TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
BẢN ÁN 274/2020/HS-PT NGÀY 12/06/2020 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 12 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 870/2019/TLPT-HS ngày 01 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo Nguyễn Thị Lê M và Trần Thị Thu H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” do có kháng cáo của các bị cáo, người bị hại đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 291/2019/HS-ST ngày 19 tháng 9 năm 2019 của Tòa án nhân dân thành phố H.
* Bị cáo có kháng cáo, bị kháng cáo:
1. Nguyễn Thị Lê M, sinh năm 1976 tại Hà Nội; ĐKNKTT và nơi cư trú trước đây: Số 3B, tổ 44 phường Q, quận C, thành phố H; Nay cư trú: Tổ 1, Đồng X, phường M, quận C, thành phố H; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: Lớp 12/12; Con ông Nguyễn Hồ T và bà Lê Thị Minh S; Có chồng Nguyễn Đức M (đã ly hôn) và 03 con (con lớn nhất sinh năm 2002, con nhỏ nhất sinh năm 2012); Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 19/12/2013 đến ngày 29/12/2013; hiện tại ngoại, có mặt.
2. Trần Thị Thu H, sinh năm 1976 tại Hà Nội; ĐKNKTT: 2E1 phụ, phường B, quận T, thành phố H; Nơi cư trú: Số 10B ngõ 487/1 phố K, phường V, quận T, thành phố H; nghề nghiệp: Nguyên cán bộ Ủy ban Nhân dân phường Đ, quận T, TP Hà Nội; Trình độ văn hoá: Lớp 12/12; Con ông Trần C và bà Phí Thị U; Có chồng Phạm Quang T và 02 con (con lớn sinh năm 2005, con nhỏ sinh năm 2007); Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo tại ngoại, có mặt.
Người bào chữa do Tòa án chỉ định cho bị cáo M: Luật sư Hoàng Ngọc Thanh B - Văn phòng luật sư K thuộc Đoàn luật sư thành phố H; có mặt.
Người bào chữa do Tòa án chỉ định cho bị cáo H: Luật sư Đặng Thị Vân T - Văn phòng luật sư K thuộc Đoàn luật sư thành phố H; có mặt.
* Người bị hại có kháng cáo: Chị Dương Thị Thanh X, sinh năm 1969;
nơi cư trú: Số 8 ngõ 333 phố V, phường Đ, quận T, thành phố H; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Trong các ngày 19/12/2013 đến ngày 23/12/2013 chị Nghiêm Thu A, sinh năm 1974, trú tại P205 A11 phường K, quận W, thành phố H cùng một số cá nhân khác đã gửi đơn đến cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận W, thành phố H tố cáo Nguyễn Thị Lê M đưa ra những thông tin gian dối để chiếm đoạt tiền của họ trong việc góp vốn, lập hợp đồng đặt cọc, hợp đồng mua bán nhà phát mại của các Ngân hàng BIDV, Techcombank. Đồng thời họ nộp cho cơ quan Cơ quan Cảnh sát điều tra toàn bộ những giấy tờ liên quan đến việc M nhận tiền của họ.
Căn cứ vào các tài liệu thu thập được, ngày 20/12/2013 Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận W đã ra lệnh bắt khẩn cấp, Quyết định khởi tố vụ án, Quyết định khởi tố bị can đối với Nguyễn Thị Lê M về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Quá trình điều tra xác định:
Với mục đích để có tiền Nguyễn Thị Lê M đã dùng thủ đoạn: Trực tiếp hoặc thông qua những mối quan hệ quen biết đưa ra thông tin gian dối: M đang làm việc tại bộ phận thu hồi nợ xấu của Ngân hàng Techcombank chi nhánh B, có mối quan hệ với Ngân hàng Techcombank, Ngân hàng TMCP đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV) do đó mua được nhà do ngân hàng phát mại do khách hàng không trả được tiền vay. M tự lấy các địa chỉ nhà trên địa bàn Hà Nội và đặt ra giá bán nhà thấp hơn giá thị trường. Do tin tưởng M, nhiều người đưa tiền cho M để mua nhà hoặc đưa tiền cho M để góp vốn cùng M kinh doanh chia nhau lợi nhuận. Với thủ đoạn trên trong thời gian từ năm 2012 đến tháng 11/2013 M đã chiếm đoạt tiền của 08 người sau bị hại, cụ thể:
1- Anh Nguyễn Văn K, sinh năm 1976, HKTT tổ 2, phường Phú Lương, quận Hà Đông, thành phố H:
Đầu năm 2012, thông qua quan hệ xã hội anh Nguyễn Văn K quen Nguyễn Thị Lê M và được giới thiệu hiện M đang làm việc bộ phận thu hồi nợ xấu của Ngân hàng Techcombank chi nhánh B, biết nhiều khách hàng thế chấp nhà đất để vay tiền ngân hàng, đến thời hạn trả nợ, khách hàng không có tiền trả, ngân hàng và khách hàng thỏa thuận bán nhà, đất thế chấp để lấy tiền trả cho ngân hàng do đó M có thể mua được nhà với giá rẻ. Để anh K tin tưởng, M đã đưa cho anh K 02 bộ hồ sơ thể hiện M có mua bán nhà phát mại của Ngân hàng (bản photocopy). Cụ thể:
1- Bộ hồ sơ gồm: Chứng minh thư nhân dân, sổ hộ khẩu của bà Trịnh Thị Thanh M có địa chỉ 468 Đ, quận B, thành phố H và Hợp đồng đặt cọc ngày 04/6/2012 thể hiện nội dung: Tại ngân hàng Techcombank chi nhánh Bà Triệu, bà Trịnh Thị Thanh M đặt cọc cho M số tiền 2.000.000.000 đồng để mua ngôi nhà số 7 ngách 115/75 V, quận B, thành phố H.
2- Bộ hồ sơ gồm: Chứng minh thư nhân dân, sổ hộ khẩu mang tên ông Dương Văn H có địa chỉ 71A Ngõ T, đường A, quận B, Hà Nội, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ngôi nhà số 6 ngách 31/12 phố V, phường P, quận B, thành phố H người sử dụng đất mang tên Nguyễn Viết Q và Trương Thị H và hợp đồng đặt cọc ngày 8/8/2012 thể hiện nội dung: Tại ngân hàng Techcombank chi nhánh Bà Triệu ông H đặt cọc cho M số tiền 1.000.000.000 đồng để mua ngôi nhà số 6 ngách 31/12 phố V, phường P, quận B, thành phố H.
Do tin tưởng M nên từ tháng 01/2012 đến ngày 24/4/2013 anh K đã nhiều lần đưa tiền cho M để đầu tư mua nhà phát mại của Ngân hàng. Cụ thể:
- Từ tháng 6/2012 đến tháng 5/2013 anh K đã chuyển vào tài khoản số 11523561331019 của M tại ngân hàng Techcombank - B với tổng số tiền 3.670.000.000 đồng. Ngày 04/6/2012 anh K đưa cho M 610.000.000 đồng có viết giấy biên nhận thể hiện: M vay anh K 610.000.000 đồng để đầu tư mua đất theo hợp đồng đặt cọc giữa M và bà O. Hẹn đến ngày 17/6/2012 trả tiền cho anh K. Ngày 09/8/2012 anh K đưa cho M 200.000.000 đồng có viết giấy biên nhận nội dung: M vay 200.000.000 đồng để đầu tư mua và bán nhà đất theo hợp đồng đặt cọc đã photocopy đưa cho anh K là hợp đồng giữa ông H và M.
