Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 304/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 304/2023/HS-PT NGÀY 22/05/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 5 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 193/2023/TLPT-HS ngày 22 tháng 3 năm 2023 đối với bị cáo Đỗ Trần Phương D, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 05/2023/HS-ST ngày 10/02/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang.

Bị cáo có kháng cáo: Đỗ Trần Phương D, sinh ngày 04/9/1993 tại tỉnh Tiền Giang; Nơi thường trú: Ấp Phước Thuận, xã P, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang; Chỗ ở hiện nay: Ấp Tân Định 2, xã S, huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa (học vấn): Lớp 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đỗ Ngọc B và bà Trần Thị T; Có vợ tên Nguyễn Thị Ngọc T và 02 con; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Chưa từng vi phạm pháp luật; Bị bắt tạm giam từ ngày 22/8/2021 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa chỉ định cho bị cáo: Luật sư Đỗ Hải B – Văn phòng luật sư Q thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (Có mặt);

Ngoài ra còn có bị án Huỳnh Hòa K, 09 người bị hại và 01 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không kháng cáo và không liên quan đến kháng cáo.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Đỗ Trần Phương D sinh sống bằng nghề kinh doanh xe vận tải hàng hóa nên biết rõ những sơ hở trong quá trình giao nhận hàng hóa giữa người mua với người bán. Khoảng tháng 10/2020, do làm ăn thua lỗ nên D nảy sinh ý định lừa đảo để chiếm đoạt tài sản. D mua nhiều sim rác để sử dụng sim rác liên hệ với chủ hàng mà D quen biết hoặc những chủ hàng đăng quảng cáo trên các bảng hiệu. D tìm hiểu về nguồn hàng, giá cả rồi tìm người mua và chào giá thấp hơn. Nếu người mua đồng ý mua hàng, D liên hệ yêu cầu người bán vận chuyển hàng hóa đến địa chỉ người mua, đồng thời yêu cầu người mua chuyển khoản số tiền mua hàng hóa đến các tài khoản ngân hàng do D cung cấp, khi đã xác định người mua chuyển khoản thì D tắt điện thoại, xóa kết bạn Zalo… chiếm đoạt toàn bộ số tiền người mua chuyển khoản vào. Để có tài khoản nhận, rút tiền do lừa đảo mà có, ngoài việc sử dụng tài khoản cá nhân của D số 070099662296 mở tại Sacombank, D nhờ anh rể là Huỳnh Hòa K mở tài khoản với hứa hẹn khi nào có tiền vào tài khoản, K rút tiền hoặc chuyển khoản cho D thì D cho K một khoản tiền. K đã mở 03 tài khoản, gồm: Số 6911205074273 Agribank; số 070118110887 Sacombank và số 109873383269 Viettinbank. D và K đã thực hiện 08 vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên các địa bàn tỉnh Tiền Giang, Long An, Đồng Nai với tổng số tiền là 1.751.615.000 đồng, D hưởng lợi 1.723.715.000 đồng và K hưởng 27.900.000 đồng. Ngoài ra D còn một mình thực hiện 01 vụ tại Thành phố Hồ Chí Minh, chiếm đoạt 60.000.000 đồng. Cụ thể như sau:

Trên địa bàn tỉnh Tiền Giang, D và K thực hiện 05 vụ như sau:

Vụ thứ nhất: Khoảng 22 giờ ngày 13/10/2020, D sử dụng số điện thoại 0332209204, giả mạo tên Tâm là chủ cửa hàng Minh Tâm ở ngã ba Phú Mỹ, Tiền Giang gọi vào số 0936044583 thuê xe anh Trần Văn Phước đến lò gạch Minh Tuyền ở Bình Dương chở 30.000 viên gạch ống, giá trị 24.600.000 đồng, tiền thuê xe là 5.700.000 đồng. Ngày 14/10/2020, Phước điều tài xế tên Nguyễn Hoàng Nhân điều khiển xe ô tô biển số 63C-140.00 đi nhận gạch. Sau khi bốc gạch xong, Phước điện thoại cho D (đóng giả tên Tâm) biết thì D yêu cầu Phước chuyển 24.600.000 đồng vào tài khoản số 070118110887 mở tại Sacombank để D chuyển trả cho lò gạch, khi giao hàng xong sẽ thanh toán lại. Tin lời nên khoảng 16 giờ 25 phút cùng ngày, Phước chuyển 24.600.000 đồng xong thì D kêu Huỳnh Hòa K đến Sacombank chi nhánh Mỹ Tho rút 24.600.000 đồng đưa cho D, D chia cho K 5.000.000 đồng và tắt điện thoại, cắt liên lạc với Phước. Phước đến Sacombank kiểm tra thì số tiền không còn trong tài khoản (BL 345- 347; 371-374).

