Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 281/2021/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 281/2021/HS-PT NGÀY 09/07/2021 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 09 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 924/2020/TLPT-HS ngày 28 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo Hồ Thị Thanh Th phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” do có kháng cáo của bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 370/2020/HS-ST ngày 18 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.

- Bị cáo có kháng cáo và bị kháng cáo:

Hồ Thị Thanh Th, sinh năm 1974 tại Ninh Bình; nơi cư trú: Phòng 2105 CT1B2, tổ 17, Khu đô thị XL, phường P, quận H, thành phố Hà Nội; chỗ ở: P3004, tháp B tòa nhà New Skyline, khu đô thị V, phường V, quận H, thành phố Hà Nội; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp trước khi phạm tội: Giảng viên khoa Kiến trúc, trường Đại học KT HN; con ông Hồ Sỹ D và bà Trần Thị V; chồng là Trần Văn R và có 02 con, con lớn sinh năm 2004, con nhỏ sinh năm 2008; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt và tạm giam từ ngày 18/3/2019. Có mặt.

- Người bào chữa: Ông Nguyễn Trọng V – Luật sư Công ty luật APEC, thuộc Đoàn luật sư thành phố Hà Nội. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có kháng cáo: Trần Thị L, sinh năm 1952; trú tại: Phòng 1005, tòa nhà N09-B1, khu đô thị mới DV, phường DV, quận CG, thành phố Hà Nội. Có mặt.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Trần Thị L: Ông Bùi Minh Đ - Luật sư Công ty luật trách nhiệm hữu hạn Sao TĐ, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Thực hiện chủ trương của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội trong công tác giải phóng mặt bằng, tái định cư để triển khai dự án thoát nước nhằm cải thiện môi trường thành phố Hà Nội - Dự án II (Dự án thoát nước sông Sét). Ngày 17/6/2008, Ủy ban nhân dân quận HM ra Quyết định số 1284 về việc giao nhiệm vụ cho Trung tâm phát triển quỹ đất và Quản lý duy tu hạ tầng đô thị quận HM tổ chức thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư để triển khai Dự án; Ủy ban nhân dân quận HM đã ban hành các Quyết định thành lập Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư; kiện toàn Tổ công tác giải phóng mặt bằng phường TL và kiện toàn Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư quận HM để thực hiện dự án tại phường TL… Hội đồng ruộng đất có trách nhiệm thu thập các tài liệu thông tin về đất đai và xem xét tham mưu cho UBND phường xác định nguồn gốc đất, thời điểm sử dụng đất của các hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn để phục vụ cho công tác giải phóng mặt bằng, công tác thu hồi đất; Thông báo số 04 ngày 11/01/2011 của UBND phường TL về việc phân công nhiệm vụ cán bộ phụ trách bộ phận địa chính, trong đó Nguyễn Xuân V chịu trách nhiệm chung đối với các công tác của bộ phận địa chính, chịu trách nhiệm trong việc tham mưu công tác của bộ phận chuyên môn với lãnh đạo UBND phường TL, công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và các nhiệm vụ khác do lãnh đạo phường phân công trong công tác giải phóng mặt bằng, đồng thời Nguyễn Xuân V cũng là thành viên Tổ công tác giải phóng mặt bằng, Ủy viên thường trực Hội đồng ruộng đất phường TL.

Tổ công tác giải phóng mặt bằng phường TL, trong đó có Nguyễn Xuân V cùng các thành viên đã tiến hành kiểm kê xác định hiện trạng thửa đất số 135, tờ bản đồ số 04, tổ 34 phường TL, quận HM để thực hiện đền bù. Tuy nhiên, Nguyễn Xuân V đã có hành vi xác định quy chủ sai trên cơ sở 02 hồ sơ kê khai gian dối của bị cáo Hồ Thị Thanh Th để Hồ Thị Thanh Th và hộ bà Hồ Thị L1 được nhận bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi giải phóng mặt bằng.

Qua điều điều tra đã xác định: Nguồn gốc thửa đất số 135, tờ bản đồ số 04 (hệ bản đồ 299) tại tổ 34 phường TL, quận HM, thành phố Hà Nội có diện tích 138m2 có chủ cũ là ông Đặng Văn B. Năm 1994, ông B bán thửa đất trên cho ông Thạch Thanh Đ và bà Thạch Thị Y. Ngày 06/6/1995, ông Đ và bà Y thoả thuận viết Giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở với nội dung: Ông Đ và bà Y có chung thửa đất 135, diện tích là 138m2, chia thửa đất thành 02 thửa số: 135A và 135B (bán thửa số 135B diện tích 69m2) cho ông Trần Hữu H, (giấy chuyển nhượng viết tay, người chứng kiến là bà Nguyễn Thị Ch).