Từ tháng 5/2012 đến tháng 10/2012 M đã trả cho anh K được tổng số tiền là 5.177.000.000 đồng. Đến ngày 24/4/2013, M xác nhận còn nợ anh K 4.300.000.000 đồng. Ngày 24/4/2013 tại văn phòng công chứng F địa chỉ tại số 9 tập thể Bảo tàng mỹ thuật, tổ 90 H phường O, quận Đ, Hà Nội, M và anh K đã làm hợp đồng vay tài sản nội dung: M vay của anh K 4.300.000.000 đồng không lãi suất, hẹn đến ngày 20/5/2013 M sẽ trả tiền cho anh K. Trong bản hợp đồng M đã xác nhận đã nhận đủ 4.300.000.000 đồng của anh K.
Sau khi ký bản hợp đồng trên, M nói với anh K đưa thêm tiền để đầu tư mua nhà nhà nợ xấu là nhà 83 L, quận B, thành phố H. Ngày 22/6/2013 anh K đã đưa cho M 720.000.000đồng, M đã viết giấy vay tiền có nội dung: M có vay của anh K số tiền 720.000.000 đồng mục đích chung vốn lấy ngôi nhà 83 L, sau ngày 22/6/2013 sẽ bán đi và thỏa thuận cùng nhau là lợi nhuận cả 2 chia đôi.
Tổng số tiền M nhận của anh K là 5.020.000.000 đồng, sau đó anh K đòi tiền nhưng M không trả và liên tục viết giấy cam kết như sau:
- Ngày 02/8/2013 M viết giấy khất nợ có nội dung: M hẹn đến ngày 23/8/2013 sẽ trả đủ 4.300.000.000 đồng cho anh K nếu không trả được, M sẽ bàn giao ngôi nhà số A6 cụm Cống V, ngách 376/14 đường Bưởi và nhà số 4B ngách 14/376. Đến ngày 23/8/2013 M viết giấy cam kết cho anh K có nội dung: Trong thời gian từ 01/2012 đến ngày 22/8/2013 M có vay của anh K 6.500.000.000 đồng được cụ thể bằng: 4.300.000.000 đồng được ký kết bằng hợp đồng ký ngày 24/4/2013; 720.000.000 đồng để đầu tư vào căn nhà 83 L; số tiền còn lại là 1.480.000.000 đồng là tiền phạt chậm trả theo hợp đồng ký ngày 24/4/2013 và bồi thường thiệt hại không thực hiện đúng cam kết việc đầu tư vào căn nhà 83 phố L. M cam kết sẽ trả ngôi nhà trên vào ngày 9/9/2013. Nếu M không trả được thì M sẽ chuyển giao 02 căn nhà trên tổng số 35 ngôi nhà mà M thu hồi về theo giá gốc. Nhưng đến ngày 16/9/2013 M viết giấy cho anh K thể hiện nội dung: Ngày 22/10/2013 trả cho anh K 8.000.000.000 đồng, cụ thể:
6.500.000.000 đồng vay thể hiện tại giấy cam kết ngày 23/8/2013;
1.500.000.000 là tiền tự nguyện bồi thường thiệt hại như đã cam kết ngày 23/8/2013.
Tại Bản kết luận giám định số 4636/C54-P5 ngày 16/12/2014 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: Chữ ký, chữ viết trên các giấy vay tiền ngày 04/6/2012, ngày 22/6/2013, ngày 09/8/2012; bản cam kết ngày 2/8/2013 ngày 22/8/2013, Giấy giãn nợ ngày 22/10/2013 là do Nguyễn Thị Lê M ký và viết ra.
Cơ quan Cơ quan cảnh sát - Công an thành phố H đã xác minh:
- Tại văn phòng luật sư Vì Dân, xác định: Văn phòng luật sư Vì Dân không làm chứng và đóng dấu giáp lai tại bản Hợp đồng đặt cọc mua nhà giữa ông Dương Văn H và Nguyễn Thị Lê M ngày 8/8/2012 và Hợp đồng đặt cọc mua nhà giữa bà Trịnh Thị Thanh M và Nguyễn Thị Lê M ngày 04/6/2012.
- Tại Công an phường L, Quận B, Hà Nội: Phường L, quận B không có địa chỉ số: nhà 7 ngách 115/75 phố V, L, Quận B, không có người tên là Nguyễn Quốc T ở địa chỉ trên.
- Phòng Tài nguyên môi trường quận B, thành phố H cho biết không cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho địa chỉ số nhà 7 ngách 115/75 phố V cho người có tên Nguyễn Quốc T.
- Nguyễn Thị Lê M thừa nhận có nhận tiền của anh K để mua nhà phát mại của ngân hàng nhưng M đã trả toàn bộ tiền gốc và lợi nhuận cho anh K. Hợp đồng vay vốn M ký xác nhận với anh K ngày 24/4/2013 là do anh K nhờ M ký để anh K đưa cho những người anh K huy động tiền, mục đích để chứng minh tiền anh K huy động của mọi người đã đưa cho M. Bộ giấy tờ photocopy nhà số số 7 ngách 115/75 phố V, phường L, quận B, thành phố H và nhà số 6 ngách 31/12 phố P, quận B, thành phố H, M không đưa cho anh K và không biết bộ giấy tờ này. Nhưng căn cứ các tài liệu chứng cứ nêu trên đủ căn cứ kết luận M chiếm đoạt của anh K số tiền 5.020.000.000 đồng.
Quá trình điều tra, Nguyễn Thị Lê M đã trả lại cho anh K toàn bộ số tiền chiếm đoạt, hiện anh K không đề nghị gì về dân sự và có đơn đề nghị cơ quan pháp luật miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho bị can M.
2- Chị Dương Thị Thanh X, Sinh năm 1969, HKTT: Số 8 ngõ 333 phố V, phường Đ, quận H, thành phố H:
Thông qua quan hệ xã hội, chị X quen và được M giới thiệu: M đang công tác tại công ty chứng khoán HSSC - trụ sở: tại phố Phạm Ngọc Thạch, Đống Đa, Hà Nội, có quan hệ với ngân hàng Techcombank chi nhánh B nên biết có nhiều khách hàng thế chấp tài sản là bất động sản (nhà đất) để vay vốn ngân hàng đến thời hạn trả nợ, khách hàng không có tiền trả do vậy ngân hàng và khách hàng thỏa thuận bán nhà, đất thế chấp để lấy tiền trả cho ngân hàng. Do đó M có thể mua được nhà với giá rẻ. Sau khi mua được, M sẽ làm hợp đồng chuyển nhượng cho khách hàng khác với giá cao hơn từ 10 - 20% để kiếm tiền chênh lệch. M nói nếu góp vốn cùng M để mua nhà thế chấp, khi bán có lãi M sẽ trả tiền gốc và tiền lợi nhuận cho chị X theo tỷ lệ góp vốn từ 10 - 20%. Tin tưởng M, từ năm 2012 đến tháng 4/2013, chị X đưa cho M tổng số 20.000.000.000 đồng nhưng không viết giấy biên nhận tiền. Ngày 22/5/2013, chị X yêu cầu M ký Hợp đồng vay vốn tại Văn phòng Công ty luật TNHH E địa chỉ số 219C, Nguyễn Ngọc V, Trung H, quận C, thành phố H. Hợp đồng có nội dung: Bà Xuân cho M vay 20.000.000.000 đồng để kinh doanh bất động sản. Đến ngày 21/6/2013 M phải trả cho chị X 15.000.000.000 đồng và đến ngày 30/6/2013 M phải trả 5.000.000.000 đồng.
