TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
BẢN ÁN 263/2022/HS-PT NGÀY 20/04/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 20 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 985/TLPT-HS ngày 12 tháng 11 năm 2021 đối vớibị cáo Nguyễn Văn H bị Tòa án sơ thẩm xét xử về tội“Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” do có kháng cáo của bị cáo, người bị hạiđối với Bản án hình sự sơ thẩm số 256/2021/HS-ST ngày 22 tháng 9 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.
* Bị cáo có kháng cáo, bị kháng cáo:
Nguyễn Văn H, sinh năm 1971 tại T2 Bình; giới tính: Nam; ĐKNKTTvà trú tại:Phòng 504/B29 khutập thể CĐ, phường MD, quận CG , thành phố Hà Nội;quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo:Không;nghề nghiệp:Nguyên Phó Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần AViệt Nam;trình độ học vấn:12/12;trình độ chuyên môn: Thạc sĩ Kinh tế; đảng phái:Nguyên Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, đã bị xóa tên trong danh sách đảng viên theo Quyết định số 554/QĐ/QU ngày 02/7/2021 của Quận ủy Cầu Giấy; con ông Nguyễn Văn S và bà Trần Thị S1;có vợ là Nguyễn Thị Thúy H và 02 con, lớn sinh năm 2002, nhỏ sinh năm 2007; tiền án, tiền sự: Chưa; bị cáo bị bắt theo Quyết định truy nã và bị tạm giữ tạm giam từ ngày 09/4/2021; hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 01 của Công an thành phố Hà Nội; có mặt.
Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Nguyễn Quang T – Văn phòng luật sư Đặng Sơn và cộng sự, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội; Có mặt.
* Người bị hại:
1. Bà Nguyễn Thị T1, sinh năm 1972; trú tại:Số 12 phố Gia Thượng thuộc tổ 19, phường NT, quận LB, thành phố Hà Nội; có mặt.
2. Ông Vũ Văn H1, sinh năm 1967; trú tại:Phòng 710,Tòa nhà HH2, ngõ 202 đường TC,phường PM, quận Đ Đ, thành phố Hà Nội; vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
3. Anh Nguyễn Đăng Kh, sinh năm1977; ĐKNKTT: Thôn NX, thị trấn VĐ, huyện UH, thành phố Hà Nội; trú tại: Thôn YB, xã DX, huyện GL, thành phố Hà Nội; vắng mặt.
4.Anh Nguyễn Văn Kh1, sinh năm 1984; ĐKNKTT:Tập thể 5G, phố DA, phường VQ, quận HĐ; trú tại: Phòng 1803, Tòa nhà DH, số 16B phố NTH, quận HĐ, thành phố Hà Nội; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 15/10/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận NTL , thành phố Hà Nội nhận được đơn của bà Nguyễn Thị T1, ông Vũ Văn H1, ông Nguyễn Đăng Kh tố giác Nguyễn Văn T2, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần A Việt Nam(Sau đây viết tắt là Công ty HTV Việt Nam), Nguyễn Văn H, Phó Tổng Giám đốc Công ty HTV Việt Nam, chị Dương Thị H3 và Công ty TNHH Đầu tư Phát triển Xây dựng Thương mại Phú H có địa chỉ tại phòng 411 Tòa nhà HA, phường Cầu Diễn, quận NTL, thành phố Hà Nội có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản thông qua việc ký kết các Bản đăng ký đặt chỗ mua các căn liền kề tại Dự án khu biệt thự và nhà ở H Thịnh thuộc xã CC, huyện VG, tỉnh H Yên.
Quá trình điều tra xác định:Công ty HTV Việt Nam có trụ sở tại số 83, đường PD, phường TM, quận TL sau chuyển về tầng 7, tòa nhà Suced, số 108 đường NH, phường MĐ2, quận NTL , thành phố Hà Nội do Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 0104622767 ngày 06/5/2010 vớingành nghề kinh doanh: Xây dựng nhà các loại, xây dựng nhà công ích, phá dỡ, chuẩn bị mặt bằng....do Nguyễn Văn T2 là Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc, đại diện theo pháp luật; cổ đông của Công ty gồm anh Nguyễn Thế V(sinh năm 1987;ĐKNKTT: Thôn VX, xã VH, huyện NG, tỉnh Hải Dương); chị Nguyễn Thị H5(sinh năm 1987; ĐKNKTT: Thôn QL, xã HQ, huyện QV, tỉnh Bắc Ninh) nH anh V và chị H5 không tham gia điều hành Công ty.
