Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 27/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PH THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 27/2024/HS-ST NGÀY 27/02/2024 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 02 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 20/2024/TLST-HS ngày 26 tháng 01 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/2024/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 02 năm 2024, đối với bị cáo:

Nguyễn Thị N, sinh ngày 14/02/1994; Nơi cư trú: số nhà A, ngõ G, đường H, tổ H, phường P, thành phố T, tỉnh Thái Bình; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Nguyễn Minh T (đã chết) và bà Đào Thị C; Có chồng là Nguyễn Minh T1 (đã ly hôn) và có 02 con, con lớn sinh ngày 26/11/2009, con nhỏ sinh năm 2023.

Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 23/10/2023.

Bị cáo có mặt tại phiên toà.

B hi:

- Chị Phan Thị Khánh L, sinh năm: 1998 (vắng mặt) Nơi cư trú: Thôn P, xã L, huyện T, thành phố Hà Nội.

- Chị Trần Thị Kiều A, sinh năm: 1996 (vắng mặt) Nơi cư trú: Số nhà C, ngõ A, đường H, phường L, thành phố T, tỉnh Thái Bình.

- Anh Phạm Ngọc Q, sinh năm: 1998 Nơi cư trú: Thôn Y, xã L, huyện T, thành phố Hà Nội.

- Chị Lê Thị N1, sinh năm: 1999 Nơi thường trú: Tổ H, phường T, thành phố T, tỉnh Thái Bình.

Nơi ở hiện tại: số nhà F, đường N, phường Đ, thành phố T, tỉnh Thái Bình.