Đến hẹn không thấy M trả tiền, sau nhiều lần chị X đòi tiền, M đã viết bản cam kết có nội dung: M mua được 35 ngôi nhà (có danh sách địa chỉ kèm theo), hẹn đến ngày 9/9/2013 M sẽ trả số tiền 20.000.000.000 đồng nếu không trả được M sẽ gán cho chị X 5 ngôi nhà trong số 35 nhà M đang sở hữu trong danh sách trên. Trong bản cam kết có chị Trịnh Thị T và chị Tống Phương H là người quen của chị X ký là người làm chứng.
Đến hẹn thấy M không trả tiền nên ngày 17/9/2013 chị X đồng ý để M ký 05 hợp đồng chuyển nhượng nhà cho chị. Cụ thể:
1. Hợp đồng mua bán chuyển nhượng quyền sử dụng đất và sở hữu nhà có nội dung: M bán cho chị X nhà số 1 ngõ 171 phố Nguyễn Ngọc V, quận C, thành phố H, có tổng diện tích đất ở theo sổ là 40m2, với giá 3.000.000.000 đồng, M đã nhận đủ 3.000.000.000 đồng. Ngày 20/11/2013 M sẽ giao nhà và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ngôi nhà trên.
2. Hợp đồng mua bán chuyển nhượng quyền sử dụng đất và sở hữu nhà đề có nội dung: M bán cho chị X nhà số 24 ngõ 171 phố Nguyễn Ngọc V, C, Hà Nội có tổng diện tích đất ở theo sổ là 40m2, với giá 3.000.000.000 đồng, M đã nhận đủ 3.000.000.000 đồng. Ngày 20/11/2013, M sẽ giao nhà và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ngôi nhà trên.
3. Hợp đồng mua bán chuyển nhượng quyền sử dụng đất và sở hữu nhà có nội dung: M bán cho chị X nhà số số 11 ngách 49/28 phố Huỳnh Thúc K - B - Hà Nội, có tổng diện tích đất ở theo sổ là 70m2, với giá 4.300.000.000 đồng, M đã nhận đủ 4.300.000.000 đồng. Ngày 20/11/2013 M sẽ giao nhà và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ngôi nhà trên.
4. Hợp đồng mua bán chuyển nhượng quyền sử dụng đất và sở hữu nhà có nội dung: M bán cho chị X nhà số 13 lô A2, KĐT Nghĩa Đ, phuờng Q, quận C, thành phố H, có tổng diện tích đất ở theo sổ là 60m2, với giá 3,6 tỷ đồng, M đã nhận đủ 3,6 tỷ đồng. Ngày 20/11/2013 M sẽ giao nhà và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ngôi nhà trên.
5. Hợp đồng mua bán chuyển nhượng quyền sử dụng đất và sở hữu nhà có nội dung: M bán cho chị X nhà số số 29 đường số 2 Nam T, ngách 49/29 B, Hà Nội, có tổng diện tích đất ở theo sổ là 80m2, với giá 6,3 tỷ đồng, M đã nhận đủ 6,3 tỷ đồng. Ngày 20/11/2013 M sẽ giao nhà và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ngôi nhà trên.
Đến ngày 20/11/2013 không thấy M bàn giao nhà, chị X tìm hiểu thì được biết, các ngôi nhà M ký hợp đồng chuyển nhượng cho chị, chủ nhà không thế chấp Ngân hàng và không bán cho M nên đã đến Cơ quan điều tra tố cáo M.
Tại Bản kết luận giám định số 4636/C54-P5 ngày 16/12/2014 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: Chữ ký, chữ viết đứng tên Nguyễn Thị Lê M trong 05 Hợp đồng chuyển nhượng nhà Nguyễn Thị Lê M bán cho Dương Thị Thanh X là do Nguyễn Thị Lê M ký và viết ra.
Quá trình điều tra Nguyễn Thị Lê M đã trả cho chị Dương Thị Thanh X số tiền 2.500.000.000 đồng. Chị X có đơn đề nghị cơ quan pháp luật miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho bị can M. Số tiền còn lại chị X và M tự thỏa thuận không đề nghị cơ quan pháp luật giải quyết về dân sự.
3- 4- Nguyễn Thị Lê M dùng thủ đoạn rao bán ngôi nhà số 34 ngõ 34 phố V, phường P, quận B, thành phố H để chiếm đoạt tiền của anh Vũ Minh T, sinh năm 1960, HKTT: Số 13 tập thể C, L, Đ, Hà Nội; Chị Nguyễn Bích L, sinh năm 1965, HKTT Số 3 ngách 44/38 phố Võ Thị S, quận H, thành phố H:
Khoảng tháng 3/2013 thông qua quan hệ xã hội, chị Dương Thị Thanh X quen và được M giới thiệu: Hiện Ngân hàng Techcombank đang có ngôi nhà số 34 ngõ 34 phố V, phường L, quận B, thành phố H diện tích 100m2 khách hàng thế chấp, nợ quá hạn không có khả năng thanh toán nên bán phát mại. Do có quan hệ với Ngân hàng Techcombank nên M đã mua được ngôi nhà trên và muốn bán lại với giá 5.550.000.000 đồng. Vì nhà có mặt trước và mặt sau, nên M chia làm 2 nhà, gồm nhà trước và nhà sau, mỗi nhà có diện tích 50 m2 để bán. Chị X đã đến ngôi nhà số 34 ngõ 34 V xem thấy đúng như M mô tả nên đồng ý mua nửa phía sau với giá 2.550.000.000 đồng. Ngày 27/3/2013 M và chị X ký Hợp đồng chuyển nhượng nửa ngôi nhà trên có nội dung: M bán cho chị X ngôi nhà số 34 ngõ 34 đường V, phường L, quận B, Hà Nội có diện tích đất là 50m2 với giá 2.550.000.0000 đồng thuộc quyền sở hữu và sử dụng hợp pháp của M. Ngày 27/3/2013 chị X đã đưa cho M 1.850.000.000 đồng hẹn đến ngày 27/5/2013 chị X phải đưa cho M số tiền còn lại là 700.000.000 đồng và M sẽ giao nhà. Theo chị X khai từ đầu tháng 3/2013 đến ngày 27/3/2013 đã đưa cho M nhiều lần với tổng số tiền là 1.850.000.000 đồng.