Công ty Cổ phần xây dựng và Thương mại An T2 Sơn, trụ sở tại số 10B/32/162 phố KT, phường KT, quận TX, thành phố Hà Nội do Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 0103025633 ngày 02/7/2008 vớingành nghề kinh doanh: Xây dựng các công trình dân dụng, công nghiệp, giao thông thủy lợi....do Nguyễn Văn T6(sinh năm 1979; nơi cư trú: Số 10B/32/162 KT, phường KT, quận TX, thành phố Hà Nội) là Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc, đại diện theo pháp luật. Ngày 25/11/2013, chuyển đổi loại hình doanh nghiệp sang thành Công ty TNHH Đầu tư Phát triển Xây dựng Thương mại Phú H (viết tắt là Công ty Phú H) do Bùi Thị Thu T7(sinh năm 1988; ĐKNKTT: Số 4B BĐ, phường Hạ Lý, quận H1 Bằng, thành phố Hải Phòng) là Giám đốc, đại diện theo pháp luật. Cổ đông của Công ty gồm Công ty HTV Việt Nam, người đại diện phần vốn góp là Nguyễn Văn T2 chiếm 51% tỷ lệ góp vốn và chị Phạm Thị Tuyết N7 (sinh năm 1993; ĐKNKTT: Số 508 khu CC Xưởng 4BĐBP, phường MD, quận CG, thành phố Hà Nội); chị N7 không tham gia điều hành Công ty. Công ty Phú H thuê văn phòng tại phòng 411 tòa nhà đa năng HAD, phường CD, quận NTL , thành phố Hà Nội.
Nguyễn Văn H làm việc tại Công ty HTV Việt Nam từ tháng 11/2017 đến tháng 11/2018, với chức danh Phó Tổng giám đốc, đồng thời kiêm Kế toán của Công ty Phú H do Bùi Thị Thu T7 là Giám đốc.
Khoảng tháng 4/2018, do cần tiền để trả nợ, Nguyễn Văn T2 đã nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản của các cá nhân có nhu cầu đầu tư bất động sản. Qua tìm hiểu T2 được biết dự án khu biệt thự và nhà ở H Thịnh tại xã CC, huyện VG, tỉnh H Yên do Công ty TNHH Đầu tư và Phát triển An Phú (viết tắt là Công ty An Phú) là chủ đầu tư đang trong giai đoạn triển khai thực hiện dự án;người đại diện theo pháp luật là bà Trần Bích N (sinh năm 1955;trú tại: Số nhà 29B phố Nguyễn Siêu, phường Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội). T2 đã lợi dụng dự án của Công ty An Phú để huy động vốn của các nhà đầu tư rồi chiếm đoạt tiền. Để có thông tin về dự án, T2 tìm gặp đại diện Công ty An Phú và đề xuất về việc chuyển nhượng tòa chung cư 32 tầng thông qua hình thức chuyển nhượng vốn góp của Công ty An Phú cho Công ty HTV Việt Nam. Bà Bích Ngọc được T2 giới thiệu là Chủ tịch AViệt Nam và có nguyện vọng muốn góp vốn đầu tư nên đã đồng ý cung cấp thông tin, hồ sơ pháp lý của Dự án H Thịnh để T2 nghiên cứu đầu tư. Đểđánh giá được năng lực tài chính của Công ty HTV Việt Nam do T2 làm Chủ tịch, Công ty An Phú đồng ý ký 05 Hợp đồng góp vốn đầu tư bằng 04 căn biệt thự (các thửa đất số 283, 289, 319, 320) và 01 căn liền kề (thửa số 268). Khi đàm phán về 05 Hợp đồng góp vốn trên, T2 nói sẽ lấy tư cách pháp nhân của Công ty Phú H do Bùi Thị Thu T7 (vợ T2 là Giám đốc) để ký hợp đồng với Công ty An Phú.
Ngày 20/7/2018, theo chỉ đạo của Nguyễn Văn T2, Bùi Thị Thu T7, đại diện Công ty Phú H ký 05 Hợp đồng góp vốn với Công ty An Phú để nhận quyền phân chia sản phẩm là quyền sử dụng đất ở và quyền sở hữu nhà ở đối với 01 căn liền kề và 04 căn biệt thự trên; số tiền góp vốn đầu tư vào Dự án theo Hợp đồng là 30 tỷ đồng. Tuy nhiên, sau khi ký hợp đồng, T2 và Công ty Phú H không thanh toán bất cứ khoản tiền nào cho Công ty An Phú. Do đó, ngày 20/8/2018, Công ty An Phú và Công ty Phú H đã ký 05 Biên bản thanh lý hợp đồng góp vốn đầu tư. Công ty An Phú không cam kết hay thỏa thuận nào bằng lời nói, cũng như không ký văn bản ủy quyền cho Công ty Phú H nhận tiền đặt chỗ, đặt cọc của các cá nhân, tổ chức có nhu cầu mua các sản phẩm bất động sản tại dự án H Thịnh.
