Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 275/2024/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 275/2024/HS-PT NGÀY 11/04/2024 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 11 tháng 4 năm 2024, tại Điểm cầu trung tâm trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội và Điểm cầu thành phần trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai trực tuyến vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 238/2023/TLPT-HS ngày 26/02/2024 đối với bị cáo Vũ Trung K do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 04/2024/HS-ST ngày 15/01/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang.

- Bị cáo có kháng cáo: Vũ Trung K, sinh ngày 08/10/1991 tại Tuyên Quang; nơi cư trú: Tổ I, phường N, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Ngọc C và bà Nguyễn Thị Đ; có vợ Mai Thu H (đã ly hôn) và 02 con: Con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2016; tiền án: Bản án hình sự sơ thẩm số 66/2022/HS-ST ngày 24/6/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang xử phạt bị cáo 90.000.000 đồng về tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự”; tiền sự, nhân thân: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 23/8/2023 tại Trại tạm giam Công an tỉnh T. (có mặt) Người bào chữa cho bị cáo: Bà Nguyễn Thanh T - Luật sư Công ty L1 thuộc Đoàn Luật sư tỉnh thành phố H. (có mặt) Trong vụ án còn có 01 bị hại và 02 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị nên không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tháng 12/2021, Vũ Trung K mua của ông Nguyễn Văn H1, trú tại tổ G, phường X, quận N, thành phố Hà Nội 01 chiếc xe ô tô nhãn hiệu Ford Everest, biển kiểm soát 22A-153.xx với giá 1.000.000.000 đồng và đã làm thủ tục đăng ký sang tên cho K theo quy định. Đến ngày 09/12/2021, K mang chiếc xe ô tô trên đến Ngân hàng TMCP B - Chi nhánh thành phố T (viết tắt là L2) làm tài sản thế chấp để vay số tiền 700.000.000 đồng, thời hạn vay 12 tháng, (L2) giữ bản gốc Giấy đăng ký xe ô tô và giao xe cho K quản lý, sử dụng.

Ngày 24/6/2022, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 66/2022/HSST của Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang (viết tắt là Bản án số 66/2022/HSST) đã xét xử K về tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” và tuyên phạt bị cáo số tiền 90.000.000 đồng, truy thu 470.000.000 đồng và phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, ngày 03/8/2022, Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tuyên Quang ra Quyết định thi hành án chủ động số 768/QĐ-CCTHADS, K có trách nhiệm tự nguyện thi hành án trong thời gian 10 ngày. Khi hết thời gian 10 ngày, K chỉ thi hành được 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm, còn tiền phạt và tiền truy thu tổng cộng là 560.000.000đồng, K chưa thi hành. Vì vậy ngày 17/8/2022, Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tuyên Quang đã ra Quyết định số 09-QĐ/CCTHADS về việc tạm dừng đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng đối với tài sản thuộc sở hữu của K là chiếc xe ô tô biển kiểm soát 22A-153.xx (Quyết định này được gửi cho K, thể hiện tại Phiếu báo phát số RA 30204440 0 VN 02/04/22 ngày 19/8/2022, K đã ký nhận).

Đến ngày 02/12/2022, do cần tiền góp vốn làm ăn cùng với bà Phạm Thị Ngọc C1, trú tại tổ E, phường Y, thành phố Y, tỉnh Yên Bái, K nhờ bà C1 liên hệ để K mang chiếc xe ô tô biển kiểm soát 22A-153.xx đến thế chấp cho vợ chồng ông Nguyễn Văn Đ1 và bà Đào Thị Khánh H2, trú tại tổ A, phường N, thành phố Y, tỉnh Yên Bái để vay số tiền 700.000.000 đồng, với lãi suất là 2%/tháng (hằng tháng K phải trả 14.000.000 đồng tiền lãi); K đưa cho vợ chồng ông Đ1 giữ 01 bản phô tô Giấy đăng ký xe ô tô mang tên Vũ Trung K có công chứng, 01 Giấy đăng kiểm xe còn thời hạn và 01 Bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chiếc xe ô tô này. Sau đó, ông Đ1 đưa cho K 150.000.000 đồng tiền mặt và nhờ ông Đào Xuân T1 (bố vợ của ông Đ1) chuyển 550.000.000 đồng từ tài khoản số 371100000182xx của ông T1 mở tại Ngân hàng Đ3 (B1) vào tài khoản số 0977778666 của K mở tại Ngân hàng TMCP Q (M). Sau khi nhận được tiền, K đã chuyển 550.000.000 đồng vào tài khoản số 100000407100 của bà C1 mở tại Ngân hàng TMCP C2 (V) để góp vốn làm ăn.

