Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 274/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 274/2022/HS-PT NGÀY 05/05/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 05 tháng 5 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 254/2021/TLPT-HS ngày 28 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo Phạm Thúy X do có kháng cáo của bị cáo Phạm Thúy X đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2021/HS-ST ngày 17/3/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông.

- Bị cáo có kháng cáo, không bị kháng cáo, không bị kháng nghị:

Phạm Thúy X, sinh năm 1987 tại thành phố Hải Phòng; nơi cư trú: Tổ dân phố 03, phường N, thành phố G, tỉnh Đắk Nông; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn T và bà Trần Thị H; có chồng là Nguyễn Văn G1(đã ly hôn) và 02 con; bị bắt tạm giam từ ngày 01-4-2019 - Có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Huỳnh Đ, Luật sư Văn phòng Luật sư H1 thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Đắk Nông; địa chỉ: Tổ dân phố 02, phường N, thành phố G, tỉnh Đắk Nông - Có mặt.

- Bị hại:

1. Chị Nguyễn Thị M, sinh năm 1968; địa chỉ: Tổ dân phố 02, phường N1, thành phố G, tỉnh Đắk Nông - Vắng mặt.

2. Bà Đoàn Thị L, sinh năm 1964; địa chỉ: Tổ dân phố 02, phường N2, thành phố G, tỉnh Đắk Nông - Vắng mặt.

3. Chị Tạ Quỳnh N3, sinh năm 1989; địa chỉ: Tổ dân phố 03, phường N1, thành phố G, tỉnh Đắk Nông - Vắng mặt.

4. Chị Đoàn Thị Thanh T1, sinh năm 1991; địa chỉ: Số 236, đường P, phường H2, thành phố T2, tỉnh Bình Dương - Vắng mặt.

5. Chị Nguyễn Thị Hương L1, sinh năm 1992; địa chỉ: Đội 12, xã V, huyện H3, thành phố Hà Nội - Vắng mặt.

6. Chị Nguyễn Thị T3, sinh năm 1990; địa chỉ: Tổ dân phố 1, thị trấn K, huyện Đ1, tỉnh Đắk Nông - Vắng mặt.

7. Chị Võ Thị Thanh N4, sinh năm 1977; địa chỉ: Tổ dân phố 01, phường N2, thành phố G, tỉnh Đắk Nông - Vắng mặt.

8. Chị Vi Thị Khánh H4, sinh năm 1979; địa chỉ: Tổ dân phố 03, phường N5, thành phố G, tỉnh Đắk Nông - Vắng mặt.

9. Bà Nguyễn Thị P1, sinh năm 1966; địa chỉ: Tổ dân phố 02, phường N, thành phố G, tỉnh Đắk Nông - Vắng mặt.

10. Anh Hoàng Anh T4, sinh năm 1977; địa chỉ: Tổ dân phố 2, thị trấn K, huyện Đ1, tỉnh Đắk Nông - Vắng mặt.

11. Ngân hàng V1(V1 Bank) Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lang Thành D- Chức vụ: Trưởng phòng Phòng điều tra và phòng chống gian lận - Khối Quản trị rủi ro - V1 Bank Hội sở.

Người đại diện theo ủy quyền lại: Ông Lâm Quốc T5- Chức vụ: Chuyên viên - Phòng điều tra và phòng chống gian lận, V1 Bank Hội sở (Văn bản ủy quyền số: 77/2022/UQ ngày 28-4-2022); địa chỉ: Số 89 đường L2, quận Đ1, thành phố Hà Nội - Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ngân hàng V1(V1 Bank) Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lang Thành D- Chức vụ: Trưởng phòng Phòng điều tra và phòng chống gian lận - Khối Quản trị rủi ro - V1 Bank Hội sở.

Người đại diện theo ủy quyền lại: Ông Lâm Quốc T5- Chức vụ: Chuyên viên - Phòng điều tra và phòng chống gian lận, V1 Bank Hội sở (Văn bản ủy quyền số: 77/2022/UQ ngày 28-4-2022); địa chỉ: Số 89 L2, quận Đ1, thành phố Hà Nội - Có mặt.

2. Chị Phạm Hải Y, sinh năm 1992; địa chỉ: Số 02/13/3/17 Vòng Vạn Mỹ, phường M1, quận N6, thành phố Hải Phòng - Vắng mặt.

- Người làm chứng:

1. Chị Ngô Thị L3, sinh năm 1972; địa chỉ: Tổ dân phố 03, phường N7, thành phố G, tỉnh Đắk Nông - Vắng mặt.

2. Anh Nguyễn Doãn C, sinh năm 1983; địa chỉ: Tổ dân phố 02, phường N2, thành phố G, tỉnh Đắk Nông - Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Thúy X là nhân viên phòng khách hàng của Công ty M2 tỉnh Đắk Nông, nhiệm vụ chính là phát triển thuê bao hòa mạng mới. Đến khoảng tháng 5- 2017, X nảy sinh ý định kinh doanh sim điện thoại mạng Mobifone với hình thức là đầu cơ đấu nối nhiều số thuê bao, tự trả phí, giữ số rồi bán ra thị trường kiếm lời. Để có tiền đầu tư, X đã đi vay tiền của nhiều người trả lãi ngày, trong đó vay của chị Nguyễn Thị M 150.000.000 đồng, chị Vi Thị Khánh H4 50.000.000 đồng, chị Thái Thị Hồng H5 30.000.000 đồng... nhưng lợi nhuận thu được từ kinh doanh sim không đủ để trả nợ nên số tiền nợ ngày càng tăng lên, đến hết tháng 4- 2018, X nợ người khác trên 500.000.000 đồng.

Tuy còn nợ tiền của người khác nhưng để có tiền sử dụng cho cá nhân nên X vẫn hỏi vay tiền của người khác. Khi đi hỏi vay tiền của người khác, chỗ thì X nhân danh cá nhân, chỗ thì X nhân danh Công ty M2 tỉnh Đắk Nông. Để có cơ sở đáng tin cậy, lấy được tiền của mọi người, X lên mạng xã hội zalo đặt làm giả 08 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Giấy thì X làm ký hiệu số CO 967786 tên người sử dụng đất là Phạm Thúy X, giấy thì ký hiệu số BL 649587 tên người sử dụng đất là Phan Thanh K1 và Lã Thị Kim H6, chuyển nhượng cho ông Nguyễn Văn G1và Phạm Thúy X nhằm mục đích khi người khác cho vay thì có tài sản thế chấp. Và 01 con dấu Công ty M2 tỉnh Đắk Nông. Sau khi có con dấu giả, X soạn thảo sẵn hợp đồng cho vay tiền và tự ký tên lãnh đạo Công ty vào hợp đồng. Hợp đồng thì ký tên của anh Nguyễn Văn M3- Phó Giám đốc Công ty, hợp đồng thì ký tên anh Trần Trung K1- Giám đốc Công ty. Khi nào liên hệ được người cho vay tiền thì X chụp hợp đồng cho vay tiền này gửi qua mạng xã hội zalo, messenger cho người cho vay xem, sau đó, X mang hợp đồng tới điền số tiền vay, thời hạn trả và cho người cho vay tiền ký tên xong đưa cho người vay 01 bản cất giữ làm tin. X tạo lập 03 bảng xác nhận thông tin nhân sự và thu nhập, tự ký tên Nguyễn Văn M3- Phó Giám đốc, dùng con dấu giả Công ty M2 tỉnh Đắk Nông đóng dấu để làm hồ sơ vay tiền của Ngân hàng V1(viết tắt là V1 Bank). Ngoài ra, X còn đưa ra thông tin là có khả năng xin được việc làm vào cơ quan nhà nước để lấy tiền của người khác.

Bằng phương thức, thủ đoạn trên, trong khoảng thời gian từ tháng 5-2018 đến ngày 22-01-2019, Phạm Thúy X vay, ký hợp đồng vay, viết giấy vay tiền, nhận tiền, làm hồ sơ vay vốn để lấy tiền của V1 Bank và những người cụ thể sau đây, sau đó trả một phần, còn lại chiếm đoạt:

Đối với Chị Nguyễn Thị M:

Lần thứ nhất: Ngày 21-5-2018, sau khi chị M đồng ý cho vay 150.000.000 đồng, X đem đến nhà cho chị M hợp đồng nhân danh Công ty M2 tỉnh Đắk Nông do ông Trần Trung K1- chức vụ Giám đốc ký vay chị M 150.000.000 đồng, thời hạn vay: Từ ngày 21-5-2018 đến 21-12-2018. X viết tay vào phía dưới hợp đồng nội dung: “tôi là Phạm Thúy X- số CMND 031187000339 cấp ngày 20-10-2014 tại Hải Phòng làm chứng về việc ký kết hợp đồng vay tiền mặt của bà Phạm Thị M và Mobifone tỉnh Đắk Nông, ký tên Phạm Thúy X”, chị M đưa cho X 150.000.000 đồng, lãi suất là 9.000.000 đồng/150.000.000 đồng/tháng, X trả được 63.000.000 đồng. Còn lại 87.000.000 đồng.