Khoảng tháng 3/2013 chị X lại giới thiệu chị L gặp M, được M giới thiệu về ngôi nhà số 34 ngõ 34 V, B, Hà Nội như đã nói với chị X. Chị L hỏi chị X, thì được biết hiện chị X đang làm thủ tục mua ½ ngôi nhà trên của M. Do có nhu cầu mua ½ nhà còn lại, sau khi đi cùng chị X đến xem nhà chị L yêu cầu M dẫn chị đến gặp chủ nhà, vì sợ bị phát hiện M nói: Muốn mua được nhà thì không được đến gặp chủ nhà, vì lý do nhạy cảm, M phải quan hệ rất tốt với Ngân hàng nên mới mua được nếu nhiều người biết sẽ gặp khó khăn trong việc mua bán, cứ trả đủ cho M 3.000.0000.0000 đồng M sẽ bàn giao nhà.
Do tin tưởng M, ngày 19/3/2013, chị L đưa cho M số tiền là 2.000.000.000 đồng có viết giấy biên nhận tiền và M cùng chị L ký Hợp đồng chuyển nhượng nửa ngôi nhà trên có nội dung: M bán cho chị L ngôi nhà số 34 ngõ 34 đường V, phường L, quận B, thành phố H có diện tích đất là 50m2 với giá 3.000.000.0000 đồng thuộc quyền sở hữu và sử dụng hợp pháp của M, hẹn đến tháng 5/2013 chị L trả cho M 1.000.000.000 đồng còn lại và M sẽ giao nhà và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trong hợp đồng chị X ký là người làm chứng.
Ngoài việc rao bán ngôi nhà số 34 ngõ 34 phố V, phường P, quận B, thành phố H cho chị L và chị X, khoảng tháng 4/2013, thông qua anh Nguyễn Văn K, HKTT: Tổ 2 phường P, quận Đ, thành phố H, anh T quen và được M giới thiệu: M là cán bộ thu hồi nợ xấu của Ngân hàng Techcombank, hiện Ngân hàng đang có ngôi nhà số 34 ngõ 34 phố V, phường P, quận B, thành phố H, diện tích 65m2 khách hàng thế chấp, nợ quá hạn không có khả năng thanh toán nên bán phát mại với giá là 4.800.000.000đồng. Thấy giá bán nhà hợp lý, anh T nhờ anh K liên hệ với M để làm thủ tục mua ngôi nhà trên. Sau khi thỏa thuận giá bán nhà là 4.800.000.000 đồng, tiền đặt cọc 600.000.000 đồng, Ngày 24/4/2013, anh K, anh T cùng vợ là Phạm Thị Bích D gặp M, hai bên đã ký Hợp đồng đặt cọc do M tự thảo có nội dung: M bán cho Anh T quyền sử dụng đất tờ bản đồ số 11 thuộc địa chỉ nhà số 34 ngõ 34 phố V, phường,P, quận B, thành phố H với tổng diện tích 105m2 trong đó diện tích sổ đỏ là 65m2 giá bán thỏa thuận là 4.800.000.000 đồng. Anh T đưa trước cho M số tiền là 600.000.000 đồng và hẹn ngày 5/7/2013 M và anh T sẽ ký hợp đồng công chứng chuyển nhượng và bàn giao nhà cho anh T. Sau khi ký hợp đồng đặt cọc trên, cùng ngày 24/4/2013 anh T chuyển 600.000.000 đồng vào tài khoản 11523561331019 của M tại Chi nhánh Ngân hàng Techcombank 102 phố Thái Thịnh, quận Đống Đa, TP Hà Nội. Để lấy được thêm tiền của anh T, ngày 13/09/2013, M gọi điện cho anh T nói phải đưa thêm 1.200.000.000 đồng để người bán nhà cho anh T có tiền mua nhà mới, họ sẽ nhanh giao nhà. Ngày 14/9/2013 anh T, anh K gặp M. Anh T nói sẽ đưa cho M 200.000.000 đồng, hẹn mấy ngày sau sẽ đưa tiếp 1.000.000.000 đồng nhưng M phải viết giấy đã nhận 1.200.000.000 đồng tiền đặt cọc mua nhà để M phải có trách nhiệm trong việc mua bán ngôi nhà trên. M đồng ý và đã viết “giấy nhận tiền đặt cọc lần thứ II” có nội dung: M nhận của anh T 1.200.000.000 đồng hẹn đến ngày 23/9/2013 sẽ bàn giao ngôi nhà số 34 ngõ 34 phố V và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho anh T. Sau khi ký giấy nhận tiền đặt cọc trên, anh T đưa cho M 200.000.000 đồng. Đến ngày 16/9/2013 anh T đưa tiếp cho M 1.000.000.000 đồng.
Để anh T tin tưởng, Ngày 17/9/2013 M đưa cho anh T bản photocopy hợp đồng M đã tự viết Bản hợp đồng mua bán chuyển nhượng quyền sử dụng đất và sở hữu có nội dung: M mua của ông Trần Quang D và bà Nguyễn Thị Minh H ngôi nhà số 34 ngõ 34 V, B, Hà Nội. Tên người bán trong bản hợp đồng trên, M tự nghĩ ra tên là Trần Quang D và Nguyễn Thị Minh H và M hẹn sẽ giao nhà cho anh T vào ngày 23/09/2013. Trong quá trình giao dịch M yêu cầu anh T phải đưa cho M sổ hộ khẩu và chứng minh nhân dân của anh T và chị D.
Đến hẹn, M đưa ra nhiều lý do để không bàn giao nhà nên chị X, chị L và anh T nghi ngờ đòi tiền nhưng M không trả. Sau đó các anh, chị trên được biết M bị Công an bắt, nên đã đến cơ quan điều tra tố cáo M có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tiền của họ.
- Tại Bản kết luận giám định số 113/C54-P5 ngày 22/1/2014 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: chữ ký, chữ viết đứng tên Nguyễn Thị Lê M trong Hợp đồng đặt cọc ngày 24/4/2013; giấy nhận tiền đặt cọc lần II đề ngày 14/9/2013 là do Nguyễn Thị Lê M ký và viết ra.
- Tại Bản kết luận giám định số 6090 ngày 15/7/2015, Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: chữ ký, chữ viết đứng tên Nguyễn Thị Lê M trong “Hợp đồng mua bán chuyển nhượng quyền sử dụng đất và sở hữu nhà” giữa Nguyễn Thị Lê M với chi Dương Thị Thanh X, giữa Nguyễn Thị Lê M với chị Nguyễn Thị Bích Loan và chữ ký, chữ viết trong “Giấy cam kết trả tiền” giữa M và chị L là do Nguyễn Thị Lê M ký và viết ra.
Quá trình điều tra xác định được: Ngôi nhà 34 ngõ 34 phố V thuộc quyền sở hữu của vợ chồng ông Nguyễn V và bà Bùi Thị T và không thế chấp cho ngân hàng.