Mặc dù, Công ty Phú H cũng như Nguyễn Văn T2 và Bùi Thị Thu T7 không còn có bất cứ quyền lợi gì tại dự án khu biệt thự và nhà ở H Thịnh nhưng Nguyễn Văn T2 và Nguyễn Văn H, Phó Tổng Giám đốc Công ty HTV Việt Nam vẫn giới thiệu với chị Dương Thị H3 về việc Công ty HTV Việt Nam đã mua lại toàn bộ dự án H Thịnh và đã giao cho Công ty Phú H là đơn vị phân phối, chuyển nhượng các căn liền kề tại dự án này. T2 hứa hẹn bán cho chị H3 01 căn liền kề với giá ưu đãi, trường hợp chị H3 giới thiệu người khác đến mua, T2 sẽ trích phần trăm hoa H1 cho chị H3. Do tin tưởng T2 giới thiệu cũng như đi khảo sát, chị H3 thấy một số căn liền kề tại Dự án đã xây xong phần thô nên ngày 04/6/2018chị H3 đã chuyển cho T2 130.000.000đồng, trong đó chị H3 đưa cho H 80.000.000đồng tiền mặt và vay của anh Vũ Văn H 150.000.000đồng để chuyển cho T2 (anh H1 đã chuyển khoản cho T2)để đặt chỗ mua căn liền kề lô số 02, thửa đất số 251, diện tích 90m2. Sau đó, chị H3 cùng vợ cH1 anh Phạm Vũ Mạnh và chị Bùi Thị Mai Hoa thống nhất nộp cho T2 400.000.000đồng để đặt chỗ 08 căn liền kề (Lô số 03 đến lô 11, thửa số: 253, 254, 255, 256, 259, 260, 261, 262) của Dự án; trong đó anh M và chị H góp 200.000.000 đồng, do H3 không còn tiền nên đã chuyển 130.000.000đồng để đặt chỗ mua căn liền kề lô số 02, thửa đất số 251 sang để đặt chỗ 08 căn nhà liền kề trên. Mặc dù chỉ đóng tổng cộng là 330.000.000đồng, nH T2 vẫn chỉ đạo T7 viết phiếu thu 400.000.000đồng đề ngày 20/6/2018 và “Giấy đăng ký đầu tư bất động sản” đề ngày 18/6/2018 đưa cho chị H3. Sau đó, chị H3 cùng anh Mạnh, chị Hoa thông qua một số nhân viên môi giới bất động sản tự do đã giới thiệu các khách hàng nộp tiền đăng ký đặt chỗ mua các căn liền kề cho Công ty Phú H.
Tại văn phòng của Công ty Phú H, T2 và H tiếp tục giới thiệu với các khách hàng vềDự án và yêu cầu khách hàng đặt cọc cho Công ty số tiền 150.000.000đồng/căn liền kề và cam kết sau 30-45 ngày kể từ ngày nộp tiền sẽ hoàn tất thủ tục pháp lý ký hợp đồng mua bán chính thức và giúp khách hàng làm thủ tục để N7 hàng hỗ trợ cho vay 70% giá trị hợp đồng.Ngoài ra, để tạo niềm tin với chị H3 và các khách hàng, Nguyễn Văn H đã gửi ảnh chụp Hợp đồng góp vốn mà Công ty Phú H ký với Công ty An Phú để mua căn liền kề lô (ô số 268) tại dự án H Thịnh qua tài khoản Zalo cá nhân của chị H3 để chị H3 gửi chuyển tiếp cho vợ cH1 anh Mạnh, chị Hoa và các khách hàng. Đồng thời, H gửi file mẫu hợp đồng mua bán qua địa chỉ Email cá nhân của chị H3 để tham khảo trước khi ký kết hợp đồng.
Với thủ đoạn nêu trên,từ tháng 6 đến tháng 7/2018, Nguyễn Văn T2 đã chỉ đạo Bùi Thị Thu T7, Nguyễn Văn H cùng với chị Lê Thị Ảnh(Sinh năm 1995; ĐKNKTT: Tổ dân phố 14, thị trấn Na Hang, huyện Na Hang, tỉnh Tuyên Quang), là chuyên viên pháp chế của Công ty Phú H đã nhận tiền đặt chỗ mua các căn liền kề của chị Dương Thị H3, chị Bùi Thị Mai Hoa và 06 khách hàng khác với tổng số tiền là 1.734.000.000đồng, cụ thể: Ông Vũ Văn H1 đã ký Bản đăng ký số 17/ĐKNV đề ngày 04/6/2018 và chuyển 150.000.000đồng vào tài khoản số: 19030512998558 của Nguyễn Văn T2 mở tại Techcombank để đặt chỗ mua căn liền kề lô số 03, thửa đất số 252 (Phiếu thu đề ngày 05/6/2018).AnhNguyễn Đăng Khvà em trai là anh Nguyễn Văn Kh1 đã ký Bản đăng ký số 18/ĐKNV không ghi ngày và nộp 300.000.000đồng(Phiếu thu đề ngày 07/7/2018) để đặt chỗ mua căn liền kề số 04, thửa số 253. Thông qua anh Mạnh và chị Hoa giới thiệu,anhVũ Khắc Hùng đã ký Bản đăng ký số 19/ĐKNV đề ngày 10/7/2018 và nộp 425.000.000đồng (có Phiếu thu) để đặt mua lô liền kề số 05, thửa số 254.Bà Nguyễn Thị T1 đã ký Bản đăng ký số 22/ĐKNV đề ngày 24/7/2018 và ký thay cho chị Nguyễn Thị Ngọc Hoa(Sinh năm 1978; ĐKNKTT:Số 29 ngách 266/36/6 phố Nguyễn Văn Cừ, phường Bồ Đề, quận LB), Bản đăng ký số 21/ĐKNV đề ngày 24/7/2018; ký thay chị Nguyễn Thúy Anh(Sinh năm 1969;trú tại: Số 147 phố Đội Cấn, quận Ba Đình) Bản đăng ký số 23/ĐKNV đề ngày 24/7/2018 và nộp tổng số tiền 900.000.000đồng để đăng ký đặt chỗ mua 03 căn liền kề lô số 06 thửa số 255, lô số 07 thửa số 256 và lô số 08 thửa số 259.