Vụ thứ hai: Ngày 15/10/2020, D sử dụng sim rác số 0867196248, giả mạo tên Tân nhà ở thị trấn Tân Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang gọi vào số 09792722272 thuê xe anh Nguyễn Minh Hùng đến Bình Dương chở gạch về, với thỏa thuận Hùng trả tiền gạch trước, khi nào Tân (do D mạo danh) nhận gạch sẽ thanh toán tiền gạch và tiền xe. D cho Hùng số điện thoại để liên lạc là 0869949524. Ngày 20/10/2020, Hùng điều tài xế tên Trần Hồng Phong điều khiển xe ô tô biển số 63C-019.32 đến Bình Dương, liên lạc vào số điện thoại 0869949524 thì người xưng tên “Khanh” nói là làm trong lò gạch Thành Tân 1 (không rõ địa chỉ), yêu cầu Phong điện thoại kêu Hùng chuyển 36.900.000 đồng vào tài khoản số 070118110887 Sacombank để trả tiền gạch. Hùng sử dụng Internet Banking chuyển số tiền theo yêu cầu thì D kêu K đến Sacombank chi nhánh Mỹ Tho rút 36.900.000 đồng đưa cho D, K được D chia 1.900.000 đồng. Phong chờ lâu không thấy bốc gạch nên vào lò gạch hỏi thì không có ai tên là Khanh, nên Phong điện báo cho Hùng biết. Hùng gọi cả 02 số điện thoại 0867196248 và 0869949524 đều không liên lạc được (BL 463-472).

Vụ thứ ba: Ngày 27/5/2021, thông qua ứng dụng Zalo, D sử dụng sim số 0793904205 giả người tên Toàn gọi vào tài khoản Zalo qua số điện thoại 0938197803 của anh Nguyễn Huy Cường để chào bán 150 tấn gạo Ấn Độ. Cường đồng ý mua và yêu cầu giao gạo tại kho của Cường ở ấp An Thiện, xã An Cư, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang. D tiếp tục sử dụng Zalo qua sim số 0793904205 giả người tên là Phát, gọi vào tài khoản Zalo của anh Võ Quốc Trung thỏa thuận mua 150 tấn gạo Ấn Độ. Do Trung yêu cầu đặt cọc, D chuyển số tiền 10.000.000 đồng vào tài khoản của Trung. Sáng ngày 28/5/2021, Trung cho 06 xe container chở 150 tấn gạo đến kho của anh Cường. Cường kiểm tra gạo xong thì chuyển vào tài khoản số 6911205074273 do D cung cấp, được D xác nhận đã nhận đủ tiền, Cường yêu cầu tài xế cho bốc gạo vào kho thì được biết số gạo này của anh Trung (bạn làm ăn với Cường), Trung chưa nhận được tiền bán gạo nên không đồng ý cho bốc gạo vào kho. Cường liên lạc qua Zalo thì D không bắt máy, không trả lời tin nhắn, biết bị lừa nên Cường tố giác đến Công an.

Sau khi được Cường chuyển tiền vào tài khoản, lúc 09 giờ 30 phút ngày 28/5/2021, K đến Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn chi nhánh tỉnh Bến Tre rút 380.000.000 đồng tiền mặt đưa cho D, chuyển 100.000.000 đồng sang tài khoản số 070099662296 của D; 120.000.000 đồng còn lại, D chuyển vào tài khoản số 101870857076 của K để trả cho chị Đỗ Trần Phương N (là vợ của K) do D mượn trước đó; số còn lại D 06 lần rút tiền mặt ATM tại Bến Tre và 10 lần rút ATM tại huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh. Trong vụ này, D hưởng 546.000.000 đồng và K hưởng 4.000.000 đồng (BL 970-984).