Khi hết kỳ hạn vay, L2 đã nhiều lần yêu cầu K mang chiếc xe ô tô biển kiểm soát 22A-153.xx đến làm thủ tục tất toán khoản vay 700.000.000đồng. Ngày 26/12/2022, K bảo bà C1 chuyển lại cho K 350.000.000 đồng trong số tiền góp vốn làm ăn; bà C1 đã chuyển số tiền này cho bạn gái K là chị Nguyễn Thị L, trú tại thôn Bản Khẻ, xã T, huyện N, tỉnh Tuyên Quang qua số tài khoản 55501866855xx mở tại M. Khi nhận được số tiền trên, chị L đã nộp vào L2 để trả nợ cho K. Do chưa trả đủ số tiền nợ gốc và tiền lãi, nên L2 tiếp tục yêu cầu K trả nợ, nhưng do không còn tiền nên K đã nảy sinh ý định bán chiếc xe ô tô trên để trả nợ.

Mặc dù chiếc xe ô tô biển kiểm soát 22A-153.xx đang được K thế chấp vay tiền tại L2; bị tạm dừng đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng... theo Quyết định của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tuyên Quang và thế chấp vay tiền của vợ chồng bà H2, nhưng đến ngày 30/3/2023 K vẫn liên hệ với ông Nguyễn Văn H1, trú tại tổ G, phường X, quận N, thành phố Hà Nội (là người trước đây đã bán xe cho K) để chào bán chiếc xe ô tô trên với giá 800.000.000 đồng. Khi thỏa thuận mua bán xe, K chỉ nói với ông H1 là K đang thế chấp giấy tờ xe tại L2 để vay tiền, hiện còn nợ L2 số tiền 300.000.000đồng (thực tế nợ 373.400.000đồng, gồm tiền vay gốc và tiền lãi chưa trả) và thế chấp xe cho vợ chồng ông Đ1 vay 500.000.000đồng (thực tế vay 700.000.000 đồng). Riêng việc chiếc xe ô tô trên đang bị Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tuyên Quang quyết định tạm dừng đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng... để đảm bảo thi hành án, thì K không nói cho ông H1 biết. Do tin tưởng K nên ông H1 đã đồng ý mua chiếc xe ô tô trên và thoả thuận sẽ trả các khoản vay mà K nói để lấy chiếc xe ô tô cùng giấy đăng ký xe về.

Ngày 31/3/2023, K và ông H1 đến nhà vợ chồng ông Đ1 để cho ông H1 xem xe ô tô (lúc này K còn nợ vợ chồng ông Đ1 700.000.000 đồng tiền gốc và 26.000.000 đồng tiền lãi chưa trả). Sau khi kiểm tra xe, ông H1 nhất trí mua và chuyển 500.000.000 đồng vào tài khoản số 1008783779xx của ông Đ1 mở tại V theo đúng thoả thuận với K. Đồng thời, K bảo bà C1 chuyển 226.000.000 đồng vào tài khoản trên cho ông ĐI để tất toán khoản vay, tổng cộng là 726.000.000 đồng với vợ chồng ông Đ1. Sau khi nhận đủ số tiền trên, ông Đ1 trả lại chiếc xe ô tô biển kiểm soát 22A-153.xx và các giấy tờ có liên quan cho K.

Sau khi nhận xe, K và ông H1 mang chiếc xe ô tô trên đến L2 để tất toán khoản vay và được nhân viên thông báo hiện K còn nợ 373.400.000 đồng; thấy thế ông H1 nói với K là mình chỉ trả ngân hàng 300.000.000 đồng như đã thỏa thuận, số tiền 73.400.000 đồng còn lại K phải tự trả nên K đã nhờ chị L chuyển 73.400.000 đồng vào tài khoản số 19233333888xxx của ông H1 mở tại Ngân hàng TMCP K1 (T2) để ông H1 giúp K tất toán khoản vay trên với L2. Nhưng sau đó L2 thông báo cho ông H1 biết chiếc xe ô tô của K đang là tài sản bị tạm dừng đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng để đảm bảo thi hành án; đồng thời yêu cầu K phải giao lại chiếc xe ô tô vì đang là tài sản thế chấp tại L2 và không cho K làm thủ tục tất toán khoản vay.

Đối với số tiền 73.400.000 đồng mà chị L chuyển vào tài khoản của ông H1, sau đó theo yêu cầu của chị L, ông H1 đã chuyển lại 13.000.000 đồng cho chị L, còn 60.400.000 đồng ông H1 vẫn giữ trong tài khoản của mình.