- Chị Đoàn Thị L1, sinh năm: 1996 Nơi cư trú: Số nhà D, ngõ C, đường Q, tổ B, phường Q, thành phố T, tỉnh Thái Bình.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Anh Phạm Duy Đ, sinh năm: 1996 Nơi cư trú: Số nhà C, ngõ A, đường H, phường L, thành phố T, tỉnh Thái Bình.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do không có việc làm, không có tiền tiêu xài cá nhân nên Nguyễn Thị N nảy sinh ý định giả danh là người có thể mở được thẻ tín dụng tại ngân hàng S và ngân hàng O với hạn mức cao rồi yêu cầu người mở thẻ phải mua gói bảo hiểm của ngân hàng, khi người mở thẻ chuyển tiền mua gói bảo hiểm thì N sẽ chiếm đoạt số tiền đó. N đã lập ra một tài khoản Facebook có tên “Thu Ngọc L2”, lập tài khoản Zalo có tên “Lê N2” đăng ký bằng số điện thoại 0928573xxx để phục vụ cho việc lừa đảo. Vào tối ngày 26/6/2023 N sử dụng Zalo “Ntq” đăng ký số điện thoại 07782628xx kết bạn và nhắn tin đến Zalo “Phan L” của chị Phan Thị Khánh L (là bạn quen biết trước đó). N nói với chị L là quen chị Lê Thu N3 làm việc ở ngân hàng S, chị N3 có khả năng mở thẻ tín dụng hạn mức cao tại ngân hàng S và o và có thể làm được thẻ cho cả những người có nợ xấu với điều kiện phải mua bảo hiểm, bản thân N đã làm được thẻ tín dụng hạn mức cao với gói bảo hiểm ưu đãi tại ngân hàng S, trong thời hạn 45 ngày sử dụng không mất phí nên chị L tin tưởng N và đồng ý để N giới thiệu chị L với chị N3. N đã tạo nhóm Z gồm N (sử dụng Zalo “Ntq”), Z “Lê N3” (đều do N sử dụng), Z “Phan L” của chị L để nói chuyện, mục đích giới thiệu chị Lê Thu N3 (do N giả danh) cho chị L biết để tạo lòng tin với chị L về việc làm thẻ tín dụng. Sau đó N sử dụng Zalo “Lê N3” chủ động kết bạn, nhắn tin nói chuyện riêng với chị L, nói nếu làm thẻ hạn mức tín dụng càng cao thì số tiền mua gói bảo hiểm càng lớn và muốn chị L giới thiệu nhiều người khác làm thẻ, càng nhiều người làm thì nhận được nhiều ưu đãi của ngân hàng. Do tin tưởng chị N3 (do N giả danh) nên chị Phan Thị Khánh L đã giới thiệu chị Trần Thị Kiều A có tên Z “Kiều Anh”, anh Phạm Ngọc Q có tên Z “Phạm Ngọc Q”, chị Lê Thị N1 có tên Z “Ốc” và chị Tô Mai A1 có tên Z “Tô Mai A1” kết bạn với Z “Lê N3”. Chị Lê Thị N1 giới thiệu chị Đoàn Thị L1 có tên Z “Meo” kết bạn với Z “Lê N3” do N sử dụng để nhờ làm thẻ tín dụng hạn mức cao. Qua Z “Lê N3” trong khoảng thời gian từ cuối tháng 6 năm 2023 đến cuối tháng 7 năm 2023, N tự nhận bản thân là chị Lê Thu N3 nhắn tin yêu cầu chị Phan Thị Khánh L, chị Kiều A, anh Q, chị Lê Thị N1, chị Đoàn Thị L1 và chị Tô Mai A1 cung cấp thông tin cá nhân, hướng dẫn thủ tục làm thẻ, chi phí khách hàng phải trả khi làm thẻ, hứa chắc chắn sẽ làm được thẻ tín dụng tại ngân hàng S và O và hứa hẹn khoảng 01 tháng sẽ có thẻ của ngân hàng S, khoảng 1 đến 3 tuần sẽ có thẻ của ngân hàng O. Do tin tưởng chị Lê Thu N3 làm việc ở ngân hàng S và đã mở được thẻ cho N nên chị Phan Thị Khánh L, chị Kiều A, anh Q, chị Lê Thị N1, chị Đoàn Thị L1, chị Tô Mai A1 đã cung cấp thông tin cá nhân cho chị Lê Thu N3 (do N giả danh) để làm thẻ tín dụng. Sau đó chị Phan Thị Khánh L, chị Kiều A, anh Q, chị Lê Thị N1, chị Đoàn Thị L1 đã chuyển tiền mua bảo hiểm cho N, ngoài ra chị Phan Thị Khánh L còn chuyển tiền cho N để mua bảo hiểm làm thẻ tín dụng cho chị Tô Mai A1. Cụ thể: Chị Phan Thị Khánh L đã sử dụng số tài khoản 190335984470xx ngân hàng T2 và số tài khoản 88322663xxxx ngân hàng M của chị Phan Thị Khánh L chuyển tiền thành nhiều lần đến số tài khoản 9423398xxx ngân hàng T2 và số tài khoản 47129000002xxx ngân hàng B mang tên Nguyễn Thị N, tổng số tiền 49.490.000 đồng để mua bảo hiểm làm thẻ tín dụng cho chị Phan Thị Khánh L, anh Nguyễn Tuấn A2 và chị Tô Mai A1. Chị Kiều A sử dụng số tài khoản 000020006xx ngân hàng T3 của chị Kiều A chuyển tiền nhiều lần đến số tài khoản 9423398xxx ngân hàng T2 mang tên Nguyễn Thị N, tổng số tiền là 43.000.000 đồng để mua bảo hiểm làm thẻ tín dụng cho chị Kiều A và anh Phạm Duy Đ. Anh Q sử dụng số tài khoản 2517101998 ngân hàng V của anh Q chuyển tiền nhiều lần đến số tài khoản 9423398xxx ngân hàng T2, số tài khoản 47129000002xxx ngân hàng B và số tài khoản 914021xxx ngân hàng MB mang tên Nguyễn Thị N, tổng số tiền là 87.190.000 đồng để mua bảo hiểm làm thẻ tín dụng cho chị Trần Thị U, anh Nguyễn Văn X, anh Hoàng Ngọc A3. Chị Lê Thị N1 sử dụng số tài khoản 190337847819xx ngân hàng T2 và số tài khoản 096526xxxx ngân hàng V của chị N1 chuyển tiền nhiều lần đến số tài khoản 9423398xxx ngân hàng T2 mang tên Nguyễn Thị N, tổng số tiền là 13.000.000 đồng để mua bảo hiểm làm thẻ tín dụng cho chị Lê Thị N1. Chị Đoàn Thị L1 sử dụng số tài khoản 04275524001 ngân hàng T3 của chị Đoàn Thị L1 chuyển tiền một lần đến số tài khoản 9423398xxx ngân hàng T2 mang tên Nguyễn Thị N, số tiền là 1.100.000 đồng để mua bảo hiểm làm thẻ tín dụng cho chị Đoàn Thị L1. Tổng số tiền N chiếm đoạt là 193.780.000 đồng. Sau khi nhận tiền, N không làm thẻ tín dụng mà sử dụng để chi tiêu cá nhân. Đến hẹn trả thẻ tín dụng, chị Khánh L, chị Kiều A, anh Q, chị Lê Thị N1, chị Đoàn Thị L1 không thấy chị Lê Thu N3 (do N giả danh) trả thẻ nên đã liên tục nhắn tin đến Z “Lê N3” hỏi về việc trả thẻ tín dụng nhung N lấy nhiều lý do khác nhau khất lần việc trả thẻ để kéo dài thời gian, gọi điện thì N không nghe máy. Sau đó do bị nhắn tin đòi nhiều và do số tiền chiếm đoạt của chị Lê Thị N1 và chị Đoàn Thị L1 ít nên N đã trả lại số tiền 13.000.000 đồng cho chị Lê Thị N1 và 1.100.000 đồng cho chị Đoàn Thị L1. Đối với anh Q, chị Kiều A, chị Khánh L sau nhiều lần nhắn tin qua Zalo “Lê N3” đòi tiền nhưng N không trả nên anh Q, chị Kiều A, chị Khánh L đã đến nhà N ở CT1, phòng 313, chung cư C, phường Q, thành phố T, tỉnh Thái Bình yêu cầu N cho gặp chị Lê Thu N3 để hỏi rồ về việc làm thẻ và giải thích về số tiền anh Q, chị Kiều A, chị Khánh L chuyển vào tài khoản mang tên Nguyễn Thị N thì N nói không biết chị N3 ở đâu, không liên lạc được, số tiền anh Q, chị Kiều A, chị Khánh L đã chuyển vào tài khoản của N, N đã tiêu xài hết.