Ngày 20/7/1995, UBND huyện TT cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số B140047 đối với toàn bộ thửa đất diện tích 138m2 trên mang tên Thạch Thanh Đ và Thạch Thị Y. Ngày 01/7/1997, ông Đ, bà Y và ông H đã ký Hợp đồng chuyển quyền sử dụng nhà, đất, có xác nhận của UBND xã TL, huyện TT, thành phố Hà Nội. Ngày 05/7/1997, ông Đ, bà Y đã làm thủ tục xin tách thành 02 thửa đất và được UBND xã TL đóng dấu xác nhận, mỗi thửa diện tích 69m2 gồm thửa số 135/69 và thửa số 167/69 (ghi chủ sử dụng mới là ông Trần Hữu H).

Ngày 09/7/2001, ông Trần Hữu H bán lại 69m2 đất, trên thửa đất có một căn nhà cấp 4 cho bà Trần Thị L và ông Bùi Long B với giá 140 triệu đồng (trong đó, ông B góp 100 triệu đồng và bà L góp 40 triệu đồng). Bà Trần Thị L là người được ông H viết đứng tên trên giấy bán đất. Sau khi mua đất, bà L nhờ ông Đặng Văn B (nhà cạnh thửa đất) trông coi, sử dụng căn nhà cấp 4 trên thửa đất. Ông B đã cho thuê nhà từ năm 2001 đến năm 2004 thì thửa đất được bỏ trống, không sử dụng, căn nhà cấp 4 bị sập.

Ngày 13/9/2007, tại Văn phòng luật sư ID - Gia Huy, các ông Trần Hữu H, Trần Phong Th (là cậu ông H) và Bùi Long B đã lập Bản thoả thuận về việc xác định quyền sở hữu ngôi nhà tạm 20m2 và quyền sử dụng đất có diện tích 69m2 của ông Bùi Long B. Ông B giữ toàn bộ giấy tờ nhà đất trong đó có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số B140047 đã nêu trên (vì ông H không có hộ khẩu tại Hà Nội nên không thể làm được thủ tục sang tên).

Ngày 18/11/2007, ông Bùi Long B đã bán lại cho bà L phần đất mua chung 69m2 cùng bà L với giá thoả thuận 180 triệu đồng theo Giấy chuyển nhượng quyền sử dụng nhà đất giữa ông B và bà L, trên giấy có Lại Văn Đ ký người chứng kiến. Ông B đã bàn giao cho bà L toàn bộ giấy tờ mua bán và bản gốc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số B140047 được Ủy ban nhân dân huyện TT cấp ngày 20/7/1995 mang tên Thạch Thanh Đ và Thạch Thị Y; Giấy ủy quyền ngày 06/6/2005 của ông Trần Hữu H cho bà Trần Thị L được giải quyết đền bù 69m2 có xác nhận của Công an, Ủy ban nhân dân phường TS, thị xã TĐ , tỉnh Ninh Bình.

Ngày 10/8/2010, bà Trần Thị L đã lập Bản gia đình tự kê khai về đất, tài sản trên đất đề nghị xét bồi thường giải phóng mặt bằng đối với diện tích 69m2 tại thửa đất số 135 đã mua lại của ông B và nhờ ông Đ Văn B nộp hồ sơ tại bộ phận địa chính UBND phường TL.

Khi biết dự án có chủ trương kê khai bồi thường, đền bù giải phóng mặt bằng đối với 69m2 tại thửa đất số 135 nêu trên. Bị cáo Hồ Thị Thanh Th đã tạo dựng 02 bộ hồ sơ xác định nguồn gốc đất tại thửa đất số 135 là của Th và của bà Hồ Thị L1 (cô ruột của Th) mua bán với ông Trần Hữu H với mục đích để nhận được tiền bồi thường giải phóng mặt bằng của Nhà nước và được 02 suất mua căn hộ tái định cư. Mỗi bộ hồ sơ gồm: Bản kê khai mua bán quyền sở hữu nhà, công trình và quyền sử dụng đất gửi Sở địa chính thành phố Hà Nội đề ngày 25/3/2000 với nội dung ông Trần Hữu H bán cho Hồ Thị Thanh Th 34,5m2 đất; ông H bán cho bà Hồ Thị L1 34,5m2 đất; Hợp đồng chuyển quyền sử dụng nhà đất giữa ông Thạch Thanh Đ và bà Thạch Thị Y cho ông Trần Hữu H; Bản kê khai tài sản và đất ngày 30/5/1997; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 20/7/1995 (các tài liệu trên là tài liệu photocopy) cùng Đơn trình bày xác nhận của bị cáo Th đề ngày 15/8/2010; của bà L1 đề ngày 18/8/2010; Bản gia đình tự kê khai hộ bị cáo Hồ Thị Thanh Th ngày 18/6/2014, hộ bà Hồ Thị L1 ngày 20/6/2014.

