Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 29/2021/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỘC HÀ, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 29/2021/HSST NGÀY 21/10/2021 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 10 năm 2021 tại hội trường xét xử, Tòa án nhân dân huyện Lộc Hà đưa ra xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 22/2021/TLST-HS ngày 30/6/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 21/2021/QĐXXST-HS ngày 15/8/2021 và các Quyết định hoãn phiên tòa số 03/2021/QĐXXST-HS ngày 31/8/2021; số 04/2021/QĐXXST-HS ngày 30/9/2021, đối với các bị cáo:

1. NGUYỄN KHẮC G - Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh ngày: 14/11/1996, tại xã Q, huyện Q1, tỉnh T; Nơi cư trú: Thôn P, xã Q huyện Q1, tỉnh T; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: Lớp 12/12; Con ông: Nguyễn Khắc T1 - Sinh năm 1974 và bà: Lê Thị P - Sinh năm: 1974; Vợ: Phan Thị Kim L - sinh năm 1999 và 01 con, sinh năm 2020; Tiền án, tiền sự: Không; Biện pháp ngăn chặn: Bị cáo tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Tĩnh từ ngày 30/4/2021 đến nay. (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

2. NGUYỄN HỒNG P1 - Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh ngày: 25/11/2001 tại xã H, thị xã H1, tỉnh T; Nơi cư trú: Thôn M, phường H, thành phố H2, tỉnh T; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: Lớp 8/12; Con ông: Nguyễn T2 - Sinh năm 1979 và bà: Lê Thị H3 - Sinh năm: 1978; Vợ, con: Chưa có; Tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 09/7/2020 bị Công an xã Hương Vinh, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt về hành vi Gây rối trật tự công cộng bằng hình thức phạt tiền. Biện pháp ngăn chặn: Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế, từ ngày 29/4/2021 đến ngày 26/7/2021. (Bị cáo có mặt tại phiên tòa) .

Người bị hại: Chị Nguyễn Thị N- Sinh ngày: 02/9/1965; Trú tại: Thôn 3, xã M1, huyện C, tỉnh H4; Nghề nghiệp; (Vắng mặt).

Người làm chứng:

1. Anh Nguyễn Tuấn H5 - Sinh ngày: 02/6/1997; Trú tại: Thôn Đ, xã T3, huyện T4, tỉnh H4 (Vắng mặt);

2. Anh Nguyễn Khắc T1 - Sinh ngày: 23/9/1974; Trú tại: Thôn P, xã Q, huyện Q1, tỉnh T; (Vắng mặt);

3. Anh Nguyễn T5- Sinh ngày: 30/7/1979; Trú tại: Thôn M, phường H, thành phố H2, tỉnh T; (Vắng mặt);

4. Anh Nguyễn Văn C1- Sinh ngày: 23/9/1992; Trú tại: Tổ T6, phường H, thị xã H1, tỉnh T; (Có mặt);

5. Anh Nguyễn Thành N1 - Sinh ngày: 17/7/1994; Trú tại: Thôn M2, xã H4, thị xã H1, tỉnh T; (Vắng mặt);

6. Chị Trần Thị M3- Sinh ngày: 11/10/2000; Trú tại: Thôn 5, xã X, huyện Đ, tỉnh N2; (Vắng mặt);

7. Anh Nguyễn Hoàng N3- Sinh ngày: 12/11/2004 (Vắng mặt).

Người đại diện cho Nguyễn Hoàng N3 Bà Phạm Thị Ngọc A - Sinh năm: 1980; Đều trú tại: Tổ 4B, Khu 1, phường N4, thành phố V, tỉnh P1 (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng thời gian sau Tết Nguyên đán 2021, Nguyễn Khắc G thấy nhiều người có nhu cầu vay vốn thủ tục đơn giản trên các nhóm facebook nên đã nảy sinh ý định lập các tài khoản facebook, zalo giả làm nhân viên công ty tài chính để thực hiện hành vi lừa đảo. Đầu tháng 02/2021, G lập một tài khoản facebook có tên “Nguyễn Tấn T7 đăng tải các thông tin, hình ảnh, bài viết giả mạo nhân viên công ty tài chính kèm theo số điện thoại 0933.627.975 để liên lạc và sử dụng số điện thoại này lập một tài khoản zalo có tên “Nguyễn Tấn T7 đăng các hình ảnh, bài viết tương tự. Sau đó, G ở nhà riêng tại thôn P, xã Q, huyện Q1, tỉnh T sử dụng chiếc điện thoại Iphone 6Plus đăng nhập tài khoản facebook này đăng các bài viết lên nhiều nhóm cho vay vốn, hỗ trợ tài chính trên facebook. Cũng trong thời gian này, Nguyễn Hồng P1 mua trên mạng internet tài khoản ngân hàng Techcombank số 19036632914011, chủ tài khoản là Nguyễn Hoàng N3, sinh năm 2000, trú tại phường N4, thành phố V, tỉnh P1 với giá 2.500.000đ kèm theo thẻ sim có số thuê bao 0582783247 là số đăng ký dịch vụ Internet Banking của tài khoản. P1 sử dụng số điện thoại này đăng ký tài khoản zalo mang tên “Nguyễn Hoàng N2” và mua một tài khoản facebook với giá 45.000đ rồi đổi tên là “Nguyễn Hoàng N2” với mục đích giả làm nhân viên hỗ trợ tài chính lừa đảo những người có nhu cầu vay vốn, đồng thời hợp thức hóa số tiền các đối tượng lừa đảo qua mạng để hưởng lợi.

Sáng ngày 20/02/2021, chị Nguyễn Thị N, sinh năm 1994, trú tại thôn Thôn 3, xã M1, huyện C, tỉnh H4 đang ở nhà mẹ tại tổ dân phố X, thị trấn L1, huyện L1, tỉnh H4 sử dụng tài khoản facebook “Hạnh phúc bên em N” nhắn tin cho facebook “Nguyễn Tấn T7”(do G sử dụng) hỏi các thông tin, điều kiện để vay 140.000.000đ. G giới thiệu là nhân viên tư vấn khoản vay và gửi các hình ảnh, thông tin giả mạo về lãi suất cho N tin tưởng rồi yêu cầu N gửi ảnh chụp chứng minh nhân dân để làm hồ sơ. Cùng thời điểm này, G liên lạc với Nguyễn Văn C2 (sinh năm 1997, trú tại tổ T3, phường H, thị xã H1, tỉnh T) để hỏi tìm người có số tài khoản ngân hàng nhận chuyển tiền. C2 giới thiệu một người sử dụng tài khoản zalo “Văn Long” mà C2 làm quen qua zalo. Sau khi có tài khoản, G nhắn tin cho zalo “Văn Long” hỏi “Có tài khoản chuyển tiền không?” thì người này nói “Có” rồi gửi cho G số tài khoản ngân hàng Agribank 3603205484266, chủ tài khoản Trần Thị M3 (sinh năm 2000, trú tại Thôn 5, xã X, huyện Đ, tỉnh N2) và tính phí giao dịch 10%. Có được số tài khoản để nhận tiền G bắt đầu thực hiện hành vi phạm tội cụ thể như sau:

Lần thứ nhất: Ngày 20/02/2021, G nhắn tin yêu cầu N gửi “phí bảo hiểm khoản vay” là 5% số tiền vay, tương ứng 7.000.000đ vào số tài khoản Agribank 3603205484266. N tin tưởng nên đã nhờ em trai là Nguyễn Tuấn H5, sinh năm 1997, trú tại thôn Đ, xã T3, huyện T4, tỉnh H4 sử dụng dịch vụ Internet Banking chuyển 7.000.000đ vào số tài khoản trên rồi gửi biên lai điện tử cho G. G chụp biên lai chuyển tiền gửi cho người sử dụng zalo “Văn Long” nhưng được người này trả lời số tài khoản này đã mất không giao dịch được nữa nên số tiền 7.000.000đ G lừa chị N vẫn ở trong tài khoản.