Tại Cáo trạng số 27/CT-VKSTPTB ngày 26 tháng 01 năm 2024, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình truy tố bị cáo Nguyễn Thị N về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thị N khai nhận đã thực hiện hành vi như cáo trạng đã mô tả.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình giữ nguyên quan điểm đã truy tố trong bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị N phạm tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản".

- Hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 174, điểm b, s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 50 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Thị N mức án từ 06 năm đến 06 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày đi thi hành án.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Nguyễn Thị N đã trả lại cho chị Kiều A số tiền 30.000.000 đồng, chị Khánh L số tiền 9.100.000 đồng, anh Quân số tiền 7.200.000 đồng, chị Lê Thị N1 số tiền 13.000.000 đồng, chị Đoàn Thị L1 số tiền 1.100.000 đồng. Chị Lê Thị N1 và chị Đoàn Thị L1 đã nhận lại đủ số tiền mà bị cáo đã chiếm đoạt nên không có yêu cầu, đề nghị gì khác về trách nhiệm dân sự. Chị Kiều A, anh Q, chị Khánh L yêu cầu bị cáo phải trả số tiền còn lại mà bị cáo đã chiếm đoạt. Do đó, buộc bị cáo phải trả lại cho: Chị Phan Thị Khánh L số tiền 40.390.000 đồng, chị Trần Thị Kiều A số tiền 13.000.000 đồng, anh Phạm Ngọc Q số tiền 79.990.000 đồng.

- Về xử lý vật chứng: Tịch thu hóa giá sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động nhăn hiệu Iphone 11 màu đen, đã qua sử dụng.

- Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo đồng ý với tội danh mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình đã truy tố và không có ý kiến tranh luận đối với bản luận tội của Kiểm sát viên.

Bị cáo Nguyễn Thị N nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về căn cứ kết tội đối với bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thị N khai nhận đã thực hiện hành vi như cáo trạng mô tả. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Do không có việc làm, không có tiền tiêu xài cá nhân nên Nguyễn Thị N nảy sinh ý định giả danh là người có thể mở được thẻ tín dụng tại ngân hàng S và ngân hàng O với hạn mức cao rồi yêu cầu người mở thẻ phải mua gói bảo hiểm của ngân hàng, khi người mở thẻ chuyển tiền mua gói bảo hiểm thì N sẽ chiếm đoạt số tiền đó. Từ ngày 26/6/2023 đến ngày 17/7/2023, Nguyễn Thị N đã giả danh là chị Lê Thu N3 làm ở ngân hàng S đưa ra thông tin gian dối để chiếm đoạt của chị Phan Thị Khánh L, chị Trần Thị Kiều A, anh Phạm Ngọc Q, chị Lê Thị N1 và chị Đoàn Thị L1 tổng số tiền 193.780.000 đồng, sau khi nhận được tiền N đã tiêu xài cá nhân hết.

Đây là hành vi gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản được pháp luật bảo vệ. Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được tính chất, mức độ và hậu quả của hành vi do mình thực hiện nhưng vẫn cố ý thực hiện tội phạm, số tiền bị chiếm đoạt của các bị hại trên 50.000.000 đồng nên đã phạm vào tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự.