Do không mua được chiếc xe ô tô của K như thỏa thuận, ông H1 đã yêu cầu K phải hoàn trả lại số tiền 500.000.000 đồng mà trước đó ông H1 đã bỏ ra trả nợ cho vợ chồng ông Đ1 để lấy chiếc xe ô tô về, nhưng K không có tiền trả; ông H1 yêu cầu K viết giấy bán xe đưa cho ông H1 giữ, trong đó K hẹn đến ngày 03/4/2023 sẽ trả cho ông H1 đủ số tiền trên. Nhưng đến ngày hẹn K không trả tiền cho ông H1, mặc dù ông H1 đã nhiều lần gọi điện nhưng K không nghe máy, trốn tránh không trả tiền, nên ông H1 đã đến Cơ quan điều tra trình báo sự việc bị K lừa đảo chiếm đoạt số tiền trên.

- Tại Bản kết luận giám định số 959/KL-KTHS ngày 25/7/2023 của Phòng K2, Công an tỉnh T, kết luận:

+ Chữ viết, chữ ký ghi tên Vũ Trung K trên giấy bán xe đề ngày 31/3/2023 trừ chữ ký, chữ viết dưới mục “NGƯỜI MƯA” là chữ viết, chữ ký của Vũ Trung K.

+ Chữ ký, chữ viết ghi tên Vũ Trung K dưới mục “Người nhận” trên Biên bản về việc giao quyết định, văn bản về thi hành án đối với Vũ Trung K, lập ngày 08/8/2022 và trên Phiếu báo phát của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tuyên Quang gửi cho Vũ Trung K ngày 19/8/2022 là chữ ký, chữ viết của Vũ Trung K.

- Tại Kết luận định giá tài sản số 11/KL-HĐĐGTS ngày 14/6/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự tỉnh Tuyên Quang, kết luận: Tổng giá trị tài sản (xe ô tô nhãn hiệu Ford Everest, màu sơn xanh, BKS 22A-153.xx, sản xuất năm 2019) tại thời điểm định giá là 823.900.000 đồng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 04/2024/HS-ST ngày 15/01/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang đã quyết định:

Căn cứ vào điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 54; Điều 38 Bộ luật Hình sự; các Điều 106, 331, 332, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên bố bị cáo Vũ Trung K phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Xử phạt bị cáo Vũ Trung K, 10 (mười) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giam, ngày 23/8/2023.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Ngày 29/01/2024, bị cáo Vũ Trung K kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt tù.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Bị cáo Vũ Trung K giữ nguyên kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội phát biểu quan điểm: Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Vũ Trung K về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật nhung mức hình phạt mà cấp sơ thẩm đã áp dụng đối với bị cáo là quá nghiêm khắc, vì trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; sau khi phạm tội bị cáo đã tác động gia đình bồi thường toàn bộ cho bị hại và được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt; gia đình bị cáo hiện đang thờ cúng Liệt sỹ Vũ Xuân H3 là bác ruột của bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm, gia đình bị cáo xuất trình đơn xin giảm nhẹ hình phạt, thể hiện sau khi ly hôn, vợ bị cáo đã để lại cả 02 con nhỏ cho bị cáo nuôi; từ khi bị tạm giam, 02 con của bị cáo phải nhờ ông bà nội chăm sóc, nuôi dưỡng nên có hoàn cảnh rất khó khăn; ngoài gia, bị cáo còn tác động đến gia đình giúp bị cáo khắc phục một phần số tiền truy thu của Bản án trước đó, thể hiện bị cáo đã nhận thức và chấp hành pháp luật tốt hơn. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo được hưởng, căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa Bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang, giảm cho bị cáo một phần hình phạt từ 01 đến 02 năm tù.

Người bào chữa đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đến hoàn cảnh gia đình của bị cáo theo đề nghị của Kiểm sát viên; các tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo được hưởng quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự, cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất của khung hình phạt liền kề, để bị cáo sớm được trở về đoàn tụ cùng gia đình, làm người lương thiện, chăm sóc, nuôi dạy các con nhỏ. Bị cáo nhất trí với lời bào chữa của Luật sư, không bổ sung gì thêm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại phiên tòa, bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. Kháng cáo của bị cáo được gửi trong thời hạn luật định nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Xét kháng cáo của bị cáo Vũ Trung K, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy:

