Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 28/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐƠN DƯƠNG, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 28/2023/HS-ST NGÀY 24/05/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 24/5/2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đơn Dương, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 28/2023/HSST ngày 05/5/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/2023/QĐXXST-HS ngày 09/5/2023, đối với bị cáo:

Họ và tên: Tào Văn H; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh ngày: 06/12/1992 tại Thanh Hóa; Hộ khẩu thường trú: Thôn Tam Liên, xã Đ, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa; Nơi ở hiện tại: Tổ dân phố Nghĩa Thị, thị trấn T, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Thợ xây; Trình độ học vấn: 06/12; Con ông Tào Văn K, sinh năm 1968 và con bà Hà Thị Ph, sinh năm 1973, nghề nghiệp: làm ruộng. Hiện đang sinh sống tại thôn Tam Liên, xã Đ, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa; Gia đình bị cáo có 03 anh em, bị cáo là con lớn nhất trong gia đình, nhỏ nhất sinh năm 1999; Vợ: Trần Nguyễn Như P, sinh năm: 1990; Con có 02 con, lớn sinh năm 2017, nhỏ sinh năm 2022. Hiện nay vợ con đang ở tại Tổ dân phố Nghĩa Thị, thị trấn T, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Bản án số 18/2018/HSST ngày 21/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Như Thanh, tỉnh Thanh Hóa xử phạt Tào Văn H 08 tháng tù về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. H đã chấp hành xong hình phạt vào ngày 14/9/2019.

Bị bắt tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Đơn Dương từ ngày 07/11/2022 đến nay. Có mặt.

- Bị hại:

1. Bà Trần Thị P, sinh năm 1981; Hộ khẩu thường trú: Số 16/13, thôn Phú Thạnh, xã Hiệp Thạnh, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt.

2. Chị Nguyễn Thị Ngọc M, sinh năm 1999; Hộ khẩu thường trú: thôn Kinh tế mới Châu Sơn, xã Lạc X, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.

3. Chị Nguyễn Thị Diễm M, sinh năm 1992; Hộ khẩu thường trú: tổ dân phố Nghĩa Lập 5, thị trấn T, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.

4. Chị Đậu Thị D, sinh năm 1990; Hộ khẩu thường trú: xã Bình An, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh; Nơi ở hiện tại: thôn Suối Thông A2, xã Đ, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.

5. Anh Ngô Đức T, sinh năm 1992; Hộ khẩu thường trú: thôn K’Long A, xã Hiệp An, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.

6. Ông Đỗ Phú Đ, sinh năm 1976; Hộ khẩu thường trú: thôn Quảng Thuận, xã Q, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.

7. Chị Vũ Ngọc Kim L, sinh năm 1989; Hộ khẩu thường trú: Số 86, Tổ 2, thôn Hải Dương, xã L, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Khánh D, sinh năm 1997; Hộ khẩu thường trú: ấp Hòa Hải, xã T, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau. Vắng mặt.

- Người làm chứng: Ông Mai Văn T, sinh năm 1983; Hộ khẩu thường trú: thôn Phúc Tân, xã Phúc Thọ, huyện Lâm Hà, Lâm Đồng; Nơi ở hiện tại: Số 18 Nguyễn Công Trứ, thị trấn Liên Nghĩa, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trước đó, khi đi vào xã Ka Đơn, huyện Đơn Dương để đi làm, Tào Văn H nhìn thấy vườn rau cần diện tích khoảng 4000m2 ở thôn Suối Thông C2 - Tu Tra - Đơn Dương đã đến thời kỳ thu hoạch. Đây là vườn rau của ông Lê Văn Sơn, trú tại: Thôn Sao Mai, xã Ka Đơn, huyện Đơn Dương. Lúc này, do thiếu tiền tiêu xài cá nhân nên H nảy sinh ý định tìm những người có nhu cầu mua rau màu đến xem vườn rau rồi nói là vườn rau của mình để bán cho họ và yêu cầu chuyển tiền qua tài khoản để chiếm đoạt tài sản. Thực hiện ý định trên H sử dụng điện thoại di động thông minh hiệu Vivo để lên mạng xã hội facebook qua hội mua bán nông sản tìm kiếm những người có nhu cầu cần mua. Khoảng 07h00 ngày 06/11/2022, Tào Văn H sử dụng số điện thoại 0946.056.275 gọi điện cho bà Trần Thị P, trú tại: Thôn Phú Thạnh, xã Hiệp Thạnh, huyện Đ để bán vườn rau cần tây ở thôn. Đến ngày 07/11/2022, H hướng dẫn cho bà Phương xem vườn rau, bà Phương xem vườn cần và thống nhất mua với giá 15.000.000đ. Bà Phương đặt cọc trước cho H số tiền là 10.000.000đ và hẹn H đến trước chợ Quảng Lập, Đơn Dương để nhận tiền cọc. Lúc này bà Phương đưa số tiền 10.000.000đ cho ông Mai Văn T, trú tại: Thôn Phúc Tân, xã Phúc Thị, huyện Lâm Hà, là người làm thuê cho bà Phương để giao tiền cho H. Khi H đang nhận tiền từ ông Thắng thì bị công an bắt quả tang và thu giữ số tiền 10.000.000đ cùng điện thoại di động.