Đến thời hạn ký hợp đồng mua bán chuyển nhượng các căn liền kề nH T2 và Công ty Phú H không thực hiện theo cam kết, thỏa thuận với các khách hàng, T2 chỉ đạo H gửi ảnh chụp các Thông báo số 26/PH-2018 đề ngày 22/8/2018 và Thông báo số 27/PH-2018 đề ngày 26/9/2018 do Nguyễn Văn T2 ký xác nhận dưới mục “Chủ tịch HĐTV”, với nội dung: “Chủ đầu tư cam kết không quá 30 ngày kể từ ngày ra văn bản cam kết sẽ tiến hành ký hợp đồng với khách hàng theo đơn giá đặt chỗ” cho chị Dương Thị H3 và các khách hàng. Nguyễn Văn H nhiều lần khẳng định Công ty Phú H sẽ thực hiện theo đúng cam kết ghi trong thông báo.
Tại Bản kết luận giám định số 9283/KLGĐ-PC09(Đ4) ngày 13/12/2018 của Phòng kỹ thuật Hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận: “Chữ viết phần nội dung trên các mẫu cần giám định (ký hiệu từ A1 đến A5 và từ A9 đến A11) là chữ viết của Bùi Thị Thu T7. Chữ ký đứng tên Bùi Thị Thu T7 trên các mẫu cần giám định (ký hiệu từ A1 đến A5 và từ A7 đến A12) là chữ ký của Bùi Thị Thu T7. Chữ ký đứng tên Nguyễn Văn T2 trên mẫu cần giám định (ký hiệu A6); Chữ ký, chữ viết dòng họ tên Nguyễn Văn T2 trên mẫu cần giám định (ký hiệu A12) là chữ ký, chữ viết của Nguyễn Văn T2. Chữ ký, chữ viết dòng họ tên Nguyễn Văn H dưới chữ ký trên các mẫu cần giám định (ký hiệu từ A1 đến A5); chữ ký dưới mục “thủ quỹ” trên mẫu cần giám định (ký hiệu A6) là chữ ký, chữ viết của Nguyễn Văn H.Chữ viết phần nội dung trên mẫu cần giám định (ký hiệu A6) là chữ của Lê Thị Ảnh.Chữ ký, chữ viết dòng họ tên Lê Thị Ảnh dưới chữ ký trên các mẫu cần giám định (ký hiệu từ A3 đến A6) là chữ ký, chữ viết của Lê Thị Ảnh.
Sau khi nhận tiền của các khách hàng, dưới sự chỉ đạo của T2, T7 đã chuyển tiền chênh lệch(hoa H1) cho chị Dương Thị H3 02 lần: Lần 1, ngày 12/7/2018, chuyển 186.000.000đồng; lần 2 ngày 23/7/2018, chuyển khoản 318.000.000đồng. Theo thỏa thuận giữa chị H3 với anh Mạnh, chị Hoa, anhTrịnh Kế Đồng(Là người môi giới bất động sản), chị H3 đã chuyển 414.000.000đồngcho vợ cH1 anh Mạnh, chị Hoavà 44.000.000 đồng cho anh Đồng; H3 giữ lại 46.000.000đồng.
Như vậy, T2 còn chiếm đoạt của chị H3 84.000.000đồng, chị H3 yêu cầu T2 trả lại số tiền trên. Anh Mạnh và chị Hoađã nhận 414.000.000đồng, đã trả lại cho ông Vũ Khắc Hùng 125.000.000 đồng, đối trừ 200.000.000 đồng đã nộp cho T2,chị Hoa được hưởng lợi 89.000.000đồng. Quá trình điều tra, ngày 27/12/2018, Công an quận NTL đã ra quyết định thu giữ đồ vật, tài liệu có liên quan đối với số tiền anh Trịnh Kế Đồng và chị Bùi Thị Mai Hoa được hưởng lợi. Ngày 27/8/2019, anh Đồng đã nộp lại số tiền 20.000.000đồng để trả cho bị hại.
Toàn bộ số tiền 1.734.000.000đồng nhận từ chị Dương Thị H3 và 06 khách hàng, T2 đã chi tiêu hết vào mục đích cá nhân, không có khả năng trả lại cho họgồm: Bà Nguyễn Thị T1, ông Vũ Văn H1, ông Nguyễn Đăng Kh và ông Vũ Khắc Hùng. Những người bị hại đề nghị Cơ quan điều tra xử lý Nguyễn Văn T2, Nguyễn Văn H, Bùi Thị Thu T7 và các đối tượng liên quantheo quy định của pháp luật và yêu cầu trả lại số tiền còn chiếm đoạt.