Trên cơ sở 02 Bản kê khai mua bán quyền sở hữu nhà, công trình và quyền sử dụng đất gửi Sở địa chính thành phố Hà Nội đề ngày 25/3/2000, Hồ Thị Thanh Th tự kê khai và viết nội dung ông Trần Hữu H bán cho Hồ Thị Thanh Th 34,5m2 đất; ông H bán cho bà Hồ Thị L1 34,5m2 đất. Phần người mua, bị cáo Th và bà L ký, tại mục người bán, Th tự cắt ghép chữ ký, chữ viết họ tên ông Trần Hữu H và dán phần chữ ký, chữ viết tên ông Trần Hữu H dưới mục người bán đất trên diện tích đất mà ông H đã bán cho bà L. Sau đó, Th mang photo lại Bản kê khai trên và mang hai bộ hồ sơ trên đến nộp cho bộ phận một cửa của UBND phường TL để làm thủ tục được nhận tiền hỗ trợ bồi thường giải phóng mặt bằng.

Nguyễn Xuân V là cán bộ phụ trách bộ phận địa chính có trách nhiệm chung đối với công tác của bộ phận địa chính, tham mưu trong công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đồng thời là thành viên Tổ công tác giải phóng mặt bằng phường TL, chịu trách nhiệm về việc kiểm kê thực tế tại thửa đất của hộ gia đình bà Trần Thị L, bị cáo Hồ Thị Thanh Th, bà Hồ Thị L1, bà Thạch Thị TA nhưng Nguyễn Xuân V không trực tiếp kiểm tra hồ sơ, không tổ chức xác minh hoặc chỉ đạo cán bộ xác minh lại nguồn gốc đất, so sánh, đối chiếu bản đồ địa chính với sơ đồ trích lục các thửa đất của UBND xã TL năm 1994 và năm 1997, hồ sơ xin tách, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà vẫn chỉ đạo Đặng Đức D lập dự thảo nguồn gốc đất để đưa ra họp xét quy chủ. Ngày 10/02/2015, Hội đồng ruộng đất phường TL họp xét quy chủ nguồn gốc đất cho các hộ, trong đó có hộ bà Hồ Thị L1 và hộ bị cáo Hồ Thị Thanh Th.

Quá trình họp để xét quy chủ đối với hồ sơ của hộ bị cáo Th và bà Hồ Thị L1, Vi không nêu thông tin, nội dung về việc diện tích, vị trí, nguồn gốc thửa đất bà L mua của ông Trần Hữu H trùng với diện tích, vị trí, nguồn gốc đất bà Hồ Thị L1 và Hồ Thị Thanh Th kê khai. Căn cứ thông tin, nội dung Vi đưa ra, Hội đồng ruộng đất thấy việc mua bán thửa đất của bị cáo Hồ Thị Thanh Th và bà Hồ Thị L1 rõ ràng, không có sự mâu thuẫn, vị trí 02 thửa đất hộ bà L1, bị cáo Th không trùng vị trí đất của hộ bà Trần Thị L nên Hội đồng nhất trí thông qua quy chủ 02 thửa đất nằm trong thửa đất số 135 cho 02 hộ bà L1 và bị cáo Th.

Ngày 23/4/2015, Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư quận HM có Phương án bồi thường số 718, 719/PACT-GPMB, bồi thường cho hộ bị cáo Th và hộ bà L1 mỗi hộ 715.392.000đồng cùng suất mua 01 căn hộ tái định cư.