Lần thứ hai: Ngày 04-10-2018, X đưa hợp đồng nhân danh Công ty M2 tỉnh Đắk Nông do ông Trần Trung K1- chức vụ Giám đốc ký vay chị M 200.000.000 đồng, thời hạn vay 01 tháng, lãi suất 4.000 đồng/triệu/ngày, chị Mđưa cho X 200.000.000 đồng, đến ngày 23-12-2018 X đã trả được 64.000.000 đồng, còn lại 136.000.000 đồng.

Lần thứ 3: Ngày 30-10-2018, X tiếp tục hỏi vay chị M 200.000.000 đồng để mua đất làm trụ sở Công ty thì chị M đồng ý, X đưa đến nhà chị M hợp đồng nhân danh Công ty M2 tỉnh Đắk Nông do ông Trần Trung K1- chức vụ Giám đốc ký vay chị Msố tiền nêu trên, thời hạn vay từ ngày 30-10-2018 đến ngày 18- 11-2018, lãi suất 4.000 đồng/triệu/ngày. Chị M đưa cho X 200.000.000 đồng, đến ngày 30-12-2018, X đã trả được 48.000.000 đồng, còn lại 152.000.000 đồng.

Lần thứ 4: Ngày 03-12-2018, X đến nhà chị M nói thế chấp cho chị M đất và nhà X đang ở vay 200.000.000 đồng cho Công ty M2 tỉnh Đắk Nông để phục vụ kinh doanh, hiện nay Công ty đã làm thủ tục vay Ngân hàng rồi nhưng do cuối năm nên Ngân hàng đang lo thu hồi vốn, phải ra tết năm 2019 mới được giải N4 rồi sẽ trả hết toàn bộ cho chị M, X đưa giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BL 649587 giả cho chị M. Chị M đưa cho X 200.000.000 đồng, thỏa thuận lãi suất 4.000 đồng/triệu/ngày. X trả được cho chị M 8.000.000 đồng, còn lại 192.000.000 đồng.

Như vậy, từ ngày 21-5-2018 đến ngày 03-12-2018, Phạm Thúy X đã sử dụng 03 hợp đồng cho vay tiền nhân danh Công ty M2 tỉnh Đắk Nông và 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả lấy được của chị Nguyễn Thị M tổng số tiền là 750.000.000 đồng, X đã trả được 183.000.000 đồng, còn lại 567.000.000 đồng.

Đối với chị Vi Thị Khánh H4:

Khoảng tháng 5 năm 2018, X đến nhà hỏi vay chị H4 350.000.000 đồng để làm ăn, lãi suất 5.000 đồng/triệu/ngày, thời hạn vay 01 tháng, 10 ngày trả lãi một lần, chị H4 đồng ý đưa tiền mặt cho X, X viết giấy vay tiền đưa cho chị H4. Đến tháng 7-2018, X tiếp tục gọi điện thoại hỏi vay chị H4 250.000.000 đồng để làm ăn, thỏa thuận lãi suất 10.000 đồng/triệu/ngày, thời hạn vay là 20 ngày thì chị H4 đồng ý, trong ngày chị H4 giao cho X 250.000.000 đồng, X viết giấy vay tiền đưa cho chị H4. Các khoản vay này đến hạn chị H4 đòi tiền, từ ngày 05-9- 2018 đến 08-01-2019 X chuyển khoản 05 lần vào số tài khoản của chị H4 số 63510000408142 mở tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh tỉnh Đắk Nông để trả cho chị H4 được 128.000.000 đồng, còn lại 472.000.000 đồng X không trả được nên ngày 03-12-2018 X viết giấy nhận tiền đưa cho chị H4 thể hiện nội dung: X nhận của chị H4 số tiền 600.000.000 đồng để xin cho chị H4 vào công chức Sở Văn hóa - Thể thao và Du L, hẹn tới ngày 03-6-2019 X sẽ đưa quyết định cho chị H4, nếu không xin được X sẽ hoàn trả số tiền này cho chị H4. Đến ngày 24-01-2019, X viết giấy khất nợ đến ngày 29-01- 2019 sẽ trả cho chị H4 700.000.000 đồng rồi X bỏ trốn khỏi địa phương.

Đối với bà Đoàn Thị L: Sau khi bà L đồng ý cho vay 200.000.000 đồng, ngày 06-7-2018, X đưa đến nhà bà L hợp đồng nhân danh Công ty M2 tỉnh Đắk Nông do ông Trần Trung K1- chức vụ Giám đốc ký vay bà L số tiền nêu trên, thời hạn vay 20 ngày, lãi suất 03%/tháng, bà L đưa cho X 200.000.000 đồng. Đến hạn trả tiền, X không trả mà ngày 28-7-2018, X tạo lập hợp đồng giả mạo khác thể hiện hạn trả là ngày 06-8-2018, X ký tên mình vào mục người bảo lãnh rồi đưa cho bà L. Đến hạn, X không trả được nợ cho bà L nên X viết vào hợp đồng là X mượn lại số tiền trên 10 ngày tới 16-8-2018 rồi đưa lại cho bà L. Sau đó, hết thời hạn vay tiền thì X lại tạo lập hợp đồng mới đưa cho bà L.

Đến khoảng giữa tháng 7-2018, X hỏi vay bà L 700.000.000 đồng để Công ty M2 tỉnh Đắk Nông mua đất làm trụ sở ở huyện Krông Nô, cần tiền gấp vì mảnh đất đó Viettel đang tranh giành mua, X hứa là sau khi mua đất xong, Công ty sẽ thế chấp vay tiền Ngân hàng trả nợ cho bà L. Bà L nói chỉ có 300.000.000 đồng nên X đưa 01 hợp đồng Công ty M2 tỉnh Đắk Nông, đại diện là ông Trần Trung K1- chức vụ Giám đốc ký vay bà L300.000.000 đồng, thời hạn vay 03 tháng, lãi suất 03%/tháng cho bà L. Bà L đưa cho X 300.000.000 đồng. Sau khi hết hiệu lực thời hạn vay, X làm lại các hợp đồng như trước nhưng ghi thời hạn mới đưa cho bà L. Đến hạn, X đều trả lãi đầy đủ, tổng cộng X đã trả được 100.000.000 đồng, Đến đầu tháng 01-2019, X nói với bà L là X không muốn làm ăn chung với ông K1 nữa, làm hợp đồng như trên rườm rà, X muốn xin lại hợp đồng vay tiền, X sẽ viết lại giấy vay tiền cho bà L thì bà L đồng ý. Sau đó, X đến nhà bà L viết 01 giấy vay tiền đề ngày 04-01-2019, nội dung X vay bà L số tiền 200.000.000 đồng và 01 giấy vay tiền đề ngày 09-01-2019, X vay bà L 300.000.000 đồng, bà L giao lại cho X 02 hợp đồng giả mạo vay của bà L tổng cộng 500.000.000 đồng nêu trên. Sau khi lấy lại hợp đồng từ bà L, X đưa về cất vào tủ cá nhân ở Công ty M2 tỉnh Đắk Nông.

Như vậy, từ ngày 06-7-2018 đến đầu tháng 8-2018, Phạm Thúy X đã sử dụng 02 hợp đồng nhân danh Công ty M2 tỉnh Đắk Nông vay tiền, lấy được của bà L tổng cộng 500.000.000 đồng, X đã trả được 100.000.000 đồng, còn lại 400.000.000 đồng.

Đối với chị Tạ Quỳnh N3:

Lần thứ nhất: Vào ngày 26-7-2018, thời điểm này X đã nợ người khác hơn 02 tỷ đồng, thu nhập từ lương chỉ được 7.600.000 đồng/tháng, việc kinh doanh sim đang bị thua lỗ. X biết chị N3 có tiền cho vay nên X nhắn tin hỏi vay chị N3 50.000.000 đồng để làm ăn. Sáng ngày 27-7-2018, chị N3 đưa cho X 25.000.000 đồng và ngày 31-7-2018, chị N3 chuyển 25.000.000 đồng cho X vào số tài khoản 63510000228872 của X mở tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh tỉnh Đắk Nông. X viết hợp đồng vay tiền cho chị N3, hạn trả ngày 25-8-2018, X chỉ trả lãi đến tháng 10-2018 được 4.500.000 đồng, còn lại 44.500.000 đồng X không trả.