Lần thứ hai: Sáng ngày 21/02/2021, G đến quán Internet của Nguyễn Thành N1 (sinh năm 1994, trú tại thôn M2, xã H4, thị xã H1, tỉnh T) hỏi N1 biết ai có tài khoản nhận tiền không. Lúc này, Nguyễn Hồng P1 đang ngồi chơi ở quán Internet nên đưa số điện thoại 0582783247 cho N1 để N1 đưa cho G rồi nói nhắn vào zalo để hỏi. G sử dụng tài khoản zalo “G Nguyễn” nhắn tin cho tài khoản zalo “Nguyễn Hoàng N2” (do P1 sử dụng) hỏi P1 “Có nhận build chuyển khoản không?”, ý là nhận biên lai chuyển tiền do G lừa đảo không? P1 hiểu ý G đang lừa đảo người khác và cần người giúp hợp thức hóa nguồn tiền nên nói “Có” và đưa ra giá 15% số tiền nhận chuyển khoản. G đồng ý nên P1 gửi cho G số tài khoản ngân hàng Techcombank 19036632914011, chủ tài khoản Nguyễn Hoàng N2. Sau đó, G yêu cầu chị N phải chuyển 9.356.000đ “phí kích hoạt tài khoản” vào số tài khoản mà P1 cung cấp để nhận được khoản vay. N đồng ý và chuyển số tiền này vào số tài khoản trên rồi chụp biên lai gửi cho G rồi G gửi qua zalo cho P1.

Lần thứ ba: Sáng ngày 23/02/2021, chị N vẫn chưa nhận được tiền nên tiếp tục nhắn tin hỏi thì G nói hồ sơ duyệt xong đã chuyển xuống kế toán. Sau đó, G sử dụng số điện thoại 0937.372.803 lập một tài khoản zalo có tên “Kế toán trưởng Hdsaison” và gửi số điện thoại này cho N nói liên lạc với kế toán để nhận tiền. N nhắn tin vào tài khoản zalo trên hỏi thì G nói hồ sơ đã xong và phải chuyển 12.850.000đ tiền lãi và gốc một tháng vào số tài khoản ngân hàng Techcombank trên. N đồng ý và gửi tiền rồi chụp biên lai gửi cho G. Khi nhận được biên lai chuyển tiền G tiếp tục gửi cho P1. Số tiền chiếm đoạt được ở hai lần này G nói P1 chuyển cho Nguyễn Thành N1 để trả nợ. Vì vậy, P1 đã dùng số tiền trên mua các vật phẩm game Phong Thần của Phạm Văn H6 (sinh năm 2000, trú tại thôn 4, huyện Y- N3 - T8) và chuyển các vật phẩm tương đương với số tiền G được nhận sang cho Nguyễn Thành N1 là (22.206x85% = 18.875.100đ) và N1 đã bán lấy tiền tiêu xài cá nhân hết. Số vật phẩm game trị giá 15% còn lại (22.205.000x15% = 3.330.900đ) Nguyễn Hồng P1 bán tiêu xài cá nhân hết. Sau khi thực hiện hành vi lừa đảo chiếm được số tiền trên của chị N, G chặn facebook, zalo của chị N và xóa tài khoản facebook giả mạo nhằm lẩn tránh việc liên lạc của chị N và tránh sự phát hiện của cơ quan chức năng.

Quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lộc Hà đã thu giữ các tang vật như sau:

- 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu xanh đen, có số IMEI 1: 356853072043625, IMEI 2: 356853072043633, máy cũ đã qua sử dụng. (Thu của G);

- 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6Plus, màu đồng, có số IMEI: 359245068769999, mãy cũ đã qua sử dụng. (Thu của G);

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an CA thị xã Hương Trà đang tạm giữ để xử lý trong vụ án khác:

- 01 thẻ ATM của ngân hàng Techcombank, mang tên “Nguyễn Hoàng N2”, số thẻ 9704079964210136 được dán bằng băng keo kèm theo một khung sim của mạng Vietnammobile không có chứa thẻ sim, trên khung sim có ghi “Tech Nam, Tên ĐN: SĐT, MK: @Hn13579”. (Thu của N1);

- 01 thẻ sim của mạng Vietnammibile có số seri “89840509201255686688”, số thuê bao 058.278.3247. (Thu của N1);

Đã trả lại cho người bị hại: Tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam 7.000.000đ. (Trong tài khoản của M3).