Quá trình điều tra Tào Văn H còn khai nhận từ tháng 9/2022 đến tháng 10/2022 với phương thức thủ đoạn như trên, H đã thực hiện thêm 07 vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn huyện Đơn Dương, cụ thể:

Vụ thứ nhất: Vào ngày 26/9/2022, Tào Văn H sử dụng sim rác số 0876.513.957 liên hệ chị Nguyễn Thị Ngọc M, trú tại: Thôn Kinh tế mới, xã Châu Sơn, huyện Đơn Dương để bán vườn xà lách diện tích khoảng 4000m2 tại đoạn đường Nguyễn Văn Trỗi, thị trấn T, huyện Đơn Dương, là vườn rau của ông Ya Tú, trú tại: tổ dân phố M’Lọn, thị trấn T, huyện Đơn Dương. Sau khi đi xem vườn xà lách do H chỉ đường, chị Mai đồng ý mua vườn rau với giá 24.000.000đ và đồng ý đặt cọc trước số tiền 15.000.000đ. H sử dụng dịch vụ chuyển, nhận tiền nhanh ở gần chợ Tu Tra, Đơn Dương và yêu cầu chị Mai chuyển tiền cọc vào tài khoản tài khoản số 108873084963 ngân hàng Viettinbank, tên chủ tài khoản Nguyễn Hoàng Ngọc, trú tại: thôn Lạc Thạnh, xã Tu Tra, huyện Đơn Dương. Chị Mai đồng ý và sử dụng tài khoản của mình số 5405205326101 tại ngân hàng Agribank chuyển tiền trước cho H 15.000.000đ vào số tài khoản mà H gửi. Sau đó H nhận tiền mặt, trả tiền phí dịch vụ 50.000đ.

Vụ thứ hai: Vào ngày 28/9/2022, Tào Văn H sử dụng sim rác số 0876.513.957 liên hệ với chị Nguyễn Thị Diễm M, trú tại: tổ dân phố Nghĩa Lập 5, thị trấn T, huyện Đơn Dương để bán vườn cải thảo diện tích khoảng 6.300m2 gần cầu ông Thiều, thôn Suối Thông C2, xã Tu Tra, huyện Đơn Dương, là vườn rau của ông Hồ Đại Dương, trú tại thôn Suối Thông C2, xã Tu Tra, Đơn Dương. Sau khi đi xem vườn cải thảo do H chỉ đường, chị My đồng ý mua vườn cải thảo với giá 20.000.000đ và đồng ý đặt cọc trước số tiền 15.000.000đ. H sử dụng dịch vụ chuyển, nhận tiền nhanh ở gần nhà thờ L, Đơn Dương và yêu cầu chị My chuyển tiền cọc vào tài khoản số 5556667777888 ngân hàng MBbank, tên chủ tài khoản Nguyễn Minh Tuấn, trú tại: Thôn Quỳnh Châu Đông, thị trấn T, huyện Đơn Dương. Chị My đồng ý và sử dụng tài khoản của mình số 5405205195893 tại ngân hàng Agribank chuyển tiền trước cho H 15.000.000đ vào số tài khoản mà H gửi. Sau đó H nhận tiền mặt, trả tiền phí dịch vụ 25.000đ.