Lần thứ 2: Ngày 09-8-2018, sau khi chị N3 đồng ý cho vay 300.000.000 đồng, X đưa đến nhà cho chị N3 hợp đồng nhân danh Công ty M2 tỉnh Đắk Nông do ông Nguyễn Văn M3- Phó Giám đốc làm đại diện ký vay của chị N3 số tiền nêu trên, thời hạn vay 01 tháng. Do chị N3 có thể cho vay thêm 330.000.000 đồng nữa nên X tiếp tục đưa thêm 01 hợp đồng cho vay tiền hình thức như trên, nội dung vay chị N3 330.000.000 đồng, X ký tên bảo lãnh vào các hợp đồng cho chị N3. Chị N3 đưa cho X 630.000.000 đồng, thỏa thuận lãi suất 03%/tháng. X đã trả được cho chị N3 38.000.000 đồng, còn lại 592.000.000 đồng.

Lần thứ 3: Ngày 08-10-2018, X nhắn tin hỏi vay chị N3 200.000.000 đồng cho lãnh đạo Công ty M2 tỉnh Đắk Nông. Do lần vay trước có hợp đồng đại diện Công ty M2 tỉnh Đắk Nông ký tên đóng dấu, X ký tên người bảo lãnh nên chị N3 nộp tiền vào tài khoản của X số 63510000228872 mở tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh tỉnh Đắk Nông 50.000.000 đồng, lãi suất 03%/tháng. X đã trả được 1.500.000 đồng, còn lại 48.500.000 đồng.

Lần thứ 4: Ngày 25-11-2018, X nhắn tin qua Messenger hỏi vay chị N3 100.000.000 đồng cho lãnh đạo Công ty M2 tỉnh Đắk Nông, X gửi hình chụp tại phòng giao dịch của Mobifone và nói là đang làm chương trình trong Tuy Đức mà thiếu tiền. Chiều ngày 27-11-2018, chị N3 nhờ bạn tên là Nguyễn Đức H4 nộp 50.000.000 đồng vào tài khoản nêu trên cho X, thỏa thuận lãi suất và thời hạn vay như các lần trước.

Lần thứ 5: Đến khoảng 19 giờ 30 phút ngày 27-11-2018, X mang theo 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả số BL 649587 đến nhà chị N3 nói đây là giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của gia đình X đang ở rồi hỏi vay chị N3 100.000.000 đồng để làm ăn. Chị N3 đưa cho X 100.000.000 đồng. X viết giấy vay tiền theo mẫu có sẵn rồi đưa cho chị N3, thời hạn và lãi suất như các lần vay trước. Đến hạn trả nợ, chị N3 đòi tiền, X trả được 4.500.000 đồng, còn lại 145.500.000 đồng không trả cho chị N3.

Như vậy, từ ngày 31-7-2018 đến ngày 27-11-2018, Phạm Thúy X đã dùng 02 hợp đồng cho vay tiền nhân danh Công ty M2 tỉnh Đắk Nông, 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả, lấy được của chị N3 tổng cộng 880.000.000 đồng, X trả được 48.500.000 đồng, còn lại 831.500.000 đồng.

Đối với chị Đoàn Thị Thanh T1:

Lần thứ nhất: Đầu tháng 9-2018, X gọi điện cho chị T1 nói là X được lãnh đạo Công ty M2 tỉnh Đắk Nông ưu ái cho làm ăn thêm về kinh doanh sim, thẻ cào điện thoại nên hỏi vay chị T1 300.000.000 đồng, chị T1 đồng ý cho X vay 300.000.000 đồng, thời hạn 03 tháng, lãi suất là 54.000.000 đồng. Đến ngày 10-9- 2018, X đưa hợp đồng Công ty M2 tỉnh Đắk Nông do ông Trần Trung K1- chức vụ Giám đốc làm đại diện ký vay của chị T1 354.000.000, chị T1 nộp vào tài khoản nêu trên của X 300.000.000 đồng.

Lần thứ hai: Ngày 15-9-2018, X tiếp tục gọi điện cho chị T1 nói là Công ty M2 tỉnh Đắk Nông đang cần tiền để mua đất xây trạm thu phát sóng (BTS) tại huyện K’rông Nô, tỉnh Đắk Nông hỏi vay chị T1 số tiền 500.000.000 đồng, sau khi mua được sẽ thế chấp vay Ngân hàng trả lại cho chị T1. Đến ngày 20-9- 2018, X viết 01 giấy mượn tiền thể hiện ông Trần Trung K1- chức vụ Giám đốc Công ty M2 tỉnh Đắk Nông mượn của chị T1 540.000.000 đồng, hẹn sau 10 ngày trả, rồi X chụp gửi qua messenger cho chị T1 xem trước. Sau đó, X chụp hợp đồng Công ty M2 tỉnh Đắk Nông do ông Trần Trung K1 làm đại diện ký vay của chị T1 540.000.000 đồng, trong đó: 500.000.000 đồng là tiền gốc, 40.000.000 đồng là tiền lãi, thời hạn vay 10 ngày, gửi qua messenger cho chị T1 xem. Chiều cùng ngày, chị T1 nộp vào tài khoản của X 500.000.000 đồng. Đến hạn, X trả được cho chị T1 100.000.000 đồng.

Lần thứ 3: Ngày 20-9-2018, X tiếp tục hỏi vay chị T1 300.000.000 đồng để mua thửa đất thứ hai, chị T1 đồng ý và hẹn sẽ đến tỉnh Đắk Nông đưa tiền cho X. Đến ngày 24-9-2018, chị T1 đến một quán cà phê tại thành phố G, tỉnh Đắk Nông gặp X. Tại đây, X đưa cho chị T1 01 bản hợp đồng vay 540.000.000 giống như bản mà X đã gửi ảnh qua messenger trước đó và 01 bản hợp đồng Công ty M2 tỉnh Đắk Nông do ông Trần Trung K1- chức vụ Giám đốc làm đại diện ký vay chị T1 345.000.000 đồng, trong đó 300.000.000 đồng là tiền gốc, 45.000.000 đồng tiền lãi. Chị T1 giao cho X 300.000.000 đồng. Đến hạn, X trả được cho chị T1 100.000.000 đồng.

Lần thứ 4: Sau các lần vay tiền với danh nghĩa của Công ty M2 tỉnh Đắk Nông thành công thì X tiếp tục nói với chị T1 là Công ty cần vốn kinh doanh, giải quyết việc cho Công ty, anh K1 đứng ra chịu trách nhiệm, X sẽ thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất BL 649587 cho chị T1 để vay tiền. Từ ngày 09-10-2018 đến ngày 20-12-2018, chị T1 đã đưa cho X tổng cộng 1.550.000.000 đồng, trong đó: Chị T1 chuyển khoản và nộp tiền vào số tài khoản của X 04 lần là 602.000.000 đồng, còn lại đưa tiền mặt là 948.000.000 đồng. Đến ngày 25-12- 2018, X đã gộp nhiều khoản vay lại rồi viết giấy vay tiền cho chị T1 thể hiện nội dung X vay chị T1 1.550.000.000 đồng, X thế chấp cho chị T1 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả số BL 649587 hẹn sau 01 tháng X sẽ hoàn trả đủ số tiền trên. Khoảng 01 tuần sau, X mượn lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất BL 649587 để đi vay tiền trả cho chị T1, chị T1 đưa cho X nhưng X không viết giấy mượn lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đến hạn, X chuyển khoản trả được cho chị T1 373.650.000 đồng, còn lại X không trả.

Như vậy, từ ngày 10-9-2018 đến ngày 20-12-2018, Phạm Thúy X đã sử dụng 02 hợp đồng nhân danh Công ty M2 tỉnh Đắk Nông, 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả lấy được của chị T1 tổng cộng 2.650.000.000 đồng, X trả được 573.650.000 đồng, còn lại 2.076.350.000 đồng.

Đối với anh Hoàng Anh T4: X quen biết anh T4 từ khoảng năm 2015, quá trình quen biết giữa X và anh T4 không xảy ra mâu thuẫn gì với nhau, X nhiều lần vay tiền của anh T4 đến hạn trả đầy đủ gốc và lãi. Vào tháng 9 năm 2018, thời điểm này X nợ người khác khoảng 03 tỷ đồng không có khả năng trả nhưng X vẫn đến nhà gặp anh T4 hỏi vay 500.000.000 đồng để Công ty M2 tỉnh Đắk Nông kinh doanh sim điện thoại, lãi suất 7.000 đồng/triệu/ngày. X viết giấy vay tiền cho anh T4 với tư cách là người đại diện của Công ty M2 tỉnh Đắk Nông, dùng con dấu giả Công ty M2 tỉnh Đắk Nông đóng dấu vào giấy vay tiền rồi đưa cho anh T4, anh T4 tin tưởng đưa cho X 500.000.000 đồng. Đến nay, X không trả tiền cho anh T4. Anh T4 làm thất lạc giấy vay tiền không có để giao nộp cho cơ quan tiến hành tố tụng.