Ngày 27 và 29/5/2015, Trung tâm phát triển quỹ đất quận HM và UBND phường TL phối hợp chi trả tiền bồi thường cho Th và bà L1 theo phương án trên. Khi trả tiền, UBND phường TL thu lại các giấy tờ, tài liệu gốc liên quan đến các thửa đất từ các chủ hộ nhận bồi thường để lưu trữ tại Trung tâm phát triển quỹ đất quận HM (hệ thống lưu trữ hồ sơ của bà Hồ Thị L1, bị cáo Hồ Thị Thanh Th là tài liệu photo, không có hồ sơ gốc).

Sau khi bà L nộp hồ sơ đề nghị xét bồi thường giải phóng mặt bằng đối với thửa đất số167/69 nhưng không được bồi thường, ngày 19/7/2017, bà L gửi đơn đến Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an quận HM, đề nghị điều tra làm rõ sự việc. Ngày 16/3/2018, bị cáo Hồ Thị Thanh Th cùng bà Hồ Thị L1 đã trả lại bà L số tiền 1,4 tỷ đồng (mỗi người trả 700.000.000 đồng).

Bà Trần Thị L đã nộp cho Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an thành phố Hà Nội: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (bản gốc) số B140047 mang tên Thạch Thanh Đ và Thạch Thị Y.

Tại Kết luận giám định số 5446/C09-P5 ngày 24/10/2018 của Viện Khoa học hình sự, Bộ Công an kết luận: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (bản gốc) do bà Trần Thị L giao nộp: “Chữ ký đứng tên Lương Xuân Tr trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (ký hiệu A) so với chữ ký của ông Lương Xuân Tr trên mẫu so sánh (ký hiệu từ M1 đến M5) do cùng một người ký ra; hình dấu tròn có nội dung (UBND huyện TT thành phố Hà Nội) so với hình dấu trong có cùng nội dung trên mẫu so sánh (ký hiệu từ M1 đến M5) do cùng một con dấu đóng ra”.

Tại Bản kết luận giám định số 7187/KLGĐ-PC09 (Đ4) ngày 18/9/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận:

“Chữ ký, chữ viết dòng họ tên Trần Hữu H dưới chữ ký trên 02 bản kê khai mua bán quyền sở hữu nhà giữa ông H với bà L1 và ông H với bị cáo Th xác định: Chữ ký của ông H được sao in từ chữ ký chữ viết dòng họ tên Trần Hữu H trong Hợp đồng chuyển quyền nhà, đất giữa ông H và ông Thạch Thanh Đ, Thạch Thị Y;

Chữ ký dưới mục Người mua trên Giấy bán đất ngày 08/5/1995. Chữ ký, chữ viết dòng họ tên Trần Hữu H dưới chữ ký trên Giấy chuyển quyền sử dụng đất ở ngày 06/6/1995. Trích lục thửa đất, Hợp đồng chuyển quyền sử dụng nhà đất. Đơn xin chuyển nhượng Quyền sử dụng nhà, đất. Bản thỏa thuận ngày 13/9/2007 và chữ ký đứng tên Trần Hữu H trên Giấy ủy quyền là chữ của ông Trần Hữu H ký và viết ra;

Chữ ký, chữ viết dòng họ tên Thạch Thanh Đ dưới chữ ký trên Giấy bán đất ngày 08/5/1995. Giấy chuyển quyền sử dụng đất ở ngày 06/6/1995 là chữ của ông Thạch Thanh Đ ký và viết ra;

Chữ ký, chữ viết dòng họ tên Trần Thị L duới chữ ký trên Giấy chuyển nhượng quyền sử dụng nhà đất ngày 18/11/2007. Giấy chuyển nhượng quyền sử dụng nhà đất ngày 20/10/2008 và chữ ký trên Giấy biên nhận tiền ngày 27/4/2008 là chữ của bà Trần Thị L ký và viết ra;

Chữ ký dưới mục “Xác nhận của UBND phường” trên Biên bản kiểm kê đất đai và tài sản gắn liền với đất ngày 20/01/2015 đối với hộ Hồ Thị L1 và bị cáo Hồ Thị Thanh Th. Chữ ký đứng tên Nguyễn Ngọc H trên Biên bản nhận tiền và cam kết bàn giao mặt bằng ngày 27/5/2015, ngày 29/5/2015 và chữ ký trong khoanh mực màu đỏ trên sổ họp Hội đồng ruộng đất là của ông Nguyễn Ngọc H ký ra;

Chữ ký, chữ viết dòng họ tên bà Hồ Thị L1 (dưới chữ ký) trên Biên bản kiểm kê đất đai, tài sản gắn liền trên đất ngày 20/01/2015. Bản gia đình tự kê khai ngày 20/6/2014. Đơn trình bày ngày 18/8/2010 là chữ của bà Hồ Thị L1 ký và viết ra;