Xác minh tại Công ty An Phú xác định: Lô số 02 thửa số 251, lô số 03 thửa số 252,lô số 04 thửa số 253, lô số 05 thửa số 254,lô số 06 thửa số 255, lô số 07 thửa số 256, lô số 08 thửa số 259, lô số 10 thửa số 261, lô số 11 thửa số 262,Công ty An Phú đã ký hợp đồng góp vốn với khách hàng từ năm 2010.Đến nay các hợp đồng góp vốn nêu trên vẫn có giá trị pháp lý. Công ty An Phú không có chủ trương thỏa thuận hay mua lại các lô liền kề mà Công ty An Phú đã ký hợp đồng góp vốn với khách hàng.
Công an phường Cầu Diễn, quận NTL , thành phố Hà Nội cung cấp: Công ty Phú H thuê phòng 411, Tầng 4, Tòa nhà Hoa Anh Đào, tổ 11, phường Cầu Diễn, quận NTL làm văn phòng nH đã không còn hoạt động tại địa chỉ này từ khoảng tháng 7/2018. Ban quản lý Tòa nhà Suced, địa chỉ số 108 phố NH, phường MĐ2, quận NTL cung cấp: Công ty HTV Việt Nam ký hợp đồng số 012HĐMB/04102016 với Công ty Cổ phần Trung Tín thuê tầng 7, diện tích thuê 447m2, thời hạn thuê 05 năm (từ ngày 06/11/2016 đến ngày 05/11/2021, giá thuê mặt bằng là 131.785.434đồng/tháng)làm trụ sở văn phòng Công ty từ tháng 11/2016. Đến nay, thời hạn hợp đồng vẫn còn hiệu lực. Tuy nhiên, do Công ty HTV Việt Nam không thực hiện các nghĩa vụ tài chính như đã cam kết trong hợp đồng nên Ban quản lý Tòa nhà đã đơn phương chấm dứt hợp đồng và đã cho đơn vị khác thuê mặt bằng tầng 7 của tòa nhà từ khoảng giữa năm 2018.
Ngày 12/12/2019, đại diện Công ty Trung Tín đã bàn giao lại tài liệu của Công ty HTV Việt Nam cho Bùi Thị Thu T7.
Quá trình điều tra, Bùi Thị Thu T7 khai: T7 biết T2 khó khăn về tài chính, không có tiền để thực hiện dự án khu biệt thự và nhà ở H Thịnh nhưng theo sự chỉ đạo của T2 và hướng dẫn của H, T7 đã viết phiếu thu, ký đóng dấu vào Bản đăng ký đặt chỗ, nhận tiền của khách hàng để bán các căn liền kề thuộc Dự án.
Nguyễn Văn H khai: H là Phó Tổng Giám đốc Công ty HTV Việt Nam, kiêm kế toán của Công ty Phú H và phụ trách mảng khách hàng của Dự án khu biệt thự và nhà ở H Thịnh. H biết Công ty HTV Việt Nam do T2 là Chủ tịch về năng lực tài chính yếu, không như T2 giới thiệu với khách hàng như:Là chủ đầu tư một số dự án bất động sản lớn tại Bắc Ninh, Thành phố Hồ Chí Minh; do T2 đã ký hợp đồng trả lương 30.000.000đồng/tháng nên H đã làm theo sự chỉ đạo của T2. T2 có trao đổi với H, Công ty Phú H sẽ mua bán, nhận chuyển nhượng Dự án khu biệt thự và nhà ở H Thịnh của Công ty An Phú; H biết Công ty Phú H cũng như Công ty HTV Việt Nam không có nguồn lực tài chính để ký hợp đồng mua bán dự án với Công ty An Phú. Sau khi xem tài liệu pháp lý về Dự án do T2 cung cấp, H biết Công ty Phú H không có quyền lợi tại dự án, nH H đã có hành vi giúp T2 và T7 trong việc lập phiếu đăng ký đặt chỗ, hướng dẫn T7 viết phiếu thu tiền và cùng T2, T7 nhận tiền đặt chỗ, đặt cọc của các khách hàng; H trực tiếp giao dịch với khách hàng thông qua nhắn tin, liên lạc để giới thiệu về Dự án, cho khách hàng xem bản đồ quy hoạch chi tiết 1/500 của Dự án. Ngày 04/6/2018 tại Văn phòng Công ty Phú H ở tầng 4 Tòa nhà Hoa Anh Đào, Hà Nội, Dương Thị Hạnh, Vũ Văn H1, Trịnh Kế Đồng có đến gặp T2, H, T7. Tại đây, H đã thay mặt Lãnh đạo AViệt Nam và Công ty Phú H giới thiệu về Dự án nhà ở H Thịnh đã được AViệt Nam mua lại toàn bộ dự án của Công ty An Phú (chủ đầu tư cũ của dự án). Công ty Phú H là Công ty con của AViệt Nam, là đơn vị duy nhất có quyền phân phối bán các sản phẩm của Dự án nhà ở H Thịnh và cam kết trong thời gian khoảng 01 tháng kể từ ngày đặt cọc sẽ ký hợp đồng mua bán. Sau khi chị H3 và anh H1 đặt cọc 150 triệu đồng/căn liền kề và chuyển tiền trực tiếp vào tài khoản của T2. Chị H3 đưa H 80 triệu đồng tiền mặt, H cùng T7 kiểm đếm tiền, T7 viết phiếu thu tiền...