Tại Cơ quan điều tra Chị X, chị L, anh T và anh K khai như đã nêu trên và khẳng định M nhận tiền của anh, chị là để hứa bán ngôi nhà 34 ngõ 34 phố V, quận B, thành phố H cho họ.
- Đối với số tiền 1.850.000.000 đồng, chị X khai đưa cho M như đã nêu trên. Quá trình điều tra M không nhận, chị X không xuất trình được tài liệu M nhận tiền của chị. Do đó không đủ căn cứ kết luận M nhận của chị X số tiền 1.850.000.000 đồng để hứa bán ngôi nhà 34 ngõ 34 phố V, quận B, thành phố H cho chị X.
- Đối với số tiền 2.000.000.000 đồng M khai đưa cho chị Trần Thị Tuyết M. Ngoài lời khai, Nguyễn Thị Lê M, không xuất trình được tài liệu M đưa tiền. Do đó không đủ căn cứ kết luận M đưa cho chị Trần Thị Tuyết M 2.000.000.000 đồng.
Quá trình điều tra: Căn cứ lời khai Chị X, chị L, anh T và anh K và kết luận giám định đủ căn cứ kết luận M đã lừa đảo chiếm đoạt của chị L 2.000.000.000 đồng, anh T 1.800.000.000 đồng trong việc hứa bán ngôi nhà 34 ngõ 34 phố V, quận B, thành phố H.
Quá trình điều tra Nguyễn Thị Lê M đã trả cho anh Vũ Minh T toàn bộ số tiền chiếm đoạt, hiện anh T không đề nghị gì về dân sự và có đơn đề nghị cơ quan pháp luật miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho bị can M.
Quá trình điều tra, Nguyễn Thị Lê M đã trả cho chị Nguyễn Bích L số tiền 1.290.000.000 đồng. Chị L yêu cầu bị can M tiếp tục phải hoàn trả cho chị số tiền còn lại là 710.000.000 đồng.
Quá trình điều tra, Chị Dương Thị Thanh X và Nguyễn Thị Lê M tự thỏa thuận bồi thường số tiền 1.850.000.000 đồng, không yêu cầu cơ quan pháp luật giải quyết dân sự.
5- Chị Bùi Thị B, Sinh năm 1971, trú tại: 302 đường Bưởi, quận B, thành phố H:
Do có nhu cầu mua nhà, thông qua chị Trịnh Thị Thanh M, trú tại số 468 phố Đội Cấn, quận B, thành phố H, chị B gặp và được M giới thiệu: M đã mua được ngôi nhà BTA26- BT2 KĐT M, T, Hà Nội của khách hàng thế chấp tại Ngân hàng BIDV, do khách hàng không có tiền trả nên ngân hàng quyết định bán phát mại, hiện M muốn bán lại với giá 5.900.000.000 đồng. Chị B tìm đến địa chỉ ngôi nhà trên thấy đã được xây thô, chưa hoàn thiện và thấy giá bán ngôi nhà hợp lý nên đồng ý mua. Trong 02 ngày 8/11/2013 và ngày 9/11/2013 chị B đã đưa cho M tổng số 2.000.000.000 đồng tiền đặt cọc mua ngôi nhà trên. M và chị B ký bản hợp đồng đặt cọc mua ngôi nhà trên do M tự soạn thảo có nội dung: M bán cho chị B ngôi nhà BT số 26- BT 2 khu biệt thự M- T, Hà Nội theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 300m2 diện tích đất xây dựng là 250m2 mặt sàn, giá bán là 5.900.000.000 đồng, đặt cọc trước 2.000.000.000 đồng, ngày 22/11/2013 chị B phải trả nốt số tiền còn lại. Chị M ký là người làm chứng.
Để chị B tin tưởng, M đưa cho chị B bản photocopy sổ hộ khẩu, chứng minh nhân dân của M đã được công chứng và hẹn lại ngày 26/11/2013 sẽ bàn giao nhà và làm các thủ tục sang tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho chị B. Sau đó M nói dối do thủ tục tại ngân hàng có trục trặc nên hẹn đến ngày 29/11/2013 M sẽ bàn giao nhà cho chị B. Ngày 29/11/2013 thấy M không bàn giao nhà nên chị B gọi hỏi, M đã viết cam kết hẹn đến ngày 16/12/2013 sẽ bàn giao nhà và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho chị B. Sau đó chị được biết M bị Công an bắt, nên đã đến cơ quan điều tra tố cáo M có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tiền của chị.
Tại Bản kết luận giám định số 4636/C54-P5 ngày 16/12/2014 của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an kết luận: chữ ký, chữ viết đứng tên Nguyễn Thị Lê M trong “Hợp đồng mua bán chuyển nhượng quyền sử dụng đất và sở hữu nhà” đề ngày 08/11/2013 và “giấy cam kết” đề ngày 29/11/2013 giữa Nguyễn Thị Lê M với chị Bùi Thị B là do Nguyễn Thị Lê M ký và viết ra.
Quá trình điều tra xác định: Chủ sở hữu ngôi nhà A26-B2 KĐT M là của vợ chồng ông Đào Duy D và bà Phạm Thị Bích E HKTT ở số 10 Phan Chu C, K, Hà Nội. Nhà và đất trên đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD691208 ngày 7/4/2006. Ngày 09/12/2010 ông D bà E đã chuyển nhượng cho vợ chồng ông Lê Đức T và bà Phạm Thị Minh V có HKTT tại số 108 C3, Làng Quốc tế A, C, Hà Nội.
Căn cứ Lời khai của chị B, chị X và kết luận giám định đủ căn cứ kết luận M đã lừa đảo chiếm đoạt của chị B 2.000.000.000 đồng.
Quá trình điều tra, Nguyễn Thị Lê M đã trả cho chị Bùi Thị B 1.000.000.000 đồng, số tiền còn lại chị B và bị can M tự thỏa thuận không đề nghị cơ quan Pháp luật giải quyết về dân sự, đồng thời đề nghị cơ quan pháp luật miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho bị can M.