Vụ thứ tư: Ngày 02/7/2021, thông qua ứng dụng Zalo, D sử dụng sim số 0785145836 giả người tên Khanh gọi vào tài khoản số điện thoại 0943299449 của anh Nguyễn Thành Trình để chào bán 50 tấn gạo thơm OM, giá 10.800 đồng/kg, hẹn giao gạo tại nhà máy lau bóng gạo Tuyết Ngân ở Cụm công nghiệp An Thạnh, xã Đông Hòa Hiệp, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang. Trình cùng Bùi Quốc Thái đến nhà máy Tuyết Ngân, gặp anh Lê Hùng Ngân để xem mẫu gạo. Sau khi xem mẫu gạo và thương lượng thì D đồng ý giảm 200 đồng/kg, nên đồng ý đặt mua 50 tấn. Trình sử dụng ứng dụng chuyển tiền trên điện thoại chuyển 531.115.000 đồng vào tài khoản số 109873393269 do D cung cấp. Sau khi chuyển tiền, Trình cho bốc 50 tấn gạo lên xe thì anh Ngân không đồng ý vì tiền chưa vào tài khoản của Ngân. Trình điện thoại cho D thì không liên lạc được, biết bị lừa nên Trình tố giác đến Công an.

Theo yêu cầu của D, K chuyển 300.000.000 đồng vào tài khoản số 070099662296 của D, chuyển 200.000.000 đồng sang tài khoản số 070118110887 Sacombank của K và chuyển 29.000.000 đồng sang tài khoản số 6911205074273 Agribank của K. Trong vụ này, D hưởng 530.115.000 đồng và K hưởng 600.000 đồng (BL 1063-1069; 1075-1077).

Vụ thứ năm: Ngày 14/8/2021, thông qua ứng dụng Zalo, D sử dụng sim số 0785145848 giả người tên Khanh gọi vào tài khoản Zalo qua số điện thoại 0908903356 của chị Nguyễn Thị Huỳnh Như để đặt mua 05 tấn gạo 504 và 05 tấn gạo 5451, thành tiền 98.500.000 đồng. D sử dụng tài khoản số 070099662296 chuyển khoản cho Như 2.000.000 đồng để đặt cọc và hẹn đến ngày 16/8/2021 sẽ cho xe đến nhận hàng và thanh toán số tiền còn lại. Ngày 15/8/2021, D sử dụng Zalo qua sim số 0785145848 liên lạc tài khoản Zalo của anh Nguyễn Xuân Hiệu chào bán 05 tấn gạo 504 và 05 tấn gạo 5451, hẹn ngày 16/8/2021 giao gạo tại vựa gạo Liễu Thành Phát ở ấp An Thiện, xã An Cư, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang. Khoảng 9 giờ 30 phút ngày 16/8/2021, Hiệu thuê Lê Thanh Hợp điều khiển xe ô tô tải biển số 51C-809.41 đến vựa gạo Liễu Thành Phát để nhận gạo. Sau khi nhận gạo lên xe, Hiệu chuyển 93.000.000 đồng vào tài khoản số 070118110887 do D cung cấp. Khi xe anh Hợp đi đến xã Nhị Quý, thị xã Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang thì bị người của vựa Liễu Thành Phát chặn lại vì chưa thanh toán tiền mua gạo. Hiệu điện thoại cho D thì không liên lạc được, biết bị lừa nên Hiệu tố giác đến Công an.

Theo yêu cầu của D, K chuyển 70.000.000 đồng vào tài khoản số 070099662296 của D và đến Sacombank Mỹ Tho rút 23.000.000 đồng tiền mặt đưa cho D thì K được D cho 1.000.000 đồng (BL 291-294; 296-304; 308-313).