Vụ thứ ba: Vào ngày 01/10/2022, Tào Văn H sử dụng số điện thoại 0876.513.957 liên hệ với chị Đậu Thị D, trú tại: Thôn Suối Thông A2, xã Đ, huyện Đơn Dương để bán vườn hành lá diện tích khoảng hơn 2000m2 tại đoạn đường nhựa nối liền với đường Nguyễn Văn Trỗi, thị trấn T, huyện Đơn Dương, là vườn rau của bà Nguyễn Thị Phương Anh, trú tại: tổ dân phố Nghĩa Thị, thị trấn T, huyện Đơn Dương. Sau khi đi xem vườn hành do H chỉ đường, chị Duân đồng ý mua với giá 15.000.000đ và đồng ý đặt cọc trước số tiền 12.000.000đ. H sử dụng dịch vụ chuyển, nhận tiền nhanh ở xã Tu Tra, Đơn Dương và yêu cầu chị Duân chuyển tiền cọc vào tài khoản số 108873602531 ngân hàng Viettinbank, tên chủ tài khoản Nguyễn Mai Quân, trú tại: Thôn Kinh tế mới, xã Tu Tra, huyện Đơn Dương. Chị Duân đồng ý và sử dụng số tài khoản của mình số 5405205326101 tại ngân hàng Agribank chuyển tiền trước cho H 12.000.000đ vào số tài khoản mà H gửi. Sau đó H nhận tiền mặt và trả tiền phí dịch vụ 50.000đ. Sim điện thoại H tháo ra vứt trên đường khu vực xã Tu Tra.

Vụ thứ tư: Vào ngày 07/10/2022, Tào Văn H sử dụng số điện thoại 0867.047.681 liên hệ với anh Ngô Đức T, trú tại: xã Hiệp An, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng để bán vườn cần tây diện tích khoảng 1000m2 tại đoạn đường Nguyễn Văn Trỗi, thị trấn T, huyện Đơn Dương (gần khu vực gần nhà máy cấp nước huyện Đơn Dương), là vườn rau của ông Ya Tú, trú tại: tổ dân phố M’Lọn, thị trấn T, huyện Đơn Dương. Sau khi đi xem vườn cần tây do H chỉ đường, anh Thắng đồng ý mua với giá 10.000.000đ và đồng ý đặt cọc trước số tiền 8.000.000đ. H yêu cầu anh Ngô Đức T chuyển tiền cọc vào tài khoản số 4702205304319 ngân hàng Agribank, tên chủ tài khoản Nguyễn Khánh D, HKTT: Ấp Hòa Hải, xã Tân Thuận, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau (Duy là bạn quen biết của H). Anh Thắng đồng ý và sử dụng số tài khoản của mình số 5405205326101 tại ngân hàng Agribank chuyển tiền trước cho H 8.000.000đ vào số tài khoản mà H gửi. Sau đó H yêu cầu Duy chuyển lại tiền cho mình vào tài khoản số 4702205304319 ngân hàng agribank, tên chủ tài khoản Nguyễn Thị Bích Liễu, là dịch chuyển tiền nhanh ở thị trấn T. Sau đó H nhận tiền mặt, trả tiền phí dịch vụ 20.000đ, rồi vứt sim điện thoại số 0867.047.681 ở ven đường thị trấn T.