Về trách nhiệm dân sự: Các bị cáo Nguyễn Khắc G và Nguyễn Hồng P1 đã tác động với gia đình bồi thường đầy đủ cho người bị hại, người bị hại không có yêu cầu gì thêm.

Lời khai của các bị cáo Nguyễn Khắc G và Nguyễn Hồng P1 tại phiên tòa hôm nay phù hợp với các tài liệu, chứng cứ do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh thu thập trong quá trình điều tra vụ án.

Bản cáo trạng số 20/CT-VKSLH ngày 30/6/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh đã truy tố các bị cáo Nguyễn Khắc G và Nguyễn Hồng P1 về tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" theo quy định tại khoản 1 Điều 174 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lộc Hà giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Hành vi của các bị cáo Nguyễn Khắc G và Nguyễn Hồng P1 có đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo Nguyễn Khắc G và Nguyễn Hồng P1 về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm b, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS, xử phạt bị cáo Nguyễn Khắc G mức án từ 10 tháng đến 12 tháng tù; áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm b, điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS, xử phạt bị cáo Nguyễn Hồng P1 mức án từ 08 tháng đến 10 tháng tù.

Lời nói sau cùng của các bị cáo Nguyễn Khắc G và Nguyễn Hồng P1: Các bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật; các bị cáo rất ăn năn, hối cải; các bị cáo xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt. Các bị cáo xin hứa từ nay về sau sẽ tự rèn luyện bản thân, không vi phạm pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh, Điều tra viên, Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của . Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Về Nội dung vụ án: Xét lời khai của các bị cáo Nguyễn Khắc G và Nguyễn Hồng P1 trước phiên tòa hôm nay là hoàn toàn phù hợp với lời khai người bị hại; lời khai người làm chứng và lời khai những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các chứng cứ, tài liệu khác có tại hồ sơ do cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh thu thập trong quá trình khởi tố, điều tra vụ án. Do đó HĐXX đã có đủ chứng cứ để kết luận:

Trong khoảng thời gian từ ngày 20/02/2021 đến ngày 23/02/2021, tại thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế; bằng thủ đoạn gian dối thông qua hình thức cho vay vốn trên fakebook, Nguyễn Khắc G đã lập tài khoản fakebook và zalo giả mạo nhân viên công ty cho vay tài chính và câu kết với Nguyễn Hồng P1 là người có tài khoản ngân hàng để nhận tiền lừa đảo của chị Nguyễn Thị N. Nguyễn Khắc G đã ba lần thực hiện hành vi phạm tội với số tiền là 29.206.000đ, trong đó, Nguyễn Hồng P1 hai lần cùng thực hiện với vai trò giúp sức cho G chiếm đoạt số tiền là 22.206.000đ.

Hành vi của các bị cáo Nguyễn Khắc G và Nguyễn Hồng P1 đã phạm vào tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định Điều 174 BLHS.

Do đó Viện kiểm sát nhân dân huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh truy tố các bị cáo Nguyễn Khắc G và Nguyễn Hồng P1 về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 BLHS là đúng người, đúng tội, đúng chính sách Pháp luật.

Khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự quy định như sau: “Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng…, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

Xét tính chất vụ án, HĐXX xét thấy đây là vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, với số lượng tươmg đối lớn, vụ án xẩy ra gây dư luận không tốt trong quần chúng nhân dân, ảnh hưởng đến an ninh trật tự tại địa phương.