Ngày 20/7/2018, thông qua H3, chị Nguyễn H1 Hoa ở LB, Hà Nội là người làm về bất động sản đi cùng chị Nguyễn Thị T1 ở LB đến đặt chỗ mua 03 căn hộ tại dự án H Thịnh. Chị T1 đã ký Bản đăng ký đặt chỗ và nộp 900 triệu đồng, H đã cùng T7, Lê Thị Ảnh kiểm đếm tiền và đưa lại cho T7. Sau khi đã nhận tiền của khách hàng, H báo lại cho T2, T2 chỉ đạo H tính tiền chênh lệch để trả cho Dương Thị H3. Gần đến thời điểm ký hợp đồng, khách hàng gọi điện hỏi H về việc ký hợp đồng, tính pháp lý của Dự án, H nói AViệt Nam đã mua lại toàn bộ Dự án nhà ở H Thịnh và đã chuyển 200 tỷ đồng cho Công ty An Phú. Đầu tháng 4/2018 Tòa nhà Suced, số 108 đường NH, phường MĐ2, quận NTL , nơi AViệt Nam thuê làm trụ sở văn phòng yêu cầu T2 trả tiền thuê văn phòng.Do không có tiền trả nên Ban quản lý Tòa nhà đã cắt điện, nước, khóa cửa văn phòng...nH ngày 22/8/2018 và ngày 26/9/2018 H và T2 đã bàn bạc soạn thảo văn bản gửi đến các khách hàng với nội dung: Công ty Phú H cam kết ký hợp đồng mua bán căn hộ khách hàng đã đặt cọc. H biết T2 dùng tiền của khách hàng để T7 trải các khoản nợ cá nhân.H biết bị Công an thành phố Hà Nội truy nã và đã bỏ trốn vào Thành phố Hồ Chí Minh sống tại nhà nghỉ Như Gia, phố Quang, quận Tân Bình từ tháng 02/2019 đến ngày 09/4/2021, H bị Công an phường Cửa Nam, quận Hoàn Kiếm phối hợp cùng Công an Thành phố Hồ Chí Minh bắt giữ. H nhận thức hành vi của H là vi phạm pháp luật.
Chị Dương Thị H3khai: Chị biết các thông tin về Dự án H Thịnh thông qua các tài liệu do T2 gửi qua địa chỉ thư điện tử của chị (aseanintech@gmail.com). Qua trao đổi, T2 khẳng định Dự án H Thịnh đã mua lại của Công ty An Phú và đang tiến hành xây dựng tòa nhà 32 tầng. Chị H3 tin nên đã đặt mua 01 căn liền kề và nộp số tiền 130.000.000đồng. T2 cam kết sau 30 đến 45 ngày sẽ được ký hợp đồng mua bán. T2 cho chị H3 xem 01 hợp đồng góp vốn mà Công ty Phú H đã ký với Công ty An Phú để nhận quyền phân chia sản phẩm là căn liền kề lô số 268. Toàn bộ quá trình thỏa thuận, chị H3 không làm việc trực tiếp với khách hàng, không giới thiệu về dự án, chỉ khi các khách hàng có nhu cầu đặt mua, yêu cầu chị H3 có mặt tại trụ sở Công ty Phú H để chứng kiến vì chị H3 là người đứng tên trong Giấy đăng ký đầu tư 08 căn liền kề. Chị H3 thừa nhận có trao đổi với anh Kh1 về Dự án H Thịnh qua Zalo và gửi chuyển tiếp thư điện tử các tài liệu gồm hồ sơ pháp lý của dự án mà T2 và H đã gửi đến cho anh Kh1. Anh Kh1 yêu cầu được làm việc với chủ đầu tư dự án và chị H3 đồng ý. Thời điểm đó, do tin T2 giới thiệu là Công ty HTV Việt Nam đã mua lại Dự án H Thịnh của Công ty An Phú, T2 giới thiệu là Chủ tịch của Công ty An Phú và đang tiếp tục triển khai dự án nên chị H3 tin T2 là chủ đầu tư dự án, việc mua bán thực hiện qua Công ty Phú H là Công ty con của AViệt Nam.
Căn cứ vào tài liệu điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra công an thành phố Hà Nội thấy chưa đủ căn cứ xác định Dương Thị H3, Trịnh Kế Đồng, Phạm Vũ Mạnh, Bùi Thị Mai Hoa, Nguyễn H1 Hoa và Lê Văn Công là những người môi giới bất động sản đã giúp sức cho T2 thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của các khách hàng nên không đề cập xử lý.