Trên địa bàn tỉnh Long An, D và K thực hiện 02 vụ như sau:

Vụ thứ nhất: Ngày 22/5/2021, D sử dụng số điện thoại 0326262139 giả mạo người tên Toàn, điện thoại vào số 0918700994 của chị Trương Thị Mộng Trinh (Nhà máy gạo 8 Sỹ) hỏi mua và được chị Trinh đồng ý bán 480 bao (24 tấn) gạo Đài Thơm 8, giá 13.200 đồng/kg, thành tiền 316.800.000 đồng. D kêu Trinh gửi mẫu gạo đến thành phố Mỹ Tho cho D xem. Sau đó, D cũng sử dụng số điện thoại 0326262139 giả tên Toàn gọi cho chị Đoàn Thị Yến Nhi đến chào bán 480 bao gạo Đài Thơm 8, giá 10.500 đồng/kg. D kêu K đến nhận mẫu gạo và thuê anh Nguyễn Văn Vũ đem mẫu gạo cho Nhi xem. Nhi đồng ý mua và nhắn số điện thoại 0943156211 của tài xế tên Nguyễn Phước Nguyền để D chỉ nơi đến nhận gạo. Khoảng 08 giờ ngày 23/5/2021, D điện thoại cho Nhi nói sẽ chở gạo đến giao và D điện kêu anh Nguyền đến Nhà máy gạo 8 Sỹ để nhận gạo, khi nào bốc gạo lên xe xong thì điện cho D. Khi anh Nguyền thông tin đã bốc gạo lên xe xong thì D nhắn tin yêu cầu chị Nhi chuyển tiền vào số tài khoản 070118110887 và số 070099662296 và chị Nhi đã chuyển 147.200.000 đồng vào tài khoản số 070099662296 và chuyển 100.000.000 đồng vào tài khoản số 070118110887. Nhận được tiền, D hủy sim điện thoại 0326262139 và kêu K đến Sacombank Mỹ Tho rút 100.000.000 đồng đưa cho D thì D cho K 4.000.000 đồng. Phần D đến Sacombank Mỹ Tho rút 147.200.000 đồng sử dụng cá nhân (BL 551-557).

Vụ thứ hai: Ngày 27/6/2021, D sử dụng số điện thoại 0785104307 giả mạo người tên Tâm, điện thoại vào số 0961408356 của chị Đỗ Thị Hằng là chủ nhà máy gạo Đắc Thành, hỏi mua và được chị Hằng đồng ý bán 408 bao (20,4 tấn) gạo Đài Thơm, giá 11.500 đồng/kg. D kêu gửi mẫu gạo cho D xem thì Hằng cho số điện thoại anh Nguyễn Thanh Sang để liên hệ lấy mẫu gạo. Sau đó, D cũng sử dụng số điện thoại 0785104307 giả tên Tuấn gọi vào số 0903654325 của chị Châu Thị Truyền chào bán gạo. D thuê anh Sang đem mẫu gạo cho Truyền xem và để tránh bị phát hiện, D kêu anh Sang cho số tài khoản để D thanh toán tiền công giao mẫu gạo là 250.000 đồng. Sau khi xem mẫu gạo, Truyền đồng ý mua 20,4 tấn gạo Đài Thơm, giá 11.200 đồng/kg, thành tiền 228.480.000 đồng và kêu tài xế tên Huỳnh Phước Hiền đi nhận gạo. Thông qua số điện thoại 0785104307, D hướng dẫn anh Hiền đến nhà máy gạo Đắc Thành để nhận gạo. Khoảng 09 giờ ngày 28/6/2021, D nhắn tin yêu cầu chị Truyền chuyển tiền vào số tài khoản 109873393269, thì chị Truyền gọi điện anh Hiền báo đã chuyển được một phần gạo lên xe, nên chị Truyền chỉ chuyển 180.000.000 đồng. Sau khi bốc đủ gạo, anh Hiền chuẩn bị chạy xe đi, lúc này chi Hằng chưa nhận được tiền gạo và cũng không liên lạc được với D, nên không cho xe chạy. Nhận được tiền, D hủy sim điện thoại 0785104307 và kêu K sử dụng Internet Banking chuyển 180.000.000 đồng vào tài khoản 070099662296 của D. Sau đó D cho K 4.000.000 đồng (BL 567-570).

Trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, D và K thực hiện 01 vụ như sau: Ngày 06/5/2021, D sử dụng số điện thoại 07883792726, giả mạo tên Thanh là nhân viên xưởng gạch Phương Luân ở ấp 2, xã Tân An, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai gọi vào điện thoại của anh Phạm Xuân Trường hỏi mua 700 bao xi măng trị giá 47.600.000 đồng, thỏa thuận giao xi măng xong thì xưởng gạch Phương Luân sẽ trả tiền bằng chuyển khoản. Sau khi Trường đồng ý thì D sử dụng số điện thoại 0335140863 mạo tên Khanh gọi vào số 0945330969 của anh Nguyễn Thành Luân là chủ xưởng gạch Phương Luân, chào bán 700 bao xi măng giá 39.900.000 đồng, thỏa thuận giao xi măng tại xưởng gạch của Luân và Luân chuyển khoản vào tài khoản số 6911205074273. Ngày 07/5/2021, nhận được 700 bao xi măng anh Trường giao thì Luân chuyển 39.900.000 đồng vào tài khoản D chỉ định. Nhận được tiền, D hủy sim số 07883792726 và sim số 0335140863. K sử dụng Internet Banking chuyển tiền qua tài khoản số 070118110887 và đến trụ ATM ở huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre rút hết tiền đưa cho D thì D cho K 2.000.000 đồng (BL 710-711; 717-720; 725-730).

Kết luận định giá tài sản số 51/BB-ĐGTS ngày 06/7/2021 kết luận 700 bao xi măng có giá trị là 47.600.000 đồng.

Đỗ Trần Phương D còn một mình thực hiện 01 vụ như sau: Ngày 17/4/2021, D sử dụng sim khuyến mãi gọi vào số 0916265460 của chị Nguyễn Ngô Thanh Vân là chủ cửa hàng vật liệu xây dựng ở ấp Bình Thủy, xã Hòa Khánh Đông, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An hỏi mua 800 bao xi măng (40 tấn). Vân yêu cầu chuyển tiền nhưng D lấy lý do ngày nghỉ Ngân hàng không chuyển được tiền, vì quen biết nên Vân đồng ý bán. Ngày 19/4/2021, sau khi thuê xe hai ô tô biển số 61C-231.91 và số 61C-397.91, D thông tin cho chị Vân để Vân liên hệ nhà phân phối Lâm Hoàng Phát xuất xi măng. Tại Nhà máy xi măng số 65 ở thành phố Thủ Đức, xe ô tô biển số 61C1-231.91 do anh Nguyễn Đình Quân ký nhận 500 bao xi măng (tiền vận chuyển 3.000.000 đồng), xe ô tô biển số 61C1- 397.91 do anh Lê Anh Tuấn ký nhận 300 bao xi măng (tiền vận chuyển 2.000.000 đồng). Duy yêu cầu anh Quân giao xi măng cho 01 người không rõ lai lịch ở khu vực thành phố Biên Hòa, còn anh Tuấn thì giao xi măng cho anh Nguyễn Thành Luân ở Ấp 2, xã Tân An, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai. Sau khi nhận 50.000.000 đồng từ anh Luân và người không rõ lai lịch (mua xi măng) chuyển tiền vào tài khoản số 070099662296 thì D hủy sim, chiếm đoạt tiền tiêu xài cá nhân.

Kết luận định giá tài sản số 283-KV2/KLĐG-HĐĐGTS ngày 28/5/2021 kết luận 800 bao xi măng có giá trị là 60.000.000 đồng.