Đối với chị Nguyễn Thị Hương L1:

Lần thứ nhất: Vào ngày 29-11-2018, X đã nợ nhiều người số tiền hơn 3.600.000.000 đồng không có khả năng trả nhưng X vẫn gọi điện cho chị L1 hỏi vay 50.000.000 để kinh doanh sim điện thoại, X hứa thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho chị L1 , trong ngày 29-11-2018, chị L1 nộp vào số tài khoản nêu trên của X 50.000.000 đồng.

Lần thứ thứ 2: Sau khi nhận được tiền chị L1 chuyển của lần vay thứ nhất, X báo cho chị L1 biết rồi tiếp tục hỏi vay thêm 250.000.000 đồng và nói với chị L1 là sẽ có lãnh đạo Công ty M2 tỉnh Đắk Nông đứng ra ký giấy tờ vay tiền cho chị L1 , X sẽ cùng ký tên bảo lãnh trong đó. X gửi cho chị L1 ảnh hợp đồng Công ty M2 tỉnh Đắk Nông đại diện là ông Nguyễn Văn M3- chức vụ Phó Giám đốc ký vay chị L1 250.000.000 đồng, thời hạn vay từ ngày 30-11-2018 đến 10- 12-2018, X ký tên mình vào phần người bảo lãnh, X hứa gửi hợp đồng vay tiền này và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của X cho chị L1 qua dịch vụ chuyển phát của Bưu điện. Ngày 30-11-2018, chị L1 nộp vào tài khoản của X 250.000.000 đồng, thỏa thuận lãi suất 2.000 đồng/triệu/ngày. Đến đầu tháng 12- 2018, chị L1 nhận được hợp đồng giống như ảnh X gửi trước đó và một giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả số BL 649587.

Lần thứ 3: Vào ngày 06-12-2018, X tiếp tục gọi điện thoại cho chị L1 hỏi vay 260.000.000 đồng để đầu tư kinh doanh sim điện thoại, ngày 07-12-2018, chị L1 tiếp tục nộp vào tài khoản cho X 260.000.000 đồng, thỏa thuận lãi suất như lần trước.

Lần thứ 4: Ngày 18-12-2018, X nhắn tin qua zalo cho chị L1 nói là vay chị L1 thêm 100.000.000 đồng, sáng mai X bay ra Hà Nội rồi viết giấy, cầm sổ đỏ cho chị L1 để X bắn về chi nhánh, chị L1 có thể chuyển khoản vào tài khoản của X hoặc chuyển về cho cơ quan hoặc tài khoản của “sếp” (lãnh đạo Công ty M2tỉnh Đắk Nông), trong ngày 18-12-2018, chị L1 chuyển khoản vào tài khoản của X 100.000.000 đồng.

Lần thứ 5: Cũng trong ngày 18-12-2018, X tiếp tục nhắn tin qua zalo cho chị L1 hỏi vay 100.000.000 đồng để lãnh đạo Công ty M2 tỉnh Đắk Nông kinh doanh sim. Ngày 19-12-2018, chị L1 chuyển vào tài khoản của X 100.000.000 đồng.

Đến hạn trả các khoản vay, chị L1 đòi tiền thì X trả được 50.000.000 đồng. Số tiền còn lại X nói là Công ty sẽ trả tiền cho chị L1 với điều kiện X lấy lại hợp đồng cho vay tiền để làm căn cứ xuất tiền, X sẽ viết lại giấy vay tiền với tư cách cá nhân cho chị L1 , sẽ có tài xế của Công ty M2 tỉnh Đắk Nông đến lấy thì chị L1 đồng ý. Sau đó, chị L1 đến Văn phòng Công chứng Toàn Tâm tại thị trấn Quốc Oai, Thành phố Hà Nội sao y bản chính hợp đồng cho vay tiền 250.000.000 đồng có chữ ký anh M3, có dấu Công ty M2 tỉnh Đắk Nông. Đến ngày 11-01-2019 có một người đàn ông khoảng 30 tuổi xưng là tài xế của Công ty M2 tỉnh Đắk Nông đến nhà đưa cho chị L1 hợp đồng vay tiền, X ký bên vay rồi chị L1 đưa cho người đàn ông này hợp đồng cho vay tiền 250.000.000 đồng nêu trên để đưa về cho X. Sau đó, chị L1 không liên lạc được với X để đòi nợ. Ngày 24-01-2019, chị L1 tố cáo X và giao nộp cho Cơ quan điều tra 01 bản công chứng hợp đồng vay tiền giả mạo và 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả số BL 649587.

Như vậy, từ ngày 29-11-2018 đến ngày 19-12-2018, Phạm Thúy X đã sử dụng 01 hợp đồng nhân danh Công ty M2 tỉnh Đắk Nông, 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả số BL 649587, lấy được của chị L1 tổng cộng 760.000.000 đồng. Đến hạn X trả được 50.000.000 đồng, còn lại 710.000.000 đồng không trả cho chị L1 .

Đối với Ngân hàng V1(viết tắt là V1 Bank):

Vào khoảng đầu tháng 8-2018, X quen biết với anh Tạ Nguyên T6(cán bộ tín dụng V1 Bank). X hỏi anh T6 vay tiền Ngân hàng dạng tín chấp qua lương. Anh T6 tư vấn cho X vay tín chấp số tiền gấp 10 lần thu nhập, biểu mẫu hồ sơ anh T6 sẽ cung cấp và hướng dẫn cách viết, tạo hồ sơ vay vốn, phải có xác nhận của lãnh đạo Công ty M2 tỉnh Đắk Nông về công việc, chức vụ, mức thu nhập rồi sau đó, anh T6 gửi các biểu mẫu hồ sơ qua thư điện tử cho X. Sau đó, X tạo lập 03 hồ sơ vay vốn, gồm: 02 hồ sơ mỗi hồ sơ vay 100.000.000 đồng và 01 hồ sơ vay 50.000.000 đồng, thời hạn vay 36 tháng, X làm giả 01 bảng xác nhận nhân sự nội dung X là Trưởng phòng khách hàng doanh nghiệp của Công ty M2 tỉnh Đắk Nông, mức thu nhập trên 25.000.000 đồng 01 tháng, giả chữ ký của anh Nguyễn Văn M3- chức vụ Phó Giám đốc Công ty, dùng con dấu giả nêu trên đóng dấu và bỏ vào 01 hồ sơ vay vốn, các hồ sơ còn lại sẽ được anh T6 tự đối chiếu và sao y.

Cũng với thủ đoạn như trên, X có một người em ruột tên Phạm Hải Y, mặc dù không phải là nhân viên Công ty M2 tỉnh Đắk Nông, nhưng X vẫn nói với anh T6 là cho Y vay vốn tín chấp 150.000.000 đồng. X gặp Y và đề nghị Y giúp cho X vay tiền bằng cách ghi một số thông tin trong hồ sơ vay vốn và ký vào các mục bắt buộc người vay phải ký. X nói với Y là sẽ nhờ lãnh đạo Công ty M2 tỉnh Đắk Nông xác nhận cho Y là nhân viên của Công ty, với chức vụ Phó Trưởng phòng bán hàng, mức thu nhập trên 15.000.000 đồng 01 tháng, tiền vay được X sẽ lấy, X có trách nhiệm trả tiền hàng tháng cả lãi và gốc cho Ngân hàng cho đến hết nợ. Y đồng ý giúp cho X tạo lập 02 hồ sơ giả mạo, gồm 01 hồ sơ vay 100.000.000 đồng, 01 hồ sơ vay 50.000.000 đồng, thời hạn vay 36 tháng, trong đó, X làm giả 01 bảng xác nhận nhân sự, nội dung xác nhận Y là Phó phòng bán hàng Công ty M2 tỉnh Đắk Nông, mức thu nhập trên 15.000.000 đồng 01 tháng, giả chữ ký của anh Nguyễn Văn M3, dùng con dấu giả nêu trên đóng dấu và đưa vào hồ sơ vay vốn của Y. X dặn Y, nếu nhân viên Ngân hàng điện thoại xác minh thì cứ trả lời như thông tin trong hồ sơ.