6- Chị Trần Thị Thu Y, Sinh năm 1972, HKTT: 63 Tôn Đức T, quận Đ, thành phố H:
Do có nhu cầu mua nhà, thông qua Trần Thị Thu H, chị Y gặp và được M giới thiệu: M đang làm tại UBND phường Bách K, quận T, Thành phố H, quan hệ với các Ngân hàng trong việc làm ăn mua bán nhà thế chấp… M phụ trách đầu ra trong việc mua nhà thế chấp, giá rẻ hơn giá thị trường nếu chị Y thích mua nhà thì M sẽ làm thủ tục với ngân hàng để chị Y được mua lại. Ngày 25/11/2013 M nói với chị Y là có ngôi nhà B2-BT2 khu đô thị M, Từ L, Hà Nội của vợ chồng ông Vũ Minh T và bà Phạm Thị Bích D đang thế chấp cho Ngân hàng, do không có tiền trả nợ nên đã thỏa thuận với ngân hàng bán ngôi nhà trên với giá 5.000.000.000 đồng. Chị Y yêu cầu M dẫn đi xem nhà. Cùng ngày 25/11/2013, M dẫn chị Y đến địa chỉ nhà B2 - BT2 khu đô thị M, T, Hà Nội, chị Y đề nghị M cho xem giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ngôi nhà thì M nói hiện ngân hàng đang giữ nên không thể cho chị xem được. Để chị Y tin tưởng, M đưa cho chị Y Giấy chứng nhận quyền sở hữu ngôi nhà B2 - BT2 khu đô thị M, T, Hà Nội và sổ hộ khẩu, chứng minh nhân dân (bản photocopy) mang tên ông Vũ Minh T và bà Phạm Thị Bích D; sổ hộ khẩu, chứng minh nhân dân (bản photo) công chứng mang tên M. Có được sổ hộ khẩu, chứng minh nhân dân của ông T bà D vì trong thời gian tháng 4/2013 khi lừa bán ngôi nhà 34 ngõ 34 phố V cho ông T, M đã yêu cầu vợ chồng ông T cung cấp sổ hộ khẩu, chứng minh nhân dân của 2 người và M đã giữ lại. Ngày 26/11/2013, chị Y và M đã ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và sở hữu nhà do M tự soạn thảo có nội dung: Chị Y đưa cho M số tiền 2.350.000.000 đồng để mua nhà BT B2, M, T, Hà Nội, tổng diện tích 230m2, với giá 5.000.000.000 đồng. Ngôi nhà này do M mua của ông Nguyễn Minh T và bà Phạm Thị Bích D và hẹn ngày 16/12/2013 chị Y sẽ trả nốt số tiền còn lại cho M. Để lấy được thêm tiền, M nói với chị Y vì chủ nhà vay ngân hàng 4.500.000.000 đồng nếu muốn lấy toàn bộ giấy tờ “sổ đỏ” từ Ngân hàng ra để M làm thủ tục giấy tờ nhà và bàn giao nhà thì phải đưa thêm cho M 2.150.000.000 đồng. Tin tưởng M, ngày 12/12/2015 chị Y đã đưa cho M 2.150.000.000 đồng. M viết giấy nhận tiền có nội dung: Ngày 12/12/2013 M nhận của chị Y số tiền là 4.500.000.000 đồng để đặt mua nhà BT B2, M, T, Hà Nội hẹn đến ngày 16/12/2013 sẽ trao sổ đỏ chính chủ công chứng và mặt bằng ngôi nhà cho chị Y. Khi chị Y giao 2.150.000.000 đồng cho M có sự chứng kiến của H. Sau đó chị Y được biết M bị Công an bắt, nên đã đến cơ quan điều tra tố cáo M có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tiền của chị.
Tại Bản kết luận giám định số 4636/C54-P5 ngày 16/12/2014 của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an kết luận: Chữ ký, chữ viết đứng tên Nguyễn Thị Lê M trong Hợp đồng hợp đồng mua bán chuyển nhượng quyền sử dụng đất và sở hữu nhà Trần Thị Thu Y và giấy nhận tiền ngày 12/12/2013 là do Nguyễn Thị Lê M ký và viết ra.
Do đó căn cứ lời khai của chị Y, lời khai của bị can H và kết luận giám định đủ căn cứ kết luận M đã lừa đảo chiếm đoạt của chị Y 4.500.000.000 đồng.
Quá trình điều tra, Nguyễn Thị Lê M đã trả cho chị Trần Thị Thu Y 1.000.000.000 đồng. Số tiền còn lại chị Y và bị can M tự thỏa thuận không đề nghị cơ quan Pháp luật giải quyết về dân sự, đồng thời đề nghị cơ quan pháp luật miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho bị can M.
7- Anh Chu Khắc S, Sinh năm: 1959, HKTT: 8/26A ngõ 73 đường Nguyễn T, quận W, thành phố H:
Thông qua quan hệ xã hội, anh Chu Khắc S quen và được M, giới thiệu: M đã mua được ngôi nhà địa chỉ BTA20- BT5 khu đô thị M của Ngân hàng BIDV do khách hàng không có tiền trả nên ngân hàng quyết định bán phát mại. M muốn bán lại căn nhà trên với giá 7.000.000.000 đồng. Anh S đã tìm đến địa chỉ ngôi nhà trên thấy nhà đã được xây thô, chưa hoàn thiện và thấy giá bán ngôi nhà hợp lý nên đồng ý mua. Ngày 01/12/2013, anh S gặp M thỏa thuận đồng ý mua ngôi nhà trên giá 7.000.0000.000 đồng, đặt cọc trước 1.000.000.000 đồng và hẹn 02 tuần sau M sẽ cho anh S gặp chủ của ngôi nhà A20 - BT5 Mỹ Đình và ngân hàng để ký hợp đồng công chứng. Anh S về nhà soạn thảo hợp đồng đặt cọc mua nhà đưa cho M xem và ngày 03/12/2013 M và anh S ký Hợp đồng đặt cọc mua nhà có nội dung: M bán cho anh S ngôi nhà BTB20- BT 5 Mỹ Đình II, diện tích 300 m2, với giá 7.000.000.000 đồng, ngày 03/12/2013 trả 1.000.000.000 đồng, hẹn đến ngày 16/12/2013 thanh toán 6.000.000.000 đồng và M sẽ có trách nhiệm bàn giao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chính chủ và ngôi nhà BTA20- BT5 Mỹ đình II. Do chưa có tiền nên ngày 04/12/2013 anh S đưa cho M 250.000.000 đồng vì trước đó M nợ anh S 750.000.000 đồng nên tổng số tiền M đã nhận của anh S là 1.000.000.000 đồng tiền đặt cọc. Sau khi đưa tiền, anh S tìm hiểu thì được biết ngôi nhà A20- BT5 KĐT M, chủ nhà không thế chấp cho Ngân hàng BIDV và không bán cho M. Anh S gặp M yêu cầu M trả lại tiền nhưng M không trả nên anh đã đưa M đến cơ quan điều tra để làm rõ sự viêc.
Tại Bản kết luận giám định số 4636/C54-P5 ngày 16/12/2014 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: chữ ký, chữ viết đứng tên Nguyễn Thị Lê M trong Hợp đồng đặt cọc mua bán nhà với anh Chu Khắc S là do Nguyễn Thị Lê M ký và viết ra.
Quá trình điều tra xác định: Ngôi nhà BT A20- BT5 KĐT M là của ông Nguyễn Lê V, HKTT: 80b phố Thợ N, quận K, thành phố H. Ông V không thế chấp căn nhà trên cho Ngân hàng để vay tiền và không quen biết Nguyễn Thị Lê M.
Căn cứ Lời khai của anh S và kết luận giám định đủ căn cứ kết luận M đã lừa đảo chiếm đoạt của anh S 1.000.000.000 đồng.
Quá trình điều tra, Nguyễn Thị Lê M đã trả cho anh Chu Khắc S 600.000.000 đồng. Số tiền còn lại anh S và bị can M tự thỏa thuận không đề nghị cơ quan Pháp luật giải quyết về dân sự, đồng thời đề nghị cơ quan pháp luật miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho bị can M.