Đánh giá vai trò từng bị cáo trong vụ án thì Nguyễn Khắc G giữ vai trò là người chủ mưu, bị cáo Nguyễn Hồng P1 giữ vai trò là người giúp sức tích cực cho bị cáo G trong việc Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì các bị cáo Nguyễn Khắc G và Nguyễn Hồng P1 thực hiện hành vi phạm tội nhiều lần, đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội 02 lần trở lên”, được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS.

Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì các bị cáo Nguyễn Khắc G và Nguyễn Hồng P1 được hưởng tình tiết giảm nhẹ TNHS: “Thành khẩn khai báo”, “Ăn năn hối cải” đây là hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đều được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS; các bị cáo Nguyễn Khắc G và Nguyễn Hồng P1 đã tác động với gia đình để bồi thường toàn bộ thiệt hại cho người bị hại, do đó các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ TNHS: “Tự nguyện bồi thường thiệt hại”, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 BLHS. Ngoài ra, người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Nguyễn Khắc G, đây là tình tiết giảm nhẹ TNHS theo quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS cần áp dụng cho các bị cáo Nguyễn Khắc G.

Xét về nhân thân thì các bị cáo Nguyễn Khắc G có nhân thân tốt, trước khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo không có tiền án, tiền sự. Bị cáo Nguyễn Hồng P1 đã bị Công an xã Hương Vinh, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt vi phạm hành chính bằng hình phạt tiền về hành vi Gây rối trật tự công cộng.

Sau khi xem xét đánh giá hành vi, hậu quả, động cơ, mục đích phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân bị cáo và tính chất nghiêm trọng của vụ án, HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 174 BLHS xử phạt các bị cáo mức hình phạt đủ nghiêm, tương xứng với hành vi phạm tội đồng thời cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để các bị cáo rèn luyện bản thân có ý thức tôn trọng pháp luật, trở thành công dân lương thiện, đồng thời có tác dụng răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung.

Trong vụ án này, Nguyễn Thành N1, sinh năm 1994, trú tại thôn M2, xã H4, thị xã H1, tỉnh T là người đã giới thiệu Nguyễn Hồng P1 cho bị cáo Nguyễn Khắc G. Tuy nhiên, quá trình trao đổi với nhau G và P1 không nói cho N1 biết về việc cả hai đang có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản và N1 cũng không biết việc này. Đối với Nguyễn Văn C2 (sinh năm 1997, trú tại tổ T3, phường H, thị xã H1, tỉnh T là người đã giới thiệu người sử dụng zalo “Văn Long” cho bị cáo Nguyễn Khắc G. Tuy nhiên, quá trình trao đổi G không nói việc đang lừa đảo chiếm đoạt tài sản cho nên C2 không biết việc này. Vì vậy, không xem xét trách nhiệm đối với Nguyễn Văn C2 và Nguyễn Thành N1 là có căn cứ.

Đối với người sử dụng zalo “Văn Long” Nguyễn Văn C2 và Nguyễn Khắc G chỉ liên lạc qua zalo, không biết người này là ai, ở đâu và các nội dung tin nhắn, tài khoản zalo “Văn Long” đã bị xóa nên quá trình điều tra không đủ căn cứ để xác định người này là ai, ở đâu nên không có cơ sở xem xét.

Đối với Phạm Văn H6 (sinh năm 2000, trú tại thôn 4, huyện Y- N3 - T8) là người mà Nguyễn Hồng P1 sử dụng số tiền lừa được của người bị hại giao dịch mua bán vật phẩm game Phong Thần. Quá trình điều tra bị cáo Nguyễn Hồng P1 khai nhận chỉ tiến hành mua bán vật phẩm game Phong Thần với Phạm Văn H6 và không trao đổi về việc sử dụng số tiền do lừa đảo mà có để mua vật phẩm game. Vì vậy, quá trình điều tra chưa đủ căn cứ để xem xét trách nhiệm đối với Phạm Văn H6.