Đến đầu tháng 9-2018, Y mang các hồ sơ của X và của Y đến V1 Bank tại Thành phố Hồ Chí Minh bàn giao. Sau khi tiếp nhận các hồ sơ, anh T6 đã liên lạc với X, Y để hỏi một số thông tin khác có liên quan để anh T6 ghi vào hồ sơ của X, Y cho đầy đủ. Sau đó anh T6 đã chuyển hồ sơ lên hệ thống Ngân hàng . Nhân viên của bộ phận thẩm tra của Ngân hàng đã gọi điện thoại theo số điện thoại 02613556888 của Phòng khách hàng doanh nghiệp Công ty M2 tỉnh Đắk Nông để xác minh thông tin có đúng như trong hồ sơ vay vốn của X, Y không. Tất cả các cuộc gọi đến số điện thoại này đều do X nghe và trả lời xác minh đúng như trong 05 hồ sơ vay của X, Y. Từ ngày 04-9-2018 đến 17-9-2018, Ngân hàng V1 Bank đã giải N4 cho X, Y theo 05 hồ sơ nêu trên với tổng số tiền 400.000.000 đồng. Số tiền 250.000.000 đồng theo 03 hồ sơ của X, X đã rút và sử dụng vào mục đích cá nhân, số tiền 150.000.000 đồng theo 02 hồ sơ của Y, Y đã rút và giao hết cho X.

Sau khi lấy được tiền của V1 Bank, đối với khoản vay 3 hồ sơ 250.000.000 đồng do X đứng tên, X trả cho Ngân hàng được 9.109.132 đồng. Đối với 02 hồ sơ vay 150.000.000 đồng do Y đứng tên, X trả được 11.273.219 đồng, tổng cộng X trả được 20.382.351 đồng, còn lại 379.617.649 đồng.

Đối với chị Nguyễn Thị T3:

Lần thứ nhất: Ngày 16-10-2018, X nhắn tin qua zalo hỏi vay chị T3 400.000.000 đồng. Chị T3 nói là phải đi vay lại của người khác nên lãi 4.000 đồng/triệu/ngày thì X đồng ý. Đến ngày 24-10-2018, X đưa giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả BL 649587 cho chị T3, chị T3 chuyển 400.000.000 đồng vào số tài khoản nêu trên của X. X viết giấy thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BL 649587 cho chị T3. Sau đó X trả được 140.800.000 đồng, còn lại 259.200.000 đồng.

Lần thứ 2: Vào đầu tháng 01-2019, X hỏi vay của T3 200.000.000 đồng cho Công ty M2 tỉnh Đắk Nông mua sim, thẻ cào, T3 yêu cầu phải có tài sản thế chấp. Đến ngày 08-01-2019, X đưa cho chị T3 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả số CO 967786, chị T3 đưa cho X vay 200.000.000 đồng. X viết cho chị T3 giấy mượn tiền, thể hiện nội dung X thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CO 967786, thỏa thuận lãi suất như lần vay trước. Khoảng 02 ngày sau, X mượn lại chị T3 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên, chị T3 đồng ý và bí mật đánh dấu bằng bút chì vào 3 góc của mặt sau cùng giấy chứng nhận này rồi đưa cho X. Hai ngày sau, X gửi xe buýt xuống cho chị T3 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CO 967786 là giấy khác nhưng X nói là con của X đã xóa các ký hiệu mà chị T3 đã đánh dấu nên chị T3 không nghi ngờ gì. Sau đó, X trả được 9.600.000 đồng, còn lại 190.400.000 đồng.

Lần thứ 3: Vào khoảng giữa tháng 12-2018, X nói với chị T3 là Công ty M2 tỉnh Đắk Nông có mối quan hệ rất thân thiết với V1 Bank nếu có nhu cầu vay vốn thì X sẽ giúp vay tín chấp. X có thể làm hồ sơ khống cho chị T3 là Trưởng phòng của Mobifone tỉnh Đắk Nông, X đã trao đổi với anh M3 - Giám đốc rồi, tối đa vay được 250.000.000 đồng hỗ trợ làm nhà cho nhân viên Mobifone. Sau khi vay được tiền thì chị T3 cho X vay lại, X sẽ trả lãi suất cao hơn Ngân hàng , coi như T3 được hưởng tiền lãi chênh lệch thì chị T3 đồng ý. Ngày 13-12-2018, X gửi thư điện tử cho T3 các biểu mẫu hồ sơ vay vốn, X gửi số điện thoại của anh Tạ Nguyên T6 cho T3 để liên lạc. T3 in biểu mẫu rồi liên lạc với anh T6 để được hướng dẫn viết một số thông tin và ký tên vào những chỗ bắt buộc, các nội dung khác trong hồ sơ anh T6 sẽ viết giúp, thời hạn vay là 36 tháng. X làm giả bảng xác nhận thông tin nhân sự và thu nhập, T3 giữ chức vụ Trưởng phòng bán hàng và Marketting, mức lương trên 26.000.000 đồng 01 tháng. Sau đó, X đưa cho T3 tài liệu này để T3 bỏ vào hồ sơ vay vốn. X dặn T3 nếu nhân viên Ngân hàng gọi điện đến T3 để xác minh, T3 phải trả lời cho đúng như thông tin ghi trong hồ sơ vay vốn. Đến ngày 10-01-2019, T3 gửi hồ sơ vay vốn xuống Thành phố Hồ Chí Minh cho anh T6 theo đường Bưu điện. Đến ngày 15-01-2019, V1 Bank thông báo hồ sơ của T3 đã được duyệt cho giải N4. Ngày 18-01-2019, T3 đến Chi nhánh V1 Bank tỉnh Đắk Lắk rút tiền. Đến ngày 22-01- 2019, T3 thông báo cho X đến tiệm sửa xe ô tô của T3 tại xã Nhân Cơ, huyện Đ1, tỉnh Đắk Nông để nhận tiền. T3 và X thống nhất: T3 cho X vay 250.000.000 đồng như đã thỏa thuận, X dùng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CO 967786 để thế chấp vay số tiền này. X viết giấy mượn tiền cho T3, nội dung X thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CO 967786 để vay của T3 250.000.000 đồng. Sau đó, T3 đưa 50.000.000 đồng tiền mặt cho X và chuyển vào tài khoản của X 200.000.000 đồng. Đến hạn trả tiền chị T3 trả đầy đủ cho Ngân hàng hàng tháng. X trả được cho chị T3 15.000.000 đồng còn lại 235.000.000 đồng.

Như vậy, từ ngày 24-10-2018 đến ngày 22-01-2019, Phạm Thúy X sử dụng 01 hợp đồng nhân danh Công ty M2 tỉnh Đắk Nông, 01 bảng xác nhận thông tin nhân sự và thu nhập giả Công ty M2 tỉnh Đắk Nông, 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả lấy được của chị T3 tổng cộng 850.000.000 đồng, X trả được 165.400.000 đồng, còn lại 684.600.000 đồng X không trả.

Đối với bà Nguyễn Thị P1: Vào tháng 10-2018, X nhờ chị Ngô Thị L3 (là bạn của X) dẫn đến nhà bà P1 vay 300.000.000 đồng, đến hạn X trả tiền gốc và lãi đầy đủ cho bà P1. Đến ngày 18 tháng 12 năm 2018, X tiếp tục nhờ chị L1 dẫn đến quán cà phê Trúc Xanh ở tổ 2, phường N, thành phố G gặp bà P1 hỏi vay 300.000.000 đồng để kinh doanh sim điện thoại Mobifone, bà P1 yêu cầu phải có tài sản thế chấp nên X đưa cho bà P1 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả số BL 649587. Bà P1 đưa cho X 300.000.000 đồng, X viết giấy vay tiền theo mẫu đã soạn sẵn thể hiện: ngày 18-12-2018, thời hạn trả là ngày 25-01- 2019, chưa thỏa thuận lãi suất. Đến nay, X không trả tiền cho bà P1.

Đối với chị Võ Thị Thanh N4:

Lần thứ nhất: Vào ngày 06-11-2018, X đến nhà chị N4 hỏi vay 300.000.000 đồng cho Công ty M2 tỉnh Đắk Nông kinh doanh, chị N4 yêu cầu phải có tài sản thế chấp mới cho vay tiền. Đến ngày 08-11-2018, X đưa cho chị N4 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả số BL 649587, chị N4 đưa cho X 300.000.000 đồng, X viết giấy vay tiền cho chị N4 thể hiện thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BL 649587, thời hạn 20 ngày, thỏa thuận lãi suất 03%/tháng. Đến hạn, X trả đầy đủ gốc và lãi. Đến ngày 08-12-2018, X mượn lại số tiền trên 20 ngày, thỏa thuận lãi suất và thời hạn vay như lần vay ngày 08-11- 2018 nên X viết vào giấy vay này. Sau đó, vào các ngày 14-12-2018 và ngày 21- 12-2018, X chuyển vào số tài khoản 63510000107917 của chị N4 mở tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh tỉnh Đắk Nông 03 lần để trả cho chị N4 được 59.200.000 đồng, còn lại 240.800.000 đồng X không trả cho chị N4.