8 - Chị Nghiêm Thu A, Sinh năm 1974, trú tại P205 A11 phường Khương T, quận W, thành phố H:
Với mục đích để có tiền, khoảng tháng 12/2013 M nói với anh Chu Khắc S, HKTT: số 8/26A ngõ 73 đường Nguyễn Trãi, quận W, Thành phố H: Có khách hàng thế chấp ngôi nhà số 38 phố Đào T, phường Cống V, quận B, thành phố H để vay tiền của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), hiện nay không có tiền trả, nên ngân hàng phát mại tài sản thế chấp, Ngân hàng BIDV nhờ M môi giới bán ngôi nhà số 38 phố Đào T với giá 12.000.000.000 đồng.
Anh S giới thiệu cho em vợ là chị Nghiêm Thu A để mua ngôi nhà trên. Chị A yêu cầu được gặp chủ nhà nên M đã nhờ Trần Thị Thu H đóng giả là chủ sở hữu ngôi nhà số 38 phố Đào T để ký hợp đồng với khách hàng mọi việc mua, bán và nhận tiền M sẽ chịu trách nhiệm và hứa khi mua bán nhà xong, M sẽ cho H 10.000.000 đồng. Khi nhờ, M nói với H: “M môi giới bán ngôi nhà số 38 phố Đào T, nếu khách gặp chủ nhà thì M không lấy được tiền chênh lệch”. Thấy M nói vậy, H đồng ý. Để chị A tin tưởng, M làm giả Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ngôi nhà số 38 phố Đào T, phường Cống V, quận B, thành phố H mang tên Trần Thị Thu H theo địa chỉ chứng minh thư nhân dân và sổ hộ khẩu của H bằng phương pháp photocopy, cắt, dán. M có được Giấy Chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu (bản photocopy công chứng) của H vì trước đó H đưa cho M để làm hồ sơ đăng ký đấu thầu nhà. Theo như đã hẹn, khoảng 17 giờ ngày 4/12/2013, M đi cùng H đến quán cà phê số 103 Vạn P, quận B, thành phố H gặp chị A, anh S và vợ anh S là chị Trần Thị T, để ký hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng ngôi nhà số 38 phố Đào T. Khi gặp chị A, M đưa cho chị A xem Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả (bản photocopy) của ngôi nhà số 38 phố Đào T, giấy chứng minh nhân dân và sổ hộ khẩu (bản photocopy công chứng) mang tên Trần Thị Thu H. M giới thiệu với chị A, H là chủ ngôi nhà số 38 Đào T, chị A hỏi lý do bán nhà, H trả lời: “Do làm ăn nên phải bán nhà”. Sau khi gặp H và được M cho xem những giấy tờ trên, chị A đồng ý mua ngôi nhà số 38 Đào T. Chị A yêu cầu H ký hợp đồng đặt cọc, lúc này H biết rõ M đã dùng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (bản photocopy), giấy chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu (bản công chứng) mang tên H nhưng H vẫn ký là người bán trong bản hợp đồng đặt cọc mua, bán ngôi nhà số 38 Đào T, phường Cống V quận B có nội dung: H bán cho chị A ngôi nhà số 38 Đào T, phường Cống V, quận B với giá 12.000.000.000 đồng chị A đặt cọc 4.000.000.000 đồng, hẹn ngày 18/12/2013 chị A phải trả 8.000.000.000 đồng cho H. H có trách nhiệm làm thủ tục công chứng bàn giao giấy tờ hợp đồng mua bán, hợp đồng cho thuê, chuyển nhượng hợp đồng cho thuê với Ngân hàng VIB. Trong bản hợp đồng này còn M và anh Chu Khắc S ký với tư cách là người làm chứng.
Sau khi ký hợp đồng đặt cọc mua, bán nhà trên, H nói với chị A là nhờ M thay H nhận tiền và giao nhà cho chị A. Do đó từ ngày 04/12/2013 đến 12/12/2013, chị A đã nhiều lần đưa cho M tổng số 4.000.000.000 đồng nhưng không viết giấy biên nhận, chỉ có ngày 6/12/2013 M nhận của chị A số tiền 2.200.000.000 đồng có viết biên nhận tại mặt sau bản hợp đồng đặt cọc. Theo yêu cầu của chị A, ngày 12/12/2013 M viết cho chị A giấy biên nhận có nội dung: Chị A đã đưa cho M 4.000.000.000 đồng tiền đặt cọc để mua ngôi nhà 38 phố Đào T và cam kết sẽ chịu tránh nhiệm hoàn toàn về tính hợp pháp các giấy tờ mà M cung cấp cho chị A. Số tiền 4.000.000.000 đồng M nhận của chị A, M chưa cho H 10.000.000 đồng như đã hứa với H. Đến hẹn không thấy M giao nhà và giấy tờ nhà như đã thỏa thuận, chị A đi tìm hiểu được biết ngôi nhà trên không phải của H mà thuộc sở hữu của vợ chồng ông Vũ Văn Hoàn và bà Nguyễn Thị Hồng, HKTT: 14/7 ngõ Đội Cấn, phường L, quận B, thành phố H và không thế chấp tại ngân hàng nên chị A đã đến Cơ quan điều tra - Công an quận W tố cáo M lừa đảo của M.
Tại Bản kết luận giám định số 113/C54-P5 ngày 22/1/2014 của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an kết luận: chữ ký, chữ viết đứng tên Nguyễn Thị Lê M trong Hợp đồng đặt cọc ngày 04/12/2013 và giấy nhận tiền và cam kết ngày12/12/2013 do Nguyễn Thị Lê M ký, viết ra.
Tại Bản kết luận giám định số 2437/C54-P5 ngày 26/3/2015 của Viện Khoa học hình sự - Bộ Công an kết luận: chữ ký và các chữ Nguyễn Thị Lê M “Trần Thị Thu H” dưới mục “ bên nhận đặt cọc” trong Hợp đồng đặt cọc ngày 04/12/2013 là do Trần Thị Thu H ký, viết ra.
Quá trình điều tra, Nguyễn Thị Lê M đã trả cho chị Nghiêm Thu A toàn bộ số tiền chiếm đoạt. Chị Hà đã nhận lại tiền, không có ý kiến gì về dân sự đồng thời đề nghị cơ quan pháp luật miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho bị can M và bị can H.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 291/2019/HSST ngày 19 tháng 9 năm 2019 của Tòa án nhân dân thành phố H đã quyết định:
1. Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Thị Lê M, Trần Thị Thu H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
- Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 139 Bộ luật Hình sự năm 1999; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 54; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Lê M 08 (Tám) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.
- Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 139 Bộ luật Hình sự năm 1999; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 2 Điều 54; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Trần Thị Thu H 03 (Ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.
2. Về trách nhiệm dân sự: áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015, Buộc bị cáo Nguyễn Thị Lê M phải bồi thường trả cho chị Nguyễn Bích L số tiền 510.000.000 đồng (Năm trăm mười triệu đồng).
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 25/9/2019, bị cáo Nguyễn Thị Lê M có đơn kháng cáo đề nghị xem xét lại về tội danh và hình phạt.
Ngày 24/9/2019, bị cáo Trần Thị Thu H có đơn kháng cáo đề nghị xem xét lại hình phạt.