Chữ viết phần nội dung trên (Bản gia đình tự kê khai của bà Hồ Thị L1 ngày 20/6/2014. Đơn trình bày của Hồ Thị L1 ngày 18/8/2010. Bản gia đình tự kê khai của bị cáo Hồ Thị Thanh Th ngày 18/6/2014. Đơn trình bày của bị cáo Hồ Thị Thanh Th ngày 15/8/2010). Chữ ký, chữ viết dòng họ tên bị cáo Hồ Thị Thanh Th dưới chữ ký trên Biên bản kiểm kê đất đai và tài sản gắn liền với đất ngày 20/01/2015 đối với hộ bị cáo Hồ Thị Thanh Th. Bản gia đình tự kê khai của bị cáo Hồ Thị Thanh Th ngày 18/6/2014. Đơn trình bày của bị cáo Hồ Thị Thanh Th ngày 15/8/2010. Danh sách nhận tiền ngày 31/5/2015 là của bị cáo Hồ Thị Thanh Th ký và viết ra.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 370/2020/HSST ngày 18/9/2020, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174, các điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 54; Điều 38; Điều 48 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Hồ Thị Thanh Th 42 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 18/03/2019.

Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Hồ Thị Thanh Th, bà Hồ Thị L1, mỗi người phải hoàn trả Trung tâm phát triển quỹ đất và Quản lý duy tu hạ tầng đô thị quận HM số tiền 715.392.000 đồng. Bà Trần Thị L phải trả lại bị cáo Th 700.000.000 đồng và trả lại bà Hồ Thị L1 700 000.000 đồng. Nếu bà Trần Thị L không hoàn trả tiền cho bị cáo Th thì bị cáo Th, có quyền khởi kiện bà L bằng vụ kiện dân sự khác. Bà L sẽ được hưởng quyền lợi liên quan đến thửa đất theo quy định của pháp luật.

