi điểm của khung hình phạt. Án sơ thẩm cũng đã xem xét đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã thành khẩn khai báo; ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; đã khắc phục được 2.750.000.000 đồng cho ông Nguyễn Công T, là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, S khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, để xử phạt bị cáo 15 năm tù là phù hợp với tính chất, mức độ và hậu quả do hành vi phạm tội gây ra. Bị cáo kháng cáo nhưng không có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mới, nên Hội đồng xét xử xét thấy không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo; giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[2]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử không xét và đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[3]. Về án phí phúc thẩm: Kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận, nên phải chịu án hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên, Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự.
QUYẾT ĐỊNH
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Bảo N; giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Tuyên bố: Bị cáo Phạm Bảo N phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” .
Áp dụng Điểm a, Khoản 4 Điều 174; Điểm b, S, Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Phạm Bảo N 15 (Mười lăm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 28/4/2021.
2. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị và được thi hành theo bản án hình sự sơ thẩm số 13/2022/HS-ST ngày 06/4/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên.
3. Về án phí phúc thẩm: Bị cáo Phạm Bảo N phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 308/2022/HS-PT
Số hiệu: | 308/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 11/08/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về