Đối với chị Lê Thị Ảnh là nhân viên pháp chế của Công ty Phú H từ tháng 7/2018 đến tháng 9/2018, với mức lương 5.000.000 đồng/tháng. Chị Ảnh được T2 và H chuyển các tài liệu pháp lý liên quan đến Dự án H Thịnh dưới dạng file mềm qua thư điện tử cá nhân. T2 và H chỉ đạo chị Ảnh thực hiện các nhiệm vụ: Khi khách hàng có yêu cầu thì sẽ gửi các tài liệu pháp lý của dự án cho khách hàng, viết phiếu thu tiền đặt cọc cho khách hàng. Do tin tưởng T2 và H giới thiệu Dự án H Thịnh là của Công ty Phú H, Công ty An Phú là Công ty con và đứng tên là chủ đầu tư. Chị Ảnh không trực tiếp tham gia giới thiệu về dự án cũng như không thực hiện việc trao đổi mua bán với khách hàng. Mặc dù làm nhân viên thử việc cho Công ty Phú H được 03 tháng nH chị Ảnh cũng chưa được nhận tiền lương nên Cơ quan điều tra xác định chị Ảnh không đồng phạm với T2 nên không đề cập xử lý.
Ngoài ra, Nguyễn Văn T2 còn có một số hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của các bị hại khác.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 433/2020/HS-ST ngày 11/11/2020của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã xử phạt Nguyễn Văn T2:Tù Chung thân, Bùi Thị Thu T7: 07 năm tù đều về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”;buộc Nguyễn Văn T2 và Bùi Thị Thu T7 phải liên đới bồi thường cho các bị hại Vũ Văn H1 150.000.000 đồng, Nguyễn Đăng Kh 150.000.000đồng, Nguyễn Văn Kh1 150.000.000đồng, Vũ Khắc Hùng 300.000.000đồng, Nguyễn Thị T1 900.000.000đồng; buộc vợ cH1 chị Bùi Thị Mai Hoa, anh Phạm Vũ MạnhHoàn trảcho chị Dương Thị H3 84.000.000đồng và nộp 5.000.000đồng để sung công quỹ Nhà nước; buộc anh Trịnh Kế Đồng phải nộp 44.000.000đồng để sung công quỹ Nhà nước, đã nộp 20.000.000đồng, còn phải nộp tiếp 24.000.000đồng.
TạiCáo trạng số 297/CT-VKS-P3 ngày 28/7/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn H về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 256/2021/HS-ST ngày 22 tháng 9 năm 2021của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã quyết định:
1.Về tội danh:Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
2.Về điều khoản áp dụng và hình phạt: Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; Điều 17; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Nguyễn Văn H08 (Tám) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày09/4/2021.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định vềán phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày01/10/2021, bị cáo Nguyễn Văn H có đơn kháng cáo xin giảm hình phạt. Ngày 27/9/2021, người bị hại là bà Nguyễn Thị T1có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Ngày 22/9/2021, những người bị hại là ông Vũ Văn H1, anh Nguyễn Văn Kh1, anh Nguyễn Đăng Kh có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị cáo Nguyễn Văn H rút toàn bộ nội dung kháng cáo.
Bà Nguyễn Thị T1 đề nghị Hội đồng xét xử tăng hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Văn H; buộc bị cáo H phải liên đới bồi thường cùng với bị cáo Nguyễn Văn T2 và Bùi Thu T7 để trả cho bà T1 900.000.000đồng.
Tại phiên tòa, sau khi nêu tóm tắt nội dung vụ án, đồng thời phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội đề nghị Hội đồng xét xử:
Bị cáo Nguyễn Văn H rút toàn bộ nội dung kháng cáo vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo Nguyễn Văn H.
Đối với kháng cáo của bà Nguyễn Thị T1, ông Vũ Văn H1, anh Nguyễn Đăng Kh, anh Nguyễn Văn Kh1, thấy: Tòa án cấp sơ thẩm đã xử bị cáo Nguyễn Văn Hvề tội“Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174; Điều 17; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 58 Bộ luật hình sự với mức hình phạt 08 năm tù là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 433/2020/HS-ST ngày 11/11/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã giải quyết xong phần trách nhiệm dân sự đối với các bị hại, nên Tòa án cấp sơ thẩm đã không xemxét là đúng quy định của pháp luật. Tại cấp phúc thẩm, các bị hại kháng cáo tăng hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Văn H, yêu cầu bị cáo trả tiền cho các bị hại nhưng không đưa ra được căn cứ. Do đó, đề nghị áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự không chấp nhận kháng cáo của các bị hại bà Nguyễn Thị T1, ông Vũ Văn H1, anh Nguyễn Đăng Kh, anh Nguyễn Văn Kh1; giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn H trình bày: Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự xử phạt bị cáo 08 năm tù là có căn cứ, đúng pháp luật. Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 433/2020/HS-ST ngày 11/11/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã giải quyết xong phần trách nhiệm dân sự đối với các bị hại nên Tòa án cấp sơ thẩm đã không xem xét là đúng quy định của pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của các bị hại.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của luật sư, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát; Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Văn H tự nguyện rút toàn bộ nội dung kháng cáo. Do đó, Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo.