Ngoài ra Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, tuyên về án phí, quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 28/9/2020, bị cáo Hồ Thị Thanh Th có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 02/10/2020, bà Trần Thị L có đơn kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm tuyên xử theo hướng bà L không phải trả lại số tiền 1.400.000.000 đồng cho Hồ Thị Thanh Th và bà Hồ Thị L1; yêu cầu Hội đồng bồi thường, hỗ trợ tái định cư quận HM, Trung tâm phát triển quỹ đất quận HM và UBND phường TL, quận HM, thành phố Hà Nội phối hợp hoàn thiện hồ sơ bồi thường, hỗ trợ tái định cư cho bà.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Hồ Thị Thanh Th giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt với lý do bị cáo phạm tội do nhận thức pháp luật hạn chế, gia đình có công với Cách mạng, hiện tại hoàn cảnh gia đình khó khăn, 2 con bị cáo đang tuổi ăn học.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Trần Thị L giữ nguyên yêu cầu kháng cáo về phần trách nhiệm dân sự. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết để đảm bảo quyền lợi cho bà.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội trình bày quan điểm về giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo Th, sửa án sơ thẩm, giảm một phần hình phạt cho bị cáo Hồ Thị Thanh Th và không chấp nhận kháng cáo của bà L là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Người bào chữa cho bị cáo Th cho rằng: Bị cáo Th có nhân thân tốt; phạm tội lần đầu do nhận thức pháp luật hạn chế dẫn đến tin tưởng ông Lại Văn Đ là người có đất bán cho bị cáo. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo đã nhận thức được hành vi phạm tội của mình nên đã kháng cáo xin giảm hình phạt. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo tỏ ra ăn năn hối cải, gia đình có công với Cách mạng nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo và giảm một phần hình phạt cho bị cáo.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà Trần Thị L có quan điểm: Bà L mới là bị hại trong vụ án vì bản án sơ thẩm xác định bị cáo trả tiền cho bà L là tình tiết khắc phục hậu quả để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Việc bị cáo trả tiền cho bà L là do cán bộ có thẩm quyền hướng dẫn nên việc tuyên bà L phải trả lại bị cáo và bà L1 số tiền đã nhận là không phù hợp với thực tế. Mặt khác, bà L đã sử dụng hết số tiền nhận từ bị cáo Th, bà L1 và chưa được giải quyết quyền lợi khi có đất bị thu hồi là khó khăn cho bà L.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa và trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, trình bày của bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, các Luật sư;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Tại Cơ quan điều tra và phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Hồ Thị Thanh Th nhiều lần thay đổi lời khai với nhiều nội dung khác nhau. Lời khai ban đầu của bị cáo tại các Bản tường trình, Biên bản ghi lời khai (BL 375-395; 414; 416- 417), bị cáo Th đều khai nhận: Thông qua một người môi giới (hiện không xác định được tên, tuổi, địa chỉ), bị cáo mua 01 mảnh đất với diện tích 69m2 của ông Trần Hữu H. Bị cáo có gặp ông H 01 lần vào khoảng năm 2000 và đã giao đủ tiền mua 69m2 đất theo thỏa thuận cho ông H, trong đó có tiền mua 34,5m2 đất do bà Hồ Thị L1 (cô của bị cáo) nhờ bị cáo mua giúp. Bị cáo khai nhớ chắc chắn là ông H không giao GCNQSD đất (bản gốc); hai bên đã giao nhận đủ 140 triệu đồng (tiền do bị cáo và bà L1 mỗi người nộp một nửa), có lập giấy tờ mua bán viết tay nhưng nội dung cụ thể như thế nào bị cáo không nhớ. Việc giao nhận được thực hiện tại địa điểm thửa đất nêu trên. Việc mua nhà, đất trên là do một mình bị cáo quyết định, bị cáo chỉ rủ bà Hồ Thị L1 mua chung, nguồn tiền mua đất là của cá nhân bị cáo và bà L1, hoàn toàn không liên quan gì đến chồng, con bị cáo. Sau đó, bị cáo Th phủ nhận lời khai này và khai: Khoảng từ năm 2004 đến năm 2007, bị cáo mua mảnh đất của ông Lại Văn Đ có diện tích 69m2 với tổng số tiền là 360 triệu đồng. Bị cáo chỉ đủ tiền mua 34,5m2 còn lại bị cáo mua hộ bà Hồ Thị L1. Bà L1 đã đưa cho bị cáo ½ số tiền trên. Bị cáo đã cùng chồng đi đến nhà ông Đ, bị cáo là người mua và là người đưa tiền cho ông Đ. Ông Đ đã đưa cho bị cáo toàn bộ hồ sơ liên quan đến thửa đất nhưng sau đó bị cáo đã làm mất bản chính, chỉ còn giữ lại bản photocopy. Khi thực hiện việc kê khai, do muốn được đền bù thì phải có giấy bán đất của chủ đất là ông Trần Hữu H bán cho người mua là bị cáo và bà L1 nên bị cáo đã cắt chữ ký, chữ viết họ tên của ông H trong hồ sơ mua bán đất mà ông Đ giao cho bị cáo (cụ thể là Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng nhà, đất ngày 01/7/1997 giữa ông Thạch Thanh Đ và bà Thạch Thị Y, ông Trần Hữu H). Bị cáo đã tự viết nội dung trong Bản kê khai mua bán quyền sở hữu nhà, công trình và quyền sử dụng đất trong khuôn viên, ký vào phần Người mua trong theo mẫu đánh máy và dán chữ ký, chữ viết họ tên của ông H vào phần Người bán rồi mang đi photo lại Bản kê khai trên và nộp cho Bộ phận một cửa của UBND phường TL. Đến nay, bị cáo không lưu các giấy tờ liên quan đến việc mua bán diện tích 69m2 đất trên. Khi biết bị ông Đ lừa đảo bán đất, bị cáo đã không đến nhà ông Đ để đòi lại tiền bởi vì trước đó bị cáo đã làm giả giấy tờ bán đất mà ông H bán cho bị cáo và bà L1 để nộp cho Ban giải phóng mặt bằng UBND phường TL nên bị cáo không khai ra ông Đ là người bán đất cho mình (BL 436-439,440).