Vụ thứ năm: Vào ngày 21/10/2022, Tào Văn H sử dụng số điện thoại 0556.141.797 liên hệ với ông Đỗ Phú Đ, trú tại: Thôn Quảng Thuận, xã Quảng Lập, huyện Đơn Dương để bán vườn bắp sú diện tích khoảng 1500m2 ở đường Nguyễn Văn Linh, tổ dân phố Thạnh Nghĩa, thị trấn T, Đơn Dương, là vườn rau của ông Nguyễn Văn Tuấn. Sau khi đi xem vườn bắp sú do H chỉ đường, ông Đông đồng ý mua với giá 20.000.000đ và trả trước số tiền 15.000.000đ. H yêu cầu ông Đỗ Phú Đ chuyển tiền cọc vào tài khoản số 4702205304319 ngân hàng Agribank, tên chủ tài khoản Nguyễn Khánh D. Ông Đông đồng ý và sử dụng số tài khoản của mình số 5405205108071 tại ngân hàng Agribank chuyển tiền trước cho H 02 lần, lần 1 là 13.000.000đ, lần 2 là 2.000.000đ (tổng là 15.000.000đ) vào số tài khoản mà H gửi. Sau đó H sử dụng số điện thoại 0946.056.275 gọi điện cho Duy nói Duy chuyển lại tiền cho mình vào tài khoản số 444444444495, ngân hàng MBbank, chủ tài khoản Nguyễn Hữu Minh Thái, trú tại: Phường 6, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, là chủ dịch vụ nhận, chuyển tiền tại thị trấn T. Sau đó H nhận tiền mặt và trả tiền phí dịch vụ.

Vụ thứ sáu: Vào ngày 28/10/2022, Tào Văn H sử dụng số điện thoại 0814.779.200 xưng là Duy liên hệ với chị Vũ Ngọc Kim L, trú tại: Thôn Hải Dương, xã L, huyện Đơn Dương để bán vườn xà lách diện tích khoảng 3000m2 thuộc tổ dân phố Thạnh Nghĩa, thị trấn T, huyện Đơn Dương, là vườn rau của bà Nguyễn Thị Ngọc. Sau khi đi xem vườn xà lách do H chỉ đường, chị Lương đồng ý mua với giá 8.000.000đ/1 sào (tổng là 24.000.000đ) và đồng ý đặt cọc trước số tiền 20.000.000đ. H yêu cầu chị Lương chuyển tiền cọc vào tài khoản số 4702205304319 ngân hàng Agribank, tên chủ tài khoản Nguyễn Khánh D. Chị Lương đồng ý và sử dụng số tài khoản của mình số 64110000981666 tại ngân hàng Viettinbank chuyển tiền trước cho H 20.000.000đ vào số tài khoản mà H gửi. Sau đó H sử dụng số điện thoại 0946.056.275 gọi điện cho Duy nói Duy chuyển lại cho mình số tiền 19.500.000đ vào tài khoản số 54052053008218, ngân hàng Agribank, chủ tài khoản Nguyen Văn Bảo, làm dịch vụ chuyển tiền nhanh tại thị trấn T. Sau đó H nhận tiền mặt và trả tiền phí dịch vụ.

Vụ thứ bảy: Đến sáng ngày 29/10/2022, Tào Văn H sử dụng số điện thoại 0814.779.200 tiếp tục liên hệ với chị Vũ Ngọc Kim L nói là có vườn vườn xà lách diện tích khoảng 3000m2 cạnh vườn xà lách H đã bán cho chị Lương vào ngày 28/10/2022. Sau khi đi xem vườn xà lách, chị Lương đồng ý mua với giá 7.000.000đ/1 sào và đồng ý đặt cọc số tiền 15.000.000đ. Chị Lương sử dụng số tài khoản của mình số 64110000981666 tại ngân hàng Viettinbank và chuyển tiền đặt cọc 15.000.000đ vào tài khoản số 4702205304319 ngân hàng Agribank, tên chủ tài khoản Nguyễn Khánh D. Sau đó H sử dụng số điện thoại 0946.056.275 gọi điện cho Duy nói Duy chuyển lại cho mình số tiền 14.500.000đ vào tài khoản số 9901501789, ngân hàng Vietcombank, chủ tài khoản Nguyễn Văn Bảo, làm dịch vụ chuyển tiền nhanh tại thị trấn T. Sau đó H nhận tiền mặt và trả tiền phí dịch vụ.

Như vậy, tổng số tiền mà Tào Văn H đã chiếm đoạt là 110.000.000đ. Sau khi chiếm đoạt số tiền trên H đã sử dụng vào mục đích tiêu xài cá nhân.