Ngày 30/9/2019, người bị hại Dương Thị Thanh X có đơn kháng cáo về trách nhiệm dân sự đối với bị cáo M.
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa phúc thẩm; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, ý kiến tranh luận của các bị cáo, luật sư.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo Nguyễn Thị Lê M, Trần Thị Thu H thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội. Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Thị Lê M, Trần Thị Thu H tại phiên tòa phù hợp với với nhau, phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của bị hại, những người làm chứng, các bản kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên Hội đồng xét xử phúc thẩm có đủ cơ sở kết luận: Để có tiền sử dụng cho mục đích cá nhân, Nguyễn Thị Lê M đã dùng thủ đoạn trực tiếp hoặc thông qua những mối quan hệ quen biết đưa ra thông tin gian dối như: M đang làm việc tại bộ phận thu hồi nợ xấu của Ngân hàng Techcombank chi nhánh B, có mối quan hệ với Ngân hàng Techcombank, Ngân hàng TMCP đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV); có khả năng mua được nhà do ngân hàng phát mại vì khách hàng không trả được tiền vay. Bị cáo M tự lấy các địa chỉ nhà trên địa bàn Hà Nội và đặt ra giá bán nhà thấp hơn giá thị trường; Do tin tưởng bị cáo M, nhiều người đưa tiền cho bị cáo M để mua nhà hoặc đưa tiền cho bị cáo M để góp vốn cùng bị cáo M kinh doanh chia nhau lợi nhuận. Với thủ đoạn trên trong thời gian từ năm 2012 đến tháng 11/2013, bị cáo M đã chiếm đoạt tiền của 08 người với tổng số tiền là 40.320.000.000 đồng, cụ thể: Anh Nguyễn Văn K 5.020.000.000 đồng; Chị Dương Thị Thanh X 20.000.000.000 đồng; Anh Vũ Minh T 1.800.000.000 đồng; Chị Nguyễn Bích L 2.000.000.000 đồng; Chị Bùi Thị B 2.000.000.000 đồng; Chị Trần Thị Thu Y 4.500.000.000 đồng; Anh Chu Khắc S 1.000.000.000 đồng và chị Nghiêm Thu A 4.000.000.000 đồng.
[2] Bị cáo Trần Thị Thu H, mặc dù không phải là chủ sở hữu ngôi nhà số 38 Đào T, phường Cống V, quận B, thành phố H nhưng vẫn giúp sức cho bị cáo M ký vào bản hợp đồng đặt cọc bán nhà với danh nghĩa là chủ sở hữu ngôi nhà trên để bị cáo M chiếm đoạt của chị Nghiêm Thu A số tiền 4.000.000.000 đồng.
[3] Với hành vi vi phạm pháp luật nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm quy kết các bị cáo Nguyễn Thị Lê M và Trần Thị Thu H về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999 là hoàn toàn có căn cứ, đúng các quy định của pháp luật, không oan.
[4] Hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu riêng về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội, hoang mang lo lắng bất bình trong nhân dân. Do vậy đối với các bị cáo cần phải có một mức hình phạt nghiêm khắc, phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo giáo dục đối với các bị cáo cũng như đáp ứng yêu cầu đấu tranh và phòng ngừa loại tội phạm này.
[5] Xét kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Lê M đề nghị xin giảm nhẹ hình phạt, Hội đồng xét xử thấy rằng: Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá, bị cáo M có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình; Bị cáo M tích cực bồi thường phần lớn thiệt hại cho các bị hại, các bị hại đều có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo; Bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, đã ly hôn chồng một mình nuôi 03 con còn nhỏ. Bị cáo là người giữ vai trò chính, bị cáo là người trực tiếp đưa ra thủ đoạn, hành vi gian dối để lừa bị hại; Bị cáo phạm tội nhiều lần. Nên đã áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điểm g khoản 52 Bộ luật hình sự năm 2015. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo cung cấp Giấy biên nhận của chị Dương Thị Thanh X có nội dung giữa bị cáo M và chị X đã chốt công nợ còn 5.000.000.000 đồng, bị cáo M đã thanh toán hết số nợ nêu trên và không yêu cầu bị cáo M phải thanh toán thêm khoản tiền gốc và lãi nào nữa; Đơn xin bãi nại của chị X đề nghị miễn truy tố, xét xử cho bị cáo M. Đây là tình tiết giảm nhẹ mới tại cấp phúc thẩm, Hội đồng xét xử ghi nhận và xét thấy cần giảm cho bị cáo một phần hình phạt như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham gia phiên tòa.
[6] Xét kháng cáo của bị cáo Trần Thị Thu H: Tại Cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm bị cáo đều thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình; Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu với vai trò đồng phạm. Bị cáo phạm tội do nể nang bạn nên giúp sức cho bị cáo M, không được hưởng bất kỳ lợi nhuận nào; hậu quả đã được khắc phục, không còn thiệt hại; Bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, 02 con còn nhỏ. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giảm cho bị cáo một phần hình phạt để thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.
[7] Xét kháng cáo của người bị hại Dương Thị Thanh X: Tại cơ quan điều tra chị X không yêu cầu xem xét về trách nhiệm dân sự. Tại phiên tòa sơ thẩm chị X không có mặt, Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét về trách nhiệm dân sự của bị cáo M đối với chị X; Chị X kháng cáo yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền 1 tỷ đồng. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo M cung cấp chứng cứ là Giấy biên nhận ngày 11/6/2020 có nội dung giữa chị X và bị cáo M đã chốt công nợ còn 5 tỷ đồng, chị X đã nhận đủ số tiền 5 tỷ đồng và không yêu cầu bị cáo M phải thanh toán thêm tiền gốc và lãi nào nữa. Đồng thời bị cáo M cung cấp Đơn xin bãi nại ngày 11/6/2020 của chị X đề nghị các cơ quan tố tụng miễn truy tố, xét xử về hành vi phạm tội của bị cáo M. Xét thấy, nội dung kháng cáo của chị X chưa được Tòa án cấp sơ thẩm xem xét nên không đủ điều kiện xem xét theo thủ tục phúc thẩm. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của chị X.
[8] Về án phí: Theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Kháng cáo của các bị cáo được chấp nhận nên các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[9] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo; không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355; Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự: Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Thị Lê M, Trần Thị Thu H;
Không chấp nhận kháng cáo của chị Dương Thị Thanh X. Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 291/2019/HSST ngày 19 tháng 9 năm 2019 của Tòa án nhân dân thành phố H về phần hình phạt đối với các bị cáo Nguyễn Thị Lê M, Trần Thị Thu H.
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Lê M, Trần Thị Thu H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 139 Bộ luật Hình sự năm 1999; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 54; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Lê M 07 (bảy) năm tù;
thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án được trừ thời gian bị tạm giữ từ ngày 19/12/2013 đến ngày 29/12/2013.
Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 139 Bộ luật Hình sự năm 1999; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 2 Điều 54; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Trần Thị Thu H 02 (hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.
Án phí: Các bị cáo Nguyễn Thị Lê M, Trần Thị Thu H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo; Không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 274/2020/HS-PT
Số hiệu: | 274/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/06/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về