Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 301/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VINH, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 301/2021/HS-ST NGÀY 29/09/2021 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 9 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh N xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 279/2021/HSST ngày 28 tháng 7 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 507/2021/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phan Xuân P; Tên gọi khác: Không; Giới tính; Nam; Sinh ngày: 04 tháng 01 năm 2003 tại thành phố V, tỉnh N; Nơi ĐKNKTT: Khối Y, phường V, thành phố V, tỉnh N; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa:

11/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Phan Xuân M và bà Đậu Thị Mỹ C; Vợ, con: Chưa có; Tiền án: Bản án số 455/2020/HSST ngày 17/9/2020 của Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh N xử phạt 15 tháng tù cho hưởng án treo thử thách 30 tháng về tội “Gây rối trật tự công cộng”; Tiền sự: không; Nhân thân: Ngày 17/8/2021, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố V, tỉnh N ra quyết định khởi tố bị can về tội “Bắt, giữ người trái pháp luật”. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/5/2021 đến nay có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại: Anh Nguyễn Hoàng S N– sinh năm 2001 – vắng mặt Địa chỉ: Xóm H, xã H, huyện H, tỉnh N;

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

+ Anh Nguyễn Hoàng N– sinh ngày 04/4/2003 – vắng mặt Địa chỉ: Xóm H, xã H, huyện H, tỉnh N;

+ Anh Đậu Quốc V – sinh năm 1992 – vắng mặt Địa chỉ: Khối 7, phường L, thành phố V, tỉnh N.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

1 Khoảng 12 giờ ngày 14/5/2021, Phan Xuân P đang ngồi chơi tại nhà anh Lê Đình M, trú tại khối V, phường Đ, thành phố V, tỉnh Nthì có anh Nguyễn Hoàng S N đi xe máy nhãn hiệu Honda Wave anpha, BKS 37N1 – xxxxx chở theo anh Nguyễn Hồng Q cũng đến đây chơi. Cả bốn người ngồi trò chuyện với nhau thì P hỏi mượn xe mô tô của anh N để mang đi cầm cố nhưng anh N không đồng ý. Vì vậy, Phan Xuân P nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc xe của anh N. Khi nghe anh N nói với mọi người là xe hết xăng thì P nói anh N đưa chìa khóa xe để P kiểm tra xem xăng đã hết chưa, thì anh N đồng ý và đưa chìa khóa xe cho P. Có được chìa khóa xe, Phan Xuân P dắt xe đi được khoảng 100 mét, anh N phát hiện P đã lấy chiếc xe nên đuổi theo yêu cầu trả lại nhưng P đã lên xe nổ máy bỏ chạy. Sau khi chiếm đoạt được tài sản thì P đưa chiếc xe đến hiệu cầm đồ Q, địa chỉ số 6 đường Lý Thường Kiêt, phường Lê Lợi, thành phố V tỉnh N cầm cố cho anh Đậu Quốc V để vay số tiền 3.000.000 đồng. Số tiền này Phan Xuân P đã trả nợ và tiêu xài hết. Sau khi biết việc Phan Xuân P lấy xe đi cầm cố thì anh Nguyễn Hoàng S Nđến Công an phường Đội Cung, thành phố V, tỉnh N trình báo sự việc.

Đến ngày 17/5/2021, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật và biết Cơ quan Công an đang điều tra nên Phan Xuân P đến Công an phường Đội Cung, thành phố V, tỉnh N đầu thú. Cùng ngày 17/5/2021, anh Đậu Quốc V giao nộp chiếc xe mô tô BKS 37N1 – xxxxx cho Cơ quan Công an để phục vụ công tác điều tra.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 165/KL-ĐGTS ngày 20/5/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thành phố V kết luận: Chiếc xe nhãn hiệu Honda Wave anpha màu Xanh đen bạc BKS 37N1 – xxxxx, đã qua sử dụng có giá trị là 12.500.000 đồng (Mười hai triệu năm trăm ngàn đồng).

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố V, Phan Xuân P đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố V đã trả lại chiếc xe nhãn hiệu Honda Wave anpha màu Xanh đen bạc BKS 37N1 – xxxxx cho anh Nguyễn Hoàng Nghĩa, sinh năm 2003, trú tại Xóm H, xã H, huyện H, tỉnh N là chủ sở hữu. Anh Nghĩa không có yêu cầu gì thêm về dân sự và xin giảm nhẹ hình phạt cho Phan Xuân P; Anh Đậu Quốc V yêu cầu Phan Xuân P trả lại số tiền 3.000.000 đồng.