Cáo trạng số 29/CT-VKS-ĐD ngày 04/5/2023, Viện kiểm sát nhân dân duyện Đơn Dương truy tố bị can Tào Văn H về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên bản cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Tào Văn H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Tào Văn H từ 04 đến 05 năm tù. Buộc bị cáo bồi thường cho những người bị hại số tiền đã chiếm đoạt. Tịch thu sung ngân sách nhà nước 02 điện thoại di động của bị cáo đã dùng vào việc phạm tội.

Bị cáo không khiếu nại bản cáo trạng, khai nhận: khi đi vào xã Ka Đơn, huyện Đơn Dương để đi làm, bị cáo Tào Văn H nhìn thấy vườn rau cần diện tích khoảng 4000m2 ở thôn Suối Thông C2 - Tu Tra - Đơn Dương đã đến thời kỳ thu hoạch. Lúc này, do thiếu tiền tiêu xài cá nhân nên H nảy sinh ý định tìm những người có nhu cầu mua rau màu đến xem vườn rau rồi nói là vườn rau của mình để bán cho họ và yêu cầu chuyển tiền qua tài khoản để chiếm đoạt tài sản. H sử dụng điện thoại di động thông minh lên mạng xã hội facebook qua hội mua bán nông sản tìm kiếm những người có nhu cầu cần mua. Khoảng 07h00 ngày 06/11/2022, bị cáo sử dụng số điện thoại 0946.056.275 gọi điện cho bà Trần Thị P để bán vườn rau cần tây. Đến ngày 07/11/2022, bị cáo H hướng dẫn cho bà Phương xem vườn rau, bà Phương xem vườn rau cần và thống nhất mua với giá 15.000.000đ. Bà Phương đặt cọc trước cho H số tiền là 10.000.000đ và hẹn H đến trước chợ Quảng Lập, Đơn Dương để nhận tiền cọc. Khi H đang nhận tiền từ ông Thắng thì bị công an bắt quả tang và thu giữ số tiền 10.000.000đ cùng điện thoại di động.

Ngoài ra, với cách thức như trên, từ cuối tháng 9/2022 đến đầu tháng 11/2022, bị cáo Tào Văn H đã 07 lần có hành vi dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác như cáo trạng nêu. Toàn bộ số tiền chiếm đoạt bị cáo đã tiêu xài hết.

Bị cáo không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát. Xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đơn Dương, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đơn Dương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội: Do không có tiền tiêu xài nên từ cuối tháng 9/2022 đến đầu tháng 11/2022, Tào Văn H đã có hành vi dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác. Bị cáo đã thực hiện tổng số 08 vụ lừa đảo với tổng số tiền là 110.000.000đ là vi phạm pháp luật.

Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra, lời khai bị hại, người làm chứng, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, đã có đủ cơ sở kết luận: Hành vi dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị 110.000.000đ của Tào Văn H nêu trên đã phạm vào tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 174 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Đơn Dương đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Đánh giá tính chất vụ án: Xét tính chất, mức độ do hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý, bị cáo tìm kiếm các vườn rau củ quả đến kỳ thu hoạch sau đó lên mạng xã hội facebook qua hội mua bán nông sản tìm kiếm những người có nhu cầu cần mua. Bị cáo sử dụng sim rác gọi điện và hướng dẫn người mua đến nơi trồng để xem, nói dối là của mình, thỏa thuận giá cả rồi yêu cầu người mua chuyển khoản qua số tài khoản của những người làm dịch vụ chuyển, nhận tiền nhanh hoặc qua số tài khoản của người quen biết để chiếm đoạt số tiền trên sử dụng tiêu xài cá nhân. Bị cáo đã nhiều lần thực hiện trót lọt cùng một hành vi lừa đảo. Gây hoang mang, bức xúc trong nhân dân.

[4] Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

Tình tiết tăng nặng: Bị cáo phạm tội 02 lần trở lên nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ cho bị cáo.

[5] Về quyết định hình phạt: Bị cáo thực hiện với lỗi cố ý, thực hiện nhiều lần, số tiền chiếm đoạt tương đối lớn. Bị cáo đã từng bị xét xử về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” nhưng không lấy đó làm bài học mà tiếp tục phạm tội. Vì vậy, cần phải xử phạt bị cáo mức án tương xứng với hành vi phạm tội, cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo có thời gian cải tạo, đồng thời nhằm đảm bảo đấu tranh và phòng ngừa chung.