[2.1] Tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân. Lời khai nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra và phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với lời khai của bị hại, người liên quan, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó có đủ cơ sở khẳng định: Ngày 31/3/2023, với mong muốn để có tiền trả nợ cho Ngân hàng L2 và vợ chồng ông Nguyễn Văn Đ2, trú tại tổ A, phường N, thành phố Y, tỉnh Yên Bái, mặc dù biết chiếc xe ô tô nhãn hiệu Ford Everest, biển kiểm soát 22A-153.xx đã bị Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang ban hành Quyết định số 09-QĐ/CCTHADS ngày 17/8/2022, tạm dừng đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng để đảm bảo việc thi hành án, nhưng bị cáo Vũ Trung K vẫn cố tình giấu giếm thông tin, đưa ra thông tin gian dối để lừa bán chiếc xe ô tô trên cho ông Nguyễn Văn H1 với giá 800.000.000 đồng (thoả thuận ông H1 phải trả cho vợ chồng ông Đ2 500.000.000 đồng đế lấy xe về; trả cho L2 300.000.000 đồng để tất toán khoản vay và lấy Giấy đăng ký xe). Ông H1 đã thực hiện chuyển khoản tiền cho ông Nguyễn Văn Đ1 500.000.000 đồng. Tuy nhiên, do xe ô tô đã bị Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tuyên Quang quyết định tạm dừng đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng để đảm bảo việc thi hành án nên Ngân hàng L2 không cho tất toán khoản tiền vay của bị cáo Vũ Trung K và đã tạm giữ chiếc xe ô tô của bị cáo. Không thực hiện được việc chuyển nhượng xe ô tô, bị cáo đã viết giấy hẹn ngày 03/4/2023 trả tiền cho bị hại nhưng đến ngày hẹn trả tiền cho ông H1, bị cáo đã không trả tiền mà còn trốn tránh việc trả lại tiền (tài sản), chiếm đoạt của ông H1 số tiền 500.000.000 đồng. Vì vậy, Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang đã xét xử bị cáo Vũ Trung K phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2.2] Về tính chất, mức độ thực hiện hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhưng vẫn cố ý thực hiện tội phạm nên phải chịu trách nhiệm đối với hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra.

[2.3] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy: Bị cáo có một tiền án nên phải chịu tình tiết tăng nặng quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của bản thân; sau khi phạm tội, bị cáo đã tác động đến gia đình bồi thường toàn bộ số tiền chiếm đoạt cho bị hại và được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt tù; hiện gia đình bị cáo đang thờ cúng bác ruột của bị cáo là Liệt sỹ Vũ Xuân H3 nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa phúc thẩm, gia đình bị cáo đã xuất trình đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo có nội dung, sau khi ly hôn, vợ bị cáo đã bỏ đi đâu không rõ địa chỉ, để lại cả 02 con còn rất nhỏ cho bị cáo nuôi dưỡng; từ khi bị cáo bị bắt tạm giam, 02 con của bị cáo phải nhờ bố mẹ bị cáo chăm sóc, nuôi dưỡng nên hoàn cảnh gia đình bị cáo rất khó khăn; ngoài gia, trong quá trình chờ xét xử phúc thẩm, mặc dù hoàn cảnh gia đình bị cáo rất khó khăn nhưng bị cáo còn tác động đến gia đình giúp bị cáo nộp số tiền 10.000.000 đồng tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tuyên Quang để khắc phục một phần số tiền truy thu của Bản án hình sự sơ thẩm số 66/2022/HS-ST ngày 24/6/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang. Thể hiện một lần nữa việc bị cáo đã rất ăn năn hối cải, thái độ chấp hành pháp luật tốt hơn. Đây là tình tiết giảm nhẹ mới mà bị cáo được hưởng theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[3] Từ những phân tích, nhận định nêu trên thấy: Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Vũ Trung K về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Tuy nhiên, với các tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo được hưởng thì mức hình phạt mà cấp sơ thẩm đã áp dụng đối với bị cáo là có phần nghiêm khắc; bên cạnh đó, do bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ mới nên Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm nêu trên theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội và của Luật su bào chữa để giảm nhẹ cho bị cáo thêm một phần hình phạt, nhằm thể hiện chính sách nhân đạo, khoan hồng của pháp luật; giúp bị cáo tích cực cải tạo, sớm có cơ hội tái hòa nhập cộng đồng, trở về làm công dân có ích cho gia đình và xã hội, sớm thực hiện được trách nhiệm chăm sóc, nuôi dạy các con của bị cáo.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[5] Về án phí: Do kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

[1] Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Vũ Trung K. Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 04/2024/HS-ST ngày 15/01/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang.

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Vũ Trung K 08 (tám) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 23/8/2023.

[2] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[3] Án phí: Bị cáo Vũ Trung K không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

66
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 275/2024/HS-PT

Số hiệu:275/2024/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:11/04/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về