Căn cứ vào các lời khai của ông Trần Hữu H, bà Trần Thị L, ông Bùi Long B và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, có căn cứ xác định: Ông Trần Hữu H mua diện tích 69m2 tại thửa đất số 135, tổ 34 phường TL của ông Thạch Thanh Đ và bà Thạch Thị Y. Sau đó, ông H bán lại diện tích đất này cho ông Bùi Long B và bà Trần Thị L cùng mua chung. Ông B đồng ý để bà L đứng tên trên giấy bán. Sau đó, ông B lại bán phần của mình mua chung cho bà L nên đã viết giấy bán đất và giao sổ đỏ cho bà L. Bà L là người giữ toàn bộ giấy tờ mua bán liên quan đến thửa đất gồm: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Thạch Thanh Đ và bà Thạch Thị Y (bản gốc); “Giấy bán đất ngày 09/7/2001” thể hiện ông Trần Hữu H đã bán cho bà Trần Thị L mảnh đất 69m2 mang tên ông Thạch Thanh Đ và bà Thạch Thị Y; “Giấy chuyển nhượng quyền sử dụng nhà đất” lập ngày 18/11/2007 (BL 1305) của ông B có nội dung “Đã nhận đủ số tiền từ bà L và giao toàn bộ giấy tờ liên quan đến mảnh đất trên cho bà L, kèm theo sổ đỏ…đã nhận 150.000.000 đ…“còn lại 30.000.000đ sẽ nhận tiếp khi hoàn thành giao sổ đỏ” và giấy có chữ ký của ông Lại Văn Đ với tư cách là “Người chứng kiến” phù hợp với nội dung tại bản Kết luận giám định số 3849/C09-P5 ngày 24/7/2019 của Viện Khoa học HS - BCA xác định: “Chữ ký, chữ viết đứng tên Lại Văn Đ dưới mục “Người làm chứng” trên GCNQSD nhà đất ngày 18/11/2017 là chữ ký, chữ viết của ông Lại Văn Đ”. Mặt khác, tại “Giấy chuyển nhượng quyền sử dụng nhà đất” lập ngày 20/10/2008 (BL 1307) cũng thể hiện ông B là người đã ký nhận đủ số tiền bán đất và đã giao toàn bộ giấy tờ liên quan đến mảnh đất trên cho bà L kèm theo sổ đỏ nên việc bị cáo Th và ông Trần Văn R (chồng bị cáo Th) khai mua bán diện tích đất của ông Đ là không có căn cứ, mâu thuẫn với lời khai của ông H và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác trong vụ án. Quá trình điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm, bị cáo Th vẫn thừa nhận hành vi tự ý kê khai và tự cắt ghép chữ ký, chữ viết họ tên ông Trần Hữu H và dán vào phần chữ ký, chữ viết tên ông Trần Hữu H dưới mục người bán đất trên 02 Bản kê khai mua bán quyền sở hữu nhà, công trình và quyền sử dụng đất đề ngày 25/3/2000 cho hộ bà Hồ Thị L1 và của bị cáo để hoàn tất hồ sơ nhận tiền bồi thường trên chính diện tích đất mà bà L mua của ông Trần Hữu H. Do đó, cấp sơ thẩm đã truy tố và xét xử bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, phù hợp ý thức chủ quan của bị cáo. Do đó, trong đơn kháng cáo và tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt là thể hiện sự ăn năn hối cải của bị cáo.

Khi quyết định hình phạt đối với bị cáo Hồ Thị Thanh Th, Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ hành vi phạm tội đồng thời áp dụng các tình tiết giảm nhẹ hình phạt là thành khẩn khai báo, đã có ý thức khắc phục hậu quả (nộp tiền trả bà Trần Thị L), nhân thân chưa tiền án, tiền sự để xử phạt bị cáo mức án thấp của khoản 2 Điều 174 của Bộ luật Hình sự (42 tháng tù) là không nặng. Tuy nhiên, xem xét hành vi phạm tội của bị cáo là do nhận thức pháp luật hạn chế dẫn đến tin tưởng ông Lại Văn Đ là người có quyền sở hữu đối với thửa đất ông H đã bán cho ông B và ông B đã cho bà L vay 150 triệu đồng để mua lại phần đất của ông B trong khi bà L vẫn chưa trả tiền vay cho ông Đ như bà L thừa nhận tại phiên tòa phúc thẩm. Mặt khác, hành vi phạm tội của bị cáo Th có sự tiếp tay của Nguyễn Quốc Vi là cán bộ địa chính UBND phường TL - là người có trách nhiệm thẩm định hồ sơ nên Vi cũng bị khởi tố điều tra trong vụ án nhưng đã được đình chỉ điều tra do bị liệt 2 chân và tổn hại sức khỏe 93%. Đặc biệt, tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo đã thành khẩn nhận tội, xin giảm nhẹ hình phạt vì hoàn cảnh gia đình khó khăn và bố bị cáo là ông Hồ Sỹ D được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Nhì; mẹ bị cáo là bà Trần Thị V được tặng thưởng Huy chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Nhất theo xác nhận của trường Đại học KT HN (nơi bố mẹ bị cáo công tác), nên có căn cứ áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự giảm một phần hình phạt cho bị cáo.