[6] Về vật chứng: Quá trình điều tra Cơ quan điều tra thu giữ:

Số tiền 10.000.000đ, đây là số tiền bị cáo Tào Văn H lừa đảo để lấy của bà Trần Thị P. Cơ quan CSĐT công an huyện Đơn Dương đã trả lại cho bà Trần Thị P số tiền 10.000.000đ.

Số tiền 1.000.000đ thu của Nguyễn Khánh D. Đây là số tiền H lừa lấy của chị Vũ Ngọc Kim L, sau đó cho Duy. Cơ quan CSĐT công an huyện Đơn Dương đã trả lại cho chị Vũ Ngọc Kim L số tiền 1.000.000đ.

01 điện thoại di dộng hiệu Vivo màu bạc, 01 điện thoại di động hiệu Nokia 105 màu đen bên trong có gắn sim số 0946.056.275 và số 0975.559.740. Đây là phương tiện liên quan đến việc lừa đảo chiếm đoạt tài sản nên cần tịch thu sung ngân sách nhà nước.

[7] Về trách nhiệm dân sự:

Bà Trần Thị P đã nhận lại đủ số tiền nay không có yêu cầu gì thêm.

Chị Nguyễn Thị Ngọc M yêu cầu bồi thường số tiền 15.000.000đ; Chị Nguyễn Thị Diễm M yêu cầu bồi thường số tiền 15.000.000đ; Chị Đậu Thị D yêu cầu bồi thường số tiền 12.000.0000đ; Anh Ngô Đức T yêu cầu bồi thường số tiền 8.000.000đ; Ông Đỗ Phú Đ yêu cầu bồi thường số tiền 15.000.000đ; Chị Vũ Ngọc Kim L yêu cầu bồi thường 34.000.000đ. Nên cần buộc bị cáo bồi thường.

[8] Đối với Nguyễn Khánh D, quá trình điều tra xác định Duy không biết số tiền mà H nhờ Duy nhận và chuyển lại là do H lừa đảo mà có nên không đề cập đến.

Đối với Nguyễn Hoàng Ngọc, Nguyễn Minh Tuấn, Nguyễn Mai Quân, Nguyễn Thị Bích Liễu, Nguyễn Hữu Minh Thái, Nguyễn Văn Bảo là những người làm dịch vụ chuyển, nhận tiền nhanh, không biết số tiền H đề nghị nhận là do H lừa đảo mà có nên không đề cập đến.

Đối với các số điện thoại mà Tào Văn H sự dụng để liên lạc với các bị hại qua xác minh các chủ sở hữu xác nhận trước đây có đăng ký và sử dụng hoặc không đăng ký và sử dụng nhưng hiện nay đã bỏ và không sử dụng các số điện thoại trên từ lâu nên không có liên quan đến vụ án.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Tào Văn H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Tào Văn H 48 (Bốn mươi tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam (ngày 07/11/2022)

2. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 Bộ luật hình sự; các Điều 584, 585, 589 Bộ luật Dân sự.

Buộc bị cáo Tào Văn H bồi thường cho: Chị Nguyễn Thị Ngọc M 15.000.000đ; Chị Nguyễn Thị Diễm M 15.000.000đ; Chị Đậu Thị D 12.000.0000đ; Anh Ngô Đức T 8.000.000đ; Ông Đỗ Phú Đ 15.000.000đ; Chị Vũ Ngọc Kim L 34.000.000đ. Tổng cộng 99.000.000đ.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.

3. Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tich thu sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại di dộng hiệu Vivo màu bạc, 01 điện thoại di động hiệu Nokia 105 màu đen bên trong có gắn sim số 0946.056.275 và số 0975.559.740. Theo biên bản giao nhận vật chứng tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đơn Dương ngày 09/5/2023.

4. Về án phí: Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo Tào Văn H phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm và 4.950.000đ án phí dân sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm. Bị hại, người có quyền và nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

87
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 28/2023/HS-ST

Số hiệu:28/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đơn Dương - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về