Lần thứ 2: Ngày 26-12-2018, X tiếp tục đến nhà hỏi vay chị N4 400.000.000 đồng để làm ăn, chị N4 yêu cầu phải có tài sản thế chấp nên X về mượn lại chị T3 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CO 967786 mà X đã thế chấp cho chị T3rồi đưa đến cho chị N4. Chị N4 đưa cho X 400.000.000 đồng. X viết giấy mượn tiền cho chị N4 thể hiện X thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CO 967786 cho chị N4 để vay 400.000.000 đồng, thời hạn 20 ngày, thỏa thuận lãi suất 03%/tháng. Đến hạn, X trả đủ gốc và lãi. Sau đó, X đến vay lại số tiền này của chị N4, thỏa thuận lãi suất như các lần vay trước, thời hạn trả đến ngày 20-02-2019.

Như vậy từ ngày 08-11-2018 đến ngày 26-12-2018, Phạm Thúy X sử dụng 02 giấy chứng nhận quyền sử đất giả để lấy được của chị N4 tổng cộng 700.000.000 đồng, X trả được 59.200.000 đồng, còn lại X chiếm đoạt 640.800.000 đồng.

Các kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Nông, gồm: số 30, ngày 07-3-2019, số 101, ngày 10-01-2019, số 186, ngày 29- 11-2019, số 187, ngày 25-11-2019, số 02 ngày 15-02-2020 và số 65, ngày 10-5- 2020 kết luận: 08 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên không phải do cơ quan Nhà nước phát hành; Chữ ký ghi họ và tên Nguyễn Văn M3, Trần Trung K1 trong 17 hợp đồng cho vay tiền, trên 01 giấy vay tiền, trên 02 bản hợp đồng lao động ký kết giữa Phạm Thúy X với Công ty M2 tỉnh Đắk Nông, 03 bảng xác nhận nhân sự nêu trên không phải của ông Nguyễn Văn M3, Trần Trung K1; Hình dấu Công ty M2 tỉnh Đắk Nông trong các hợp đồng cho vay tiền và các tài liệu khác mà Công ty M2 tỉnh Đắk Nông giao nộp là do cùng một con dấu đóng ra, nhưng không phải do con dấu của Công ty M2 tỉnh Đắk Nông đóng ra; Hình dấu UBND TX. G trong các GCNQSDĐ giả: số BL 649587 do chị Nguyễn Thị Hương L1 giao nộp, số BL 649587 do chị Tạ Quỳnh N3 giao nộp, số CO 967786 do chị Võ Thị Thanh N4 giao nộp, số CO 967786 do chị Nguyễn Thị T3 giao nộp, số BL 649587 do chị Nguyễn Thị M giao nộp, là do cùng một con dấu đóng ra.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2021/HS-ST ngày 17/3/2021 và Thông báo sửa chữa, bổ sung bản án số 05/2021/TB-TA ngày 30/3/2021, Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông đã tuyên xử:

1. Tuyên bố: Bị cáo Phạm Thúy X phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” và tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; các điểm b, r, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Phạm Thúy X 17 (Mười bảy) năm tù.

Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 341; các điểm r, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Phạm Thúy X 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù.

Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 341; các điểm r, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Phạm Thúy X 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù.

Căn cứ khoản 1 Điều 55 của Bộ luật Hình sự: Buộc bị cáo Phạm Thúy X phải chấp hành hình phạt chung của 03 tội là 24 (Hai mươi bốn) năm tù, tính từ ngày bắt tạm giam ngày 01-4-2019.

2. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự: Buộc bị cáo Phạm Thúy X trả lại cho chị Nguyễn Thị M 567.000.000 đồng, bà Đoàn Thị L 400.000.000 đồng, chị Tạ Quỳnh N3 831.500.000 đồng, chị Đoàn Thị Thanh T1 2.076.350.000 đồng, chị Nguyễn Thị Hương L1 710.000.000 đồng, chị Nguyễn Thị T3 684.600.000 đồng, chị Võ Thị Thanh N4 640.800.000 đồng, bà Nguyễn Thị P1 300.000.000 đồng được trừ số tiền gia đình bị cáo đã bồi thường 20.000.000 đồng theo Biên lai thu tiền số 0001772 ngày 10-9-2020 tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đắk Nông tiếp tục bồi thường 280.000.000 đồng, chị Vi Thị Khánh H4 472.000.000 đồng, anh Hoàng Anh T4 500.000.000 đồng và Ngân hàng V1240.890.868 đồng.

Buộc chị Phạm Hải Y phải trả cho Ngân hàng V1 số tiền là 138.726.781 đồng.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành xong các khoản tiền trên thì hàng tháng bị cáo còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền chậm thi hành án tương ứng với thời gian chậm thi hành án theo quy định tại Điều 357 của Bộ luật Dân sự.

Ngoài ra, bản án còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 22/3/2021, Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông nhận được đơn kháng cáo của bị cáo Phạm Thúy X đề nghị xem xét lại số tiền mà bị cáo chiếm đoạt của các bị hại trong vụ án; đề nghị xem xét lại việc truy tố, xét xử đối với tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức; sử dụng tài liệu giả của cơ quan tổ chức” và đề nghị giảm hình phạt.

Ngày 23/3/2021, bị cáo Phạm Thúy X kháng cáo bổ sung, ngày 21/4/2021 Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh nhận được đơn kháng cáo bổ sung với nội dung: Xem xét lại số tiền bị cáo chiếm đoạt để truy tố với bị cáo. Số tiền bị cáo chiếm đoạt của các bị hại là 7.561.867.649 đồng chưa tách bạch được tổng số tiền gốc, lãi là bao nhiêu; số tiền 3.810.000.000 đồng Cơ quan cảnh sát điều tra kết luận là giao dịch dân sự nhưng cấp sơ thẩm tuyên số tiền này là tiền dùng hành vi gian dối để chiếm đoạt. Bản án sơ thẩm buộc Phạm Hải Y trả cho Ngân hàng V1 số tiền 138.726.781 đồng là không đúng vì số tiền này đã buộc bị cáo chịu trách nhiệm trong số tiền 379.617.649 đồng về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Phạm Thúy X vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo nêu trên.

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa nêu quan điểm: Kháng cáo của bị cáo X trong thời gian luật định, hợp lệ. Bị cáo là nhân viên của Công ty M2, bị cáo nợ rất nhiều người không có khả năng trả, chiếm đoạt tài sản, dùng thủ đoạn gian dối, sự tin tưởng của bị hại, đưa thông tin gian dối có khả năng xin việc. Từ tháng 5/2018 đến tháng 1/2019 bị cáo chiếm đoạt tổng cộng 8.890.000.000 đồng, đã trả 1.328.132.351 đồng, còn lại 7.561.867.649 đồng. Bị cáo đã làm giả 08 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; 01 con dấu giả Công ty M2 tỉnh Đắk Nông; lập 17 hợp đồng nhân danh Công ty M2 tỉnh Đắk Nông vay tiền; 01 giấy vay tiền chữ ký họ tên ông Trần Trung K1; 03 bảng xác nhận thông tin nhân sự và thu nhập của Công ty M2 tỉnh Đắk Nông để làm hồ sơ vay tiền của Ngân hàng V1. Hành vi của bị cáo cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 của Bộ luật Hình sự; tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” và tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo quy định tại các điểm a, b khoản 3 Điều 341 của Bộ luật Hình sự. Xét kháng cáo của bị cáo, việc truy tố xét xử bị cáo 02 tội danh tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” và tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” là phù hợp, cùng một điều luật nhưng bị cáo thực hiện hai hành vi độc lập, xét xử 02 tội là có căn cứ. Bị cáo đã lừa đảo chiếm đoạt tiền của nhiều người. Số tiền 3.810.000.000 đồng luật sư cho rằng giao dịch dân sự là không có cơ sở. Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng đầy đủ tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo. Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, đồng thời gây ảnh hưởng tới tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo có đơn xin giảm nhẹ hình phạt, có ba có công trong công tác, bị cáo chưa được Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết giảm nhẹ này. Hội đồng xét xử cân nhắc khi lượng hình. Về trách nhiệm dân sự bị cáo chiếm đoạt tiền và bị truy cứu trách nhiệm hình sự nên phải buộc bị cáo bồi thường toàn bộ. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo về trách nhiệm dân sự, tội danh xét xử bị cáo là có căn cứ.