Cơ quan điều tra thu giữ 02 đĩa DVD trích xuất từ Camera ghi nhận hình ảnh Huỳnh Hòa K rút tiền chiếm đoạt; 01 đĩa nhựa chứa 07 file ghi âm cuộc gọi điện thoại giữa Nguyễn Huy Cường với số điện thoại 0793904205 của người xưng tên Toàn; 01 USB chứa các clip thể hiện 02 xe tải chở 800 bao xi măng rời khỏi nhà máy Công ty Cổ phần Phát triển Sài Gòn;

Thu giữ tại nhà và trong người của Huỳnh Hòa K: 08 chiếc nhẫn, 01 chiếc lắc, 01 đồng hồ đeo tay, 02 điện thoại di động, 02 sim điện thoại, 02 chứng minh nhân dân, 01 tờ 100 USD, 05 thẻ ATM và 01 xe máy hai bánh biển số 54N – 50.247.

Thu giữ tại nhà và trong người của Đỗ Trần Phương D: 26.800.000 đồng, 02 điện thoại di động, 01 thẻ nhớ, 01 thẻ tài khoản tên Nguyễn Thị Ngọc Thảo, 01 phiếu thu nộp tiền, 01 sổ hộ khẩu, 01 hợp đồng thuê nhà, 01 chứng minh nhân dân.

Thu giữ tại nhà Nguyễn Cao Anh Dân: 01 xe máy biển số 63C1-032.99, 01 biển số 63C1-032.99 và 01 biển số 70F7-0791, 01 thẻ ATM, 01 điện thoại di động, 02 sim điện thoại, 01 thẻ đựng sim, 01 hợp đồng cầm cố phương tiện, 01 phiếu tiêm chủng cá nhân.

Tại Bản cáo trạng số 56/CT-VKSTG-P1 ngày 31/10/2022 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang đã truy tố Đỗ Trần Phương D về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và còn truy tố Huỳnh Hòa K.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 05/2023/HS-ST ngày 10/02/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Đỗ Trần Phương D phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm a, g khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 17, Điều 38, Điều 50 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Đỗ Trần Phương D 16 (mười sáu) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ là ngày 22/8/2021.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về tội danh và hình phạt đối với Huỳnh Hòa K; về trách nhiệm dân sự; xử lý vật chứng; về án phí hình sự sơ thẩm, án phí dân sự sơ thẩm và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 17/02/2023, bị cáo Đỗ Trần Phương D kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt tù.

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay:

Bị cáo Đỗ Trần Phương D khai nhận bị cáo có thực hiện các hành vi như Bản án sơ thẩm đã tuyên bố bị cáo phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản là đúng, nhưng xử phạt bị cáo 16 năm tù là quá nặng, nên bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt tù. Bị cáo có tác động gia đình nộp 50.000.000 đồng để khắc phục hậu quả và bị cáo đồng ý số tiền hơn 20 triệu đồng của bị cáo bị tạm giữ sẽ chuyển sang khắc phục hậu quả cho các bị hại.

Luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị xem xét bị cáo với bị án K không có sự câu kết chặt chẽ, chưa có căn cứ vững chắc để quy kết phạm tội có tổ chức. Ngoài các tình tiết giảm nhẹ mà Bản án sơ thẩm đã áp dụng thì đề nghị xem xét số tiền 50.000.000 đồng và số tiền hơn 20 triệu đồng tạm giữ của bị cáo dùng để bồi thường cho các bị hại, tuy không nhiều so với số tiền bị cáo đã chiếm đoạt, nhưng phần nào cũng thể hiện bị cáo có thiện chí bồi thường thiệt hại, đề nghị áp dụng thêm điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Như vậy, bỏ bớt 01 tình tiết tăng nặng và áp dụng thêm 01 tình tiết giảm nhẹ, nên đề nghị chấp nhận kháng cáo, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh có ý kiến người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng hình sự; Đơn kháng cáo hợp lệ về hình thức; Về nội dung Bản án sơ thẩm tuyên bố bị cáo Đỗ Trần Phương D phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 của Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đã xử phạt mức hình phạt tương xứng. Tại phiên tòa phúc thẩm không có tình tiết giảm nhẹ mới, nên đề nghị bác kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đơn kháng cáo của bị cáo Đỗ Trần Phương D đảm bảo hình thức, thời hạn, đủ điều kiện giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Trong thời gian từ tháng 10/2020 đến tháng 8/2021, bị cáo Đỗ Trần Phương D cùng với bị án Huỳnh Hòa K sử dụng nhiều sim số điện thoại và nhiều tài khoản ngân hàng để thực hiện hành vi lừa đảo, chiếm đoạt của 08 người bị hại với tổng số tiền 1.751.615.000 đồng, trong đó D hưởng lợi 1.736.615.000 đồng và bị cáo D tự mình thực hiện 01 vụ chiếm đoạt 60.000.000 đồng. Bản án sơ thẩm đã tuyên bố bị cáo Đỗ Trần Phương D phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự là có căn cứ.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến tài sản hợp pháp của người khác, làm ảnh hưởng rất xấu đến trật tự, an toàn xã hội nên cần phải xử phạt nghiêm.