Điều 174. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản 1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

...

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

...

c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

...

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

[3] Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình truy tố bị cáo Nguyễn Thị N về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, đã khắc phục trả lại một phần tài sản cho các bị hại nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo nhiều lần thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, do vậy bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội hai lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[5] Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng mức hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, để cải tạo, giáo dục bị cáo, góp phần đấu tranh phòng ngừa chung.

[6] Bị cáo không có việc làm và thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Tổng số tiền mà bị cáo chiếm đoạt của các bị hại là 193.780.000 đồng, trong đó 49.490.000 đồng của chị Phan Thị Khánh L, 43.000.000 đồng của chị Trần Thị Kiều A, 87.190.000 đồng của anh Phạm Ngọc Q, 13.000.000 đồng của chị Lê Thị N1, 1.100.000 đồng của chị Đoàn Thị L1.

Bị cáo Nguyễn Thị N đã trả lại cho chị Kiều A số tiền 30.000.000 đồng, chị Khánh L số tiền 9.100.000 đồng, anh Quân số tiền 7.200.000 đồng, chị Lê Thị N1 số tiền 13.000.000 đồng, chị Đoàn Thị L1 số tiền 1.100.000 đồng. Chị Lê Thị N1 và chị Đoàn Thị L1 đã nhận lại đủ số tiền mà bị cáo chiếm đoạt nên không có yêu cầu, đề nghị gì khác về trách nhiệm dân sự. Chị Kiều A, anh Q, chị Khánh L yêu cầu bị cáo phải trả số tiền còn lại mà bị cáo đã chiếm đoạt. Do đó, buộc bị cáo phải trả lại cho: Chị Phan Thị Khánh L số tiền 40.390.000 đồng, chị Trần Thị Kiều A số tiền 13.000.000 đồng, anh Phạm Ngọc Q số tiền 79.990.000 đồng.

[8] Về vật chứng của vụ án: Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 màu đen, đã qua sử dụng là công cụ phương tiện dùng vào việc thực hiện hành vi phạm tội cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

[9] Đối với việc chị Phan Thị Khánh L và chị Lê Thị N1 tạo nhóm Z giới thiệu chị Lê Thu N3 (tài khoản Zalo “Lê N3” do N sử dụng) để làm thẻ tín dụng, bản thân chị Phan Thị Khánh L và chị Lê Thị N1 cũng là bị hại, do tin tưởng N, không biết việc N giả danh là Lê Thu N3 làm việc tại ngân hàng S để lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Mặc dù giới thiệu người cho N làm thẻ tín dụng nhung chị Phan Thị Khánh L và chị Lê Thị N1 không bàn bạc gì với N và cũng không được hưởng lợi gì. Do vậy cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T không có căn cứ xử lý đối với chị Phan Thị Khánh L và chị Lê Thị N1.

[10] Ngoài ra, trong lý lịch thể hiện bị cáo Nguyễn Thị N có con là Nguyễn Hà L3 sinh ngày 26/11/2009 (thời điểm N chưa đủ 16 tuổi). Nguyễn Thị N khai nhận có quan hệ tình dục với anh Nguyễn Minh T1, sinh năm 1988, trú tại: Thôn V, xã T, huyện T, tỉnh Thái Bình tại một nhà nghỉ ở thị trấn D, huyện T, tỉnh Thái Bình. Hành vi này có dấu hiệu của tội “Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” theo quy định tại Điều 145 Bộ luật Hình sự. Do đó cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T đã chuyển tài liệu đến cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T, tỉnh Thái Bình để xác minh giải quyết theo thẩm quyền.

[11] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Thị N phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[12] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong thời hạn luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 2 điều 174; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 46; Điều 47; Điều 50 Bộ luật Hình sự; Điều 584; Điều 585; Điều 586; Điều 589 Bộ luật Dân sự; Điều 106; Điều 135; Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thị N phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

2. Hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị N 06 (sáu) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

3. Trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Nguyễn Thị N phải trả lại cho: Chị Phan Thị Khánh L số tiền 40.390.000 đồng, chị Trần Thị Kiều A số tiền 13.000.000 đồng, anh Phạm Ngọc Q số tiền 79.990.000 đồng.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

4. Xử lý vật chứng: Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 màu đen, đã qua sử dụng.

(Vật chứng, tài sản trên đã được chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 26/01/2023).

5. Án phí: Bị cáo Nguyễn Thị N phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 6.669.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

6. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

23
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 27/2024/HS-ST

Số hiệu:27/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về