Bản Cáo Trạng số 312/CT-VKS-TPV ngày 27 tháng 7 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố V, tỉnh N đã truy tố Phan Xuân P về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố V, tỉnh N giữ quyền công tố tại phiên tòa, đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt Phan Xuân P từ 09 -12 tháng tù. Áp dụng điều 56 Bộ luật hình sự tổng hợp hình phạt 15 tháng tù cho hưởng án treo tại bản án số 455/2020/HSST ngày 17/9/2020 của Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh N buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung cho hai bản án là 24 – 27 tháng tù nhưng được trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam tại bản án số 455/2020/HSST ngày 17/9/2020 là từ ngày 12/6/2020 đến ngày 25/8/2020.

- Về trách nhiệm dân sự: Tài sản đã được thu hồi trả lại cho anh Nguyễn Hoàng Nghĩa, anh Nghĩa không yêu cầu gì thêm nên miễn xét. Buộc bị cáo trả lại cho anh Đậu Quốc V số tiền 3.000.000 đồng.

- Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí HSST, DSST theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã quy kết và không tranh luận gì mà đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về nội dung:

[2.1]. Tại phiên tòa, bị cáo đã hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Xét lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người liên quan; phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ căn cứ khẳng định: Vào khoảng 13 giờ ngày 14/5/2021, nhà anh Lê Đình M thuộc khối Vĩnh Quang, phường Đông Vĩnh, thành phố V, tỉnh N, Phan Xuân P đã dùng thủ đoạn gian dối, lừa đảo chiếm đoạt chiếc xe nhãn hiệu Honda Wave anpha màu Xanh đen bạc BKS 37N1 – xxxxx, trị giá 12.500.000 đồng (Mười hai triệu năm trăm ngàn đồng) do anh Nguyễn Hoàng S Nquản lý, sử dụng đem đi “cầm cố” lấy 3.000.000 đồng (ba triệu đồng) tiêu xài cá nhân hết. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố V truy tố bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” được quy định tại khoản 1 điều 174 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2.2]. Vụ án thuộc loại ít nghiêm trọng nhưng hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến quyền sở hữu của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống, gây tâm lý hoang mang cho người dân. Vì vậy, phải xử phạt nghiêm và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian là cần thiết mới đủ răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

Xét tình tiết tăng nặng, trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội trong thời gian thử thách nhưng thời điểm phạm tội tại bản án số 455/2020/HSST ngày 17/9/2020 thì bị cáo chưa thành niên nên đương nhiên được xóa án tích, dó đó bị cáo không có tình tiết tăng nặng..

Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; sau khi phạm tội đã đi đầu thú; người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên bị cáo được hưởng những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo phạm tội trong thời gian thử thách nên cần tổng hợp hình phạt của bản án trước buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án.

[2.3]. Trong vụ án này, đối với anh Đậu Quốc V có hành vi nhận cầm cố chiếc xe mô tô nhưng anh Vương không biết tài sản trên do bị cáo phạm tội mà có nên anh Vương không phải chịu trách nhiệm hình sự. Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử phạt hành chính là đúng quy định.

[2.4]. Về trách nhiệm dân sự: Tài sản đã được thu hồi trả lại cho anh Nguyễn Hoàng Nghĩa, anh Nghĩa không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử miễn xét. Buộc bị cáo phải trả lại cho anh Đậu Quốc V số tiền 3.000.000 đồng.

[2.5]. Về án phí: Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Phan Xuân P phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 174; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điều 56 Bộ luật hình sự, xử phạt Phan Xuân P 12 (Mười hai) tháng tù. Tổng hợp hình phạt 15 tháng tù cho hưởng án treo tại bản án số 455/2020/HSST ngày 17/9/2020 của Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh N buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung cho hai bản án là 27 (Hai mươi bảy) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 17/5/2021 nhưng được trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/6/2020 đến ngày 25/8/2020 tại bản án số 455/2020/HSST ngày 17/9/2020 của Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh N.

- Về bồi thường dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 584, 585, 586, 589 Bộ luật dân sự năm 2015, buộc bị cáo Phan Xuân P phải trả cho anh Đậu Quốc V số tiền 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng).

Sau khi án có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày những người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án số tiền bồi thường nêu trên nếu bị cáo không thanh toán khoản tiền đã tuyên thì hàng tháng còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

Trường hợp bản án quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại điều 6, điều 7 và điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo Bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh N. Người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

226
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 301/2021/HS-ST

Số hiệu:301/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vinh - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về