Bị cáo D và bị án K sử dụng nhiều sim rác, nhiều tài khoản Ngân hàng, có sự câu kết, phối hợp chặt chẽ trong thực hiện tội phạm, trong việc nhận tiền, tẩu tán tiền do phạm tội mà có, đó chính là phạm tội có tổ chức; Số tiền chị Ngọc nộp 50.000.000 đồng và số tiền tạm giữ của bị cáo 26.800.000 đồng dùng để bồi thường cho người bị hại là không nhiều so với số tiền bị cáo đã chiếm đoạt của các bị hại, nên Bản án sơ thẩm không áp dụng điểm b khoản 1 Điều 51, mà áp dụng khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự là có căn cứ. Vì vậy, không chấp nhận lời bào chữa của luật sư về phần này.

Bị cáo Đỗ Trần Phương D là chủ mưu và là người hưởng hầu hết số tiền chiếm đoạt của các bị hại. Bị cáo phạm tội ở khung hình phạt quy định phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân. Bản án sơ thẩm đã xem xét đầy đủ tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo, gồm: Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, có quá trình nhân thân tốt, tự nguyện sử dụng số tiền 76.800.000 đồng (gồm 50.000.000 đồng và 26.800.000 đồng) để bồi thường cho người bị hại, nhưng do bị cáo phạm tội với 02 tình tiết tăng nặng là phạm tội có tổ chức và phạm tội 02 lần trở lên, nên đã xử phạt bị cáo 16 năm tù đã là thỏa đáng, vừa đảm bảo tác dụng giáo dục riêng đối với bị cáo và vừa răn đe phòng ngừa chung trong xã hội. Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay không có tình tiết giảm nhẹ gì mới, nên không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo và luật sư bào chữa cho bị cáo, giữ nguyên Bản án sơ thẩm như đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh là phù hợp.

[4] Do không được chấp nhận kháng cáo nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm về tội danh và hình phạt đối với Huỳnh Hòa K; về trách nhiệm dân sự; xử lý vật chứng; về án phí hình sự sơ thẩm, án phí dân sự sơ thẩm, không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[6] Bản án sơ thẩm buộc các bị cáo phải bồi thường tiền cho các bị hại, nhưng lại không tuyên về nghĩa vụ thi hành án, về trách nhiệm do chậm thi hành án là thiếu sót, nên bổ sung để đảm bảo cho việc thi hành án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sựđiểm e khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

2. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đỗ Trần Phương D; Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 05/2023/HS-ST ngày 10/02/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang;

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm a điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38 và Điều 50 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

Tuyên bố bị cáo Đỗ Trần Phương D phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Xử phạt bị cáo Đỗ Trần Phương D 16 (Mười sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 22/8/2021. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

3. Bị cáo Đỗ Trần Phương D phải nộp án phí hình sự phúc thẩm là 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng).

4. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm về tội danh và hình phạt đối với Huỳnh Hòa K; về trách nhiệm dân sự; về xử lý vật chứng; về án phí hình sự sơ thẩm, án phí dân sự sơ thẩm, không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

5. Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận nhưng phải phù hợp với quy định của pháp luật; nếu không có thỏa thuận về mức lãi suất thì quyết định theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án; quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.

6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

105
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 304/2023/HS-PT

Số hiệu:304/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về