Bị cáo trình bày: Bị cáo ăn năn hối hận về hành vi vi phạm pháp luật của bị cáo. Bị cáo sử dụng tài liệu con dấu giả. Bị cáo có thực hiện các hành vi để kéo dài thời hạn trả nợ. Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm xét xử hành vi của bị cáo là đúng quy định pháp luật. Khoản tiền dân sự là giao dịch đơn thuần thông thường. Tội danh ở Điều 341, bị cáo thực hiện hai hành vi hỗ trợ cho nhau. Bị cáo có làm giấy tờ giả, sử dụng để lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Bị cáo đã bị kết tội về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, cùng mục đích, tách ra là bất lợi cho bị cáo, xin Hội đồng xem xét giảm nhẹ hình phạt và bỏ bớt tội danh. Bị cáo còn hai con nhỏ. Bị cáo không đưa ra thông tin xin việc cho chị Khánh H4, 600 triệu là khoản vay dân sự, bị cáo vay của chị Khánh H4. Bị cáo giữ nguyên quan điểm kháng cáo. Bị cáo thừa nhận bị cáo đã sai. Kính mong Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo Luật sư Đ trình bày: Tội danh Lừa đảo chiếm đoạt tài sản là có căn cứ. Tuy nhiên, buộc bị cáo chịu tổng số tiền 8.890.000.000 đồng là chưa đảm bảo, chưa đánh giá các tình tiết liên quan, có 3.810.000.000 đồng là giao dịch dân sự. Trước khi nhận số tiền trên, bị cáo không dùng hành vi gian dối để chiếm đoạt tiền. Bị hại N4 số tiền 150.000.000 đồng là giao dịch dân sự không liên quan thủ đoạn gian dối. (BL 459, 466) bị cáo X vay tiền của N4, trước đó không đưa thông tin gì để N4 giao tiền nên 150.000.000 đồng là giao dịch dân sự.

Bị hại Khánh H4 nhận tiền xin việc làm. Bản tự khai, bản ghi lời khai, trình độ học vấn 9/12 chưa tốt nghiệp. Chị H4 không cung cấp hồ sơ tài liệu liên quan đến việc xin việc vào Sở Văn Hóa Thể Thao và Du L, không có từ ngữ nào X hứa hẹn là xin việc. Giấy ghi nợ là hợp đồng giả cách bảo đảm trả tiền cho Khánh H4.

Bị hại Anh T4: số tiền 500.000.000 đồng làm việc với T4 và đối chất. T4 có cho X vay 500.000.000 đồng, viết giấy tay, việc cá nhân giữa X và T4, không cung cấp giấy vay tiền T4 - X. Lời khai của bị cáo vay của T4, không có tài liệu nào khác, không rõ thủ đoạn gian dối, không đủ cơ sở xác định 500.000.000 đồng là hành vi lừa đảo.

Bị hại L số tiền lừa đảo 400.000.000 đồng, X vay của L 300.000.000 đồng viết giấy tay xác nhận ngày 09/01 nhưng ngày 12/3/2019 cơ quan điều tra khởi tố vụ án. Số tiền 300.000.000 đồng chưa đến thời gian trả thì đã bị bắt giam.

Bị hại T1: 2.076.350.000 đồng thì có 1.150.000.000 đồng vay mượn cá nhân liên quan đến giao dịch dân sự. T1 không đưa chứng cứ chứng minh X đưa ra thông tin gian dối.

Liên quan đến hành vi chiếm đoạt của Ngân hàng , X trực tiếp chiếm đoạt, là người trực tiếp sử dụng. Y không biết và không hưởng lợi gì. Theo Điều 48 Bộ luật Hình sự thì người phạm tội phải trả lại tài sản chiếm đoạt, cấp sơ thẩm buộc bị cáo chiếm đoạt tiền của Ngân hàng nhưng phần bồi thường thiệt hại tách ra là không đúng.

Tội danh Điều luật 341 X có làm giả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giả con dấu, giả xác nhận của Công ty. Bị cáo thực hiện một chuỗi hành vi liên quan chặt chẽ với nhau, hành vi trước sau liên quan với nhau. Tội danh ghép, xâm phạm khách thể trật tự quản lý Nhà nước. Bị cáo thực hiện hành vi trong điều luật, bị cáo chịu trách nhiệm một hành vi, phù hợp hướng dẫn của Tòa án tối cao tại Công văn 233 ngày 01/10/2019 và Công văn 212 ngày 13/9/2019. Văn bản ngày 17/4/2020 của TANDTC hành vi sử dụng giấy tờ giả để lừa đảo chiếm đoạt tài sản bị xử lý về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Việc làm giả giấy tờ, chữ ký là phương thực để thực hiện hành vi lừa đảo. Đề nghị Hội đồng xét xử chỉ buộc X chịu một mức hình phạt của Điều 341 Bộ luật Hình sự. Trong quá trình điều tra, X có nhiều tình tiết giảm nhẹ. Ở cấp phúc thẩm, bị cáo trình bày tình tiết mới Huân, Huy chương của cha ruột có nhiều thành tích trong công cuộc xây dựng Tổ Quốc, Huy chương chiến sĩ vẻ vang.

Hội đồng xét xử xem xét cân nhắc. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, chỉ buộc bị cáo chiếm đoạt số tiền 5.080.000.000 đồng, buộc bị cáo chịu một mức hình phạt của Điều 341 Bộ luật Hình sự. Bị cáo trả cho Ngân hàng số tiền 379.617.649 đồng.

Bị cáo X trình bày: Thống nhất ý kiến của luật sư bào chữa.

Đại diện Viện kiểm sát tranh luận: Số tiền luật sư cho rằng quan hệ dân sự không có cơ sở. Bị cáo tạo cho bị hại có niềm tin để chiếm đoạt. Buộc bị cáo số tiền chiếm đoạt là có căn cứ. Điều 341 Bộ luật Hình sự cùng 01 điều luật nhưng hai hành vi khác nhau truy tố 02 tội là có căn cứ. Tại thời điểm trước đó, bị cáo nợ 6 - 7 tỷ đồng, không có khả năng thanh toán, đưa ra thông tin gian dối, ý thức bị cáo biết tiếp tục vay mượn không có khả năng chi trả, có trường hợp bị cáo không có sử dụng tài liệu giả nhưng bị cáo không có khả năng chi trả. Bị cáo tiếp tục thực hiện 11 vụ vay tiền. Việc truy tố bị cáo là có căn cứ.

Bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo rất ân hận về hành vi của mình, mong Hội đồng xét xử xem xét để bị cáo nhận được sự khoan hồng của pháp luật, bị cáo có hai con nhỏ, có cơ hội sớm khắc phục hậu quả cho các bị hại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Phạm Thúy X thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung án sơ thẩm.

Bị cáo Phạm Thúy X là nhân viên của Công ty M2 tỉnh Đắk Nông, mặc dù bị cáo còn nợ tiền nhiều người không có khả năng trả nhưng vì mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác để có tiền tiêu xài cá nhân bị cáo đã tiếp cận, cố ý dùng thủ đoạn gian dối và lợi dụng sự tin tưởng của các bị hại nhằm chiếm đoạt tài sản. Ngoài ra đưa ra thông tin gian dối nhằm chứng tỏ mình là người có khả năng xin được việc cho chị Vi Thị Khánh H4 để người có nhu cầu xin việc làm tin tưởng giao tiền cho bị cáo. Vì vậy trong khoảng thời gian từ tháng 5-2018 đến ngày 22-01-2019, bị cáo đã thực hiện 11 vụ lừa đảo với tổng số tiền là tổng cộng:

8.890.000.000 đồng, X đã trả 1.328.132.351 đồng, còn lại chiếm đoạt:

7.561.867.649 đồng, trong đó: chị Nguyễn Thị M 567.000.000 đồng, bà Đoàn Thị L 400.000.000 đồng, chị Tạ Quỳnh N3 831.500.000 đồng, chị Đoàn Thị Thanh T1 2.076.350.000 đồng, chị Nguyễn Thị Hương L1 710.000.000 đồng, chị Nguyễn Thị T3 684.600.000 đồng, chị Võ Thị Thanh N4 640.800.000 đồng, chị Nguyễn Thị P1 300.000.000 đồng, chị Vi Thị Khánh H4 472.000.000 đồng, anh Hoàng Anh T4 500.000.000 đồng và Ngân hàng V1 379.617.649 đồng.

Mặt khác để có cơ sở tin cậy bị hại tin tưởng giao tiền, bị cáo đã làm giả 08 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; 01 con dấu giả Công ty M2 tỉnh Đắk Nông; lập 17 hợp đồng nhân danh Công ty M2 tỉnh Đắk Nông vay tiền; 01 giấy vay tiền chữ ký họ tên ông Trần Trung K1; 03 bảng xác nhận thông tin nhân sự và thu nhập của Công ty M2 tỉnh Đắk Nông để làm hồ sơ vay tiền của Ngân hàng V1 nhằm sử dụng vào mục đích chiếm đoạt số tiền 7.561.867.649 đồng.