[2]. Tòa án cấp phúc thẩm đã triệu tập anh Nguyễn Đăng Kh, anh Nguyễn Văn Kh1 hợp lệ 02 lần nhưng vắng mặt không có lý do; ông Vũ Văn H1 có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 351 Bộ luật tố tụng hình sự tiến hành xét xử.
[3].Tại phiên toà phúc thẩm bị cáo H đã khai nhận hành vi phạm tội, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của các bị cáo Nguyễn Văn T2, Bùi Thu T7; phù hợp với lời khai của những người bị hại; lời khai của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; lơi khai cua nhưng người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ chứng minh khác có trong hồ sơ vụ án.Do đó, có đủ cơ sở xác định:Nguyễn Văn T2, Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc và là người đại diện theo pháp luật của Công ty HTV Việt Nam biết Dự án khu biệt thự và nhà ở H Thịnh tại xã CC, huyện VG, tỉnh H Yên do Công ty TNHH Đầu tư và Phát triển An Phú(do bà Trần Bích Ngọc là Giám đốc, người đại diện theo pháp luật) làm chủ đầu tư đang trong giai đoạn triển khai thực hiện Dự án. T2đã đưa ra thông tin gian dối, giới thiệu với các khách hàng là Công ty HTV Việt Nam đã là chủ đầu tư toàn bộ Dự án H Thịnh thông qua việc mua lại 100% phần vốn góp của Công ty An Phú.Trong tháng 6 và tháng 7/2018, T2 đã chỉ đạo vợ là Bùi Thị Thu T7, Giám đốc Công ty Phú H; Nguyễn Văn H là Phó tổng Giám đốc Công ty HTV Việt Nam kiêm Kế toán Công ty Phú H, cùng với chị Lê Thị Ảnh là Chuyên viên pháp chế của Công ty Phú H đã nhận tiền đặt chỗ mua các căn liền kề của chị Dương Thị H3, vợ chồng chị Bùi Thị Mai H, ông Vũ Văn H1, anh em anh Nguyễn Đăng Kh, anh Vũ Khắc Hùng, bà Nguyễn Thị T1 và một số khách hàng khác thu tổng số tiền đặt cọc của họ là 2.105.000.000đồng; sau khi thu được tiền T2, H và T7 đã chi hoa H1 lại cho họ tổng cộng 504.000.000đồng; hiện còn chiếm đoạt 1.734.000.000đồng. Nguyễn Văn H biết rõ tình trạng pháp lý của Dự án H Thịnh, khả năng tài chính của Công ty HTV Việt Nam cũng như Công ty Phú H nhưng vẫn quảng bá, thu tiền cùng với T2 và T7. Tòa án cấp sơ thẩm đã quy kết bị cáo Nguyễn Văn H về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4Điều 174 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
[4].Toà án cấp sơ thẩm đã xem xét xét đến các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Nguyễn Văn H: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn; ăn năn hối cải; nhân thân chưa có tiền án, tiền sự; phạm tội lần đầu với vai trò đồng phạm thứ yếu, dưới quyền chỉ đạo của Nguyễn Văn T2; bản thân không được hưởng lợi; Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo mức hình phạt 08 năm tù là tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo. Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo tăng hình phạt đối với bị cáo H, của những người bị hại bà Nguyễn Thị T1, ông Vũ Văn H1, anh Nguyễn Đăng Kh, anh Nguyễn Văn Kh1.
[5].Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 433/2020/HS-ST ngày 11/11/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã giải quyết xong phần trách nhiệm dân sự đối với các bị hại, nên Tòa án cấp sơ thẩm đã không xem xét là đúng quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bà T1 buộc bị cáo H phải liên đới cùng Nguyễn Văn T2, Bùi Thu T7 trả số tiền 900.000.000đồng.
[6]. Cơ quan Cảnh sát điều tra công an thành phố Hà Nội đã căn cứ vào tài liệu điều tra, thấy chưa đủ căn cứ xác định Dương Thị H3 là những người môi giới bất động sản đã giúp sức cho Nguyễn Văn T2 thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của các khách hàng nên không đề cập xử lý. Do đó, không chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị T1, ông Vũ Văn H1, anh Nguyễn Đăng Kh, anh Nguyễn Văn Kh1.
[7].Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[8].Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 348; điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
1. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với của bị cáo Nguyễn Văn H. Bản án hình sự sơ thẩm đối với bị cáo Nguyễn Văn H có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định đình chỉ (ngày 20/4/2022).
2. Không chấp nhận kháng cáo của những người bị hại bà Nguyễn Thị T1, ông Vũ Văn H1, anh Nguyễn Đăng Kh vàanh Nguyễn Văn Kh1; giữ nguyên quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm số256/2021/HS-ST ngày 22 tháng 9 năm 2021của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.
3. Về tội danh:Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
4. Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; Điều 17; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Nguyễn Văn H08 (Tám) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 09/4/2021.
5. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn H không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
6. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 263/2022/HS-PT
Số hiệu: | 263/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/04/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về