Đối với Trần Thị M3 (sinh năm 2000, trú tại Thôn 5, xã X, huyện Đ, tỉnh N1) là chủ tài khoản ngân hàng Agribank 3603205484266. Quá trình điều tra xác định chị M3 không sử dụng số tài khoản trên mà do một người không quen biết trên mạng xã hội facebook nhờ lập theo số điện thoại đăng ký dịch vụ Internet Banking mà người này yêu cầu và cung cấp thông tin tài khoản ngân hàng này cho họ. Vì vậy, không xem xét trách nhiệm đối với Trần Thị M3 là có căn cứ.

Đối với Nguyễn Hoàng N3, sinh năm 2000, trú tại phường Tổ 4B, Khu 1, phường N4, thành phố V, tỉnh P1 là chủ tài khoản ngân hàng Techcombank 19036632914011. Tuy nhiên, quá trình điều tra xác định anh N2 không sử dụng tài khoản ngân hàng trên mà do một người không quen biết nhờ anh N2 lập và đưa cho họ. Nguyễn Hoàng N3 không biết người này là ai, ở đâu và cũng không quen biết đối với bị cáo Nguyễn Hồng P1. Vì vậy, không xem xét trách nhiệm đối với Nguyễn Hoàng N3 là có căn cứ.

Về xử lý vật chứng: Ngoài số vật chứng Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lộc Hà đã giải quyết theo thẩm quyền, hiện nay còn có:

- 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu xanh đen, có số IMEI 1: 356853072043625, IMEI 2: 356853072043633, máy cũ đã qua sử dụng (Thu của G);

- 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6Plus, màu đồng, có số IMEI: 359245068769999, mãy cũ đã qua sử dụng (Thu của G);

HĐXX xét thấy đây là công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội, do đó áp dụng điểm a khoản 1 điều 47 BLHS và điểm a khoản 2 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên tịch thu, sung quỹ nhà nước.

Đối với các vật chứng còn lại:

- 01 thẻ ATM của ngân hàng Techcombank, mang tên “Nguyễn Hoàng N1”, số thẻ 9704079964210136 được dán bằng băng keo kèm theo một khung sim của mạng Vietnammobile không có chứa thẻ sim, trên khung sim có ghi “Tech Nam, Tên ĐN: SĐT, MK: @Hn13579” (Thu của N1);

- 01 thẻ sim của mạng Vietnammibile có số seri “89840509201255686688”, số thuê bao 058.278.3247 (Thu của N1);

Hiện nay Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an CA thị xã Hương Trà đang tạm giữ để xử lý trong vụ án khác, do đó sẽ được xử lý khi xét xử vụ án đó.

Về án phí: Các bị cáo phải nộp án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Khắc G và Nguyễn Hồng P1 phạm tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản".

Áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm b, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS, xử phạt bị cáo Nguyễn Khắc G: 10 (Mười) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 30/4/2021.

Áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm b, điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS, xử phạt bị cáo Nguyễn Hồng P1: 08 (Tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào trại giam thi hành án.

Thời gian tạm giữ, tạm giam của bị cáo Nguyễn Hồng P1 từ ngày 29/4/2021 đến ngày 26/7/2021, tại Nhà Tạm giữ Công an thị xã Hương Trà sẽ được khấu trừ khi bị cáo bị xét xử tại vụ án đã bị tạm giữ, tạm giam.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 BLHS và điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 BLTTHS, tuyên xử:

+ Tịch thu, sung quỹ nhà nước:

- 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu xanh đen, có số IMEI 1: 356853072043625, IMEI 2: 356853072043633, máy cũ đã qua sử dụng. (Thu của Nguyễn Khắc G);

- 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6Plus, màu đồng, có số IMEI: 359245068769999, mãy cũ đã qua sử dụng. (Thu của Nguyễn Khắc G);

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 BLTTHS; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH và danh mục mức án phí, lệ phí toà án ban hành kèm theo, xử buộc: Các bị cáo Nguyễn Khắc G và Nguyễn Hồng P1 mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí HSST.

Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án này lên Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh để xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kêt từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày niêm yết công khai ./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

632
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 29/2021/HSST

Số hiệu:29/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lộc Hà - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:21/10/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về