[2] Xét đơn kháng cáo của bị cáo Phạm Thúy X, ý kiến của người bào chữa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy:

[2.1] Về tội danh: Bị cáo đã cung cấp thông tin, địa chỉ, điểm hẹn cho các đối tượng trên mạng xã hội để nhận các giấy tờ giả và sử dụng 08 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; 01 con dấu giả Công ty M2 tỉnh Đắk Nông; lập 17 hợp đồng nhân danh Công ty M2 tỉnh Đắk Nông vay tiền; 01 giấy vay tiền chữ ký họ tên ông Trần Trung K1; 03 bảng xác nhận thông tin nhân sự và thu nhập của Công ty M2 tỉnh Đắk Nông để làm hồ sơ vay tiền của Ngân hàng V1 nhằm sử dụng vào mục đích chiếm đoạt.

Bị cáo đã có hành vi làm giả các giấy tờ nêu trên để sử dụng trái pháp luật để chiếm đoạt tài sản nên đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Phạm Thúy X tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ. Điều 341 Bộ luật Hình sự là tội ghép. Hành vi của bị cáo X xâm phạm cùng một khách thể trật tự quản lý hành chính và một chủ thể thực hiện, với mục đích để chiếm đoạt tài sản. Hành vi làm giả các giấy tờ tài liệu là tiền để bị cáo sử dụng các tài liệu đó để chiếm đoạt tài sản. Tòa án cấp sơ thẩm tách ra xét xử buộc bị cáo hai tội của một điều luật với hai mức hình phạt là chưa phù hợp. Hội đồng xét xử chỉ buộc bị cáo chịu một mức hình phạt của Điều luật 341 Bộ luật Hình sự.

Người bào chữa cho bị cáo yêu cầu xác định số tiền 3.810.000.000 đồng là giao dịch dân sự là không có cơ sở vì trước khi lấy các khoản tiền này, X đang trong tình trạng nợ nhiều tiền từ 06 - 07 tỷ đồng, không có khả năng trả nợ nhưng vẫn đưa ra thông tin gian dối là vay tiền cho Công ty kinh doanh sim điện thoại để làm cho người bị hại tin tưởng đưa tiền cho X rồi X không trả.

[2.2] Về hình phạt: Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, đồng thời gây ảnh hưởng tới tình hình an ninh trật tự tại địa phương.

Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ đầy đủ cho bị cáo.

Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội nhiều lần nên Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo có nhân thân tốt, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo tự khai ra hành vi phạm tội đối với các bị hại bà Nguyễn Thị P1 và anh Hoàng Anh T4; ngày 10-9-2020 bị cáo đã tác động gia đình bồi thường cho bà Nguyễn Thị P1 số tiền 20.000.000 đồng; bị hại bà P1có đơn bãi nại và giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, r, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa phúc thẩm, gia đình bị cáo có bổ sung các giấy tờ sau: Ba bị cáo là Phạm Văn T được Chủ tịch nước tặng Huy chương vì chiến sĩ vẻ vang hạng nhất ngày 30/6/2007; Huy chương vì an ninh Tổ Quốc ngày 19/4/20210, Huy chương vì chiến sĩ vẻ vang hạng nhì ngày 10/3/2014 và Huy chương vì chiến sĩ vẻ vang hạng ba ngày 10/3/2014. Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự cho bị cáo.

Bị cáo làm giả các tài liệu, giấy tờ và sử dụng các giấy tờ giả nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản trên của các bị hại. Khi xem xét hình phạt cũng cần cân nhắc mức án cho phù hợp. Tòa án cấp sơ thẩm xử bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 của Bộ luật Hình sự với mức án 17 năm tù khi bị cáo có 03 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 và tại cấp phúc thẩm cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ tổng cộng là 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự là có phần nghiêm do đó Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo giảm hình phạt cho bị cáo với tội này và chỉ buộc bị cáo chịu một mức hình phạt của Điều luật 341 Bộ luật Hình sự.

[2.3] Về trách nhiệm dân sự: Số tiền bị cáo chiếm đoạt của các bị hại chỉ tính số tiền gốc, không có lãi như bị cáo trình bày. Số tiền bị cáo vay của V1 Bank, đối với khoản vay 3 hồ sơ 250.000.000 đồng do bị cáo X đứng tên, bị cáo X trả cho Ngân hàng được 9.109.132 đồng. Đối với 02 hồ sơ vay 150.000.000 đồng do Y đứng tên, bị cáo X trả được 11.273.219 đồng, tổng cộng bị cáo X trả được 20.382.351 đồng, còn lại 379.617.649 đồng. Tất cả số tiền này bị cáo X sử dụng. Y không có bị truy tố. Tòa án cấp sơ thẩm xác định bị cáo chiếm đoạt của Ngân hàng V1 số tiền 379.617.649 đồng thì bị cáo X phải có trách nhiệm trả số tiền này cho Ngân hàng nên việc Tòa án cấp sơ thẩm buộc Y phải có trách nhiệm trả cho Ngân hàng số tiền 138.726.781 đồng và X phải trả số tiền 240.890.868 đồng là không chính xác. Kháng cáo của bị cáo X về phần này là có cơ sở chấp nhận.

Đối với hành vi của Y, Y có hành vi giúp sức cho X tạo lập hồ sơ vay vốn của Ngân hàng . Cấp sơ thẩm không xem xét là có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm nhưng để ổn định bản án, cần kiến nghị Cơ quan có thẩm quyền tiếp tục làm rõ hành vi của Y và xử lý theo quy định.

[2.4] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát đề nghị phù hợp một phần với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Ý kiến của luật sư bào chữa phù hợp một phần với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[3] Về án phí sơ thẩm: Buộc bị cáo Phạm Thúy X phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 115.561.867đ (Một trăm mười lăm triệu năm trăm sáu mươi mốt nghìn tám trăm sáu mươi bảy đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.

[4] Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5] Các nội dung khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Phạm Thúy X. Sửa bản án sơ thẩm, cụ thể như sau:

1. Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; Điều 38; các điểm b, r, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Phạm Thúy X15 (Mười lăm) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng điểm a, b khoản 3 Điều 341; Điều 38; các điểm r, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Phạm Thúy X 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù về “Tội Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.

Căn cứ khoản 1 Điều 55 của Bộ luật Hình sự: Buộc bị cáo Phạm Thúy X phải chấp hành hình phạt chung là 18 (Mười tám) năm 06 (Sáu) tháng tù, tính từ ngày bắt tạm giam ngày 01-4-2019.

Tiếp tục tạm giam bị cáo Phạm Thúy X theo quyết định của Hội đồng xét xử để đảm bảo việc thi hành án.

2. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự: Buộc bị cáo Phạm Thúy Xtrả lại cho chị Nguyễn Thị M 567.000.000 đồng, bà Đoàn Thị L 400.000.000 đồng, chị Tạ Quỳnh N3 831.500.000 đồng, chị Đoàn Thị Thanh T1 2.076.350.000 đồng, chị Nguyễn Thị Hương L1 710.000.000 đồng, chị Nguyễn Thị T3 684.600.000 đồng, chị Võ Thị Thanh N4 640.800.000 đồng, bà Nguyễn Thị P1 300.000.000 đồng được trừ số tiền gia đình bị cáo đã bồi thường 20.000.000 đồng theo Biên lai thu tiền số 0001772 ngày 10-9-2020 tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đắk Nông tiếp tục bồi thường 280.000.000 đồng, chị Vi Thị Khánh H4 472.000.000 đồng, anh Hoàng Anh T4 500.000.000 đồng và Ngân hàng V1 379.617.649 đồng.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành xong các khoản tiền trên thì hàng tháng bị cáo còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền chậm thi hành án tương ứng với thời gian chậm thi hành án theo quy định tại Điều 357 của Bộ luật Dân sự.

3. Về án phí sơ thẩm: Buộc bị cáo Phạm Thúy X phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 115.561.867đ (Một trăm mười lăm triệu năm trăm sáu mươi mốt nghìn tám trăm sáu mươi bảy đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.

4. Bị cáo Phạm Thúy X không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

5. Các nội dung khác của Bản án sơ thẩm số 06/2021/HS-ST ngày 17/3/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

6. Kiến nghị Cơ quan có thẩm quyền tiếp tục làm rõ hành vi của Phạm Hải Y và xử lý theo quy định.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

1301
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 274/2022/HS-PT

Số hiệu:274/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về