[2]. Xét kháng cáo của bà Trần Thị L về phần trách nhiệm dân sự thì thấy: Có căn cứ xác định bà L là chủ sử dụng hợp pháp diện tích đất 69m2 tại thửa đất số 135, tờ bản đồ số 04, tổ 34 phường TL, quận HM, thành phố Hà Nội do nhận chuyển nhượng một phần diện tích của ông B mua của ông H cùng với bà. Tuy nhiên, hành vi gian dối của bị cáo Th nhằm mục đích để được Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư của quận HM bồi thường tiền và mua nhà tái định cư nên Tòa án cấp sơ thẩm xác định Trung tâm phát triển quỹ đất và Quản lý duy tu hạ tầng đô thị quận HM là người bị hại và bà L chỉ là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án là chính xác. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên buộc bị cáo Hồ Thị Thanh Th và bà Hồ Thị L1 phải hoàn trả Trung tâm phát triển quỹ đất và Quản lý duy tu hạ tầng đô thị quận HM là người bị hại do hành vi của bị cáo Th gây nên số tiền đã nhận bồi thường và buộc bà L trả lại bị cáo Hồ Thị Thanh Th và bà Hồ Thị L1 số tiền đã nhận của bị cáo và bà L1 là đúng quy định của pháp luật. Theo đó, bà L có quyền tiếp tục yêu cầu Trung tâm phát triển quỹ đất và Quản lý duy tu hạ tầng đô thị quận HM giải quyết quyền lợi của bà khi có đất bị thu hồi để thực hiện dự án theo quy định của pháp luật là chính xác. Quan điểm của luật sư cho rằng bà L là người bị hại và kháng cáo của bà L về việc không đồng ý trả lại bị cáo Th và bà Hồ Thị L1 số tiền 1,4 tỷ đồng vì lý do đã chi tiêu hết là không có cơ sở chấp nhận.

[3]. Về án phí phúc thẩm:

Do kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo Hồ Thị Thanh Th không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Kháng cáo của bà Trần Thị L không được chấp nhận nên bà L phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Tuy nhiên, do bà L thuộc trường hợp người cao tuổi nên được miễn án phí dân sự phúc thẩm theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

[4]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 355, Điều 356, Điều 358 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

QUYẾT ĐỊNH

1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hồ Thị Thanh Th. Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 370/2020/HS-ST ngày 18 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, giảm một phần hình phạt cho bị cáo Hồ Thị Thanh Th như sau:

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174, các điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51;

Điều 54; Điều 38; Điều 48 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Hồ Thị Thanh Th 30 (Ba mươi) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 18/03/2019.

2. Không chấp nhận kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Trần Thị L, giữ nguyên bản án sơ thẩm về phần trách nhiệm dân sự đối với bị cáo Hồ Thị Thanh Th, bà Hồ Thị L1 và bà Trần Thị L như sau.

Bị cáo Hồ Thị Thanh Th phải hoàn trả Trung tâm phát triển quỹ đất và Quản lý duy tu hạ tầng đô thị quận HM, thành phố Hà Nội số tiền 715.392.000 đồng.

Bà Hồ Thị L1 phải hoàn trả Trung tâm phát triển quỹ đất và Quản lý duy tu hạ tầng đô thị quận HM, thành phố Hà Nội số tiền 715.392.000 đồng.

Bà Trần Thị L phải trả lại bị cáo Hồ Thị Thanh Th số tiền 700.000.000 đồng và trả lại bà Hồ Thị L1 số tiền 700 000.000 đồng.

Nếu bà Trần Thị L không hoàn trả lại tiền cho bà L1 và bị cáo Th thì bà L1 và bị cáo Th có quyền khởi kiện bà Trần Thị L bằng vụ kiện dân sự khác. Bà L sẽ được hưởng quyền lợi liên quan đến thửa đất theo quy định của pháp luật.

3. Về án phí phúc thẩm:

- Bị cáo Hồ Thị Thanh Th không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

- Bà Trần Thị L được miễn án phí dân sự phúc thẩm. Bà L được hoàn trả lại 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2018/0020493 ngày 26/10/2020 của Cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Nội.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

43
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 281/2021/HS-PT

Số hiệu:281/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về