TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA, TỈNH THANH HOÁ
BẢN ÁN 260/2023/HS-ST NGÀY 14/07/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 14 tháng 7 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố T, tỉnh T xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 230/2023/HSST, ngày 14 tháng 4 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 232/2023/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 4 năm 2023; Quyết định hoãn phiên tòa số 56/2023/HSST-QĐ ngày 16/5/2023; Quyết định hoãn phiên tòa số 69/2023/HSST-QĐ ngày 15/6/2023 đối với:
Bị cáo: Ngô Quốc Ch, sinh năm 2000; Giới tính: Nam.
HKTT và Nơi ở hiện nay: Thôn Yên V, xã Q, huyện Q, tỉnh T; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Dân tộc: kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: Lớp 10/12; Con ông Ngô Tiến S, sinh năm 1977 và bà Lê Thị D, sinh năm 1983; Chưa có vợ, con; Tiền sự: Không;
Tiền án: -Tại Bản án số 86/2018/HSST ngày 26/4/2018 bị Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh T xử phạt 12 tháng từ nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”;
- Tại Bản án số 42/2019/HSST ngày 30/01/2019 bị Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh T xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp với 12 tháng tù tại Bản án hình sự sơ thẩm số 86/2018/HS-ST ngày 26/4/2018 của TAND thành phố T, tỉnh T, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 36 (ba mươi sáu) tháng tù. Chấp hành xong án phạt tù ngày 09/11/2021. Hiện chưa thi hành các khoản án phí hình sự và án phí dân sự.
Nhân thân: Ngày 23/11/2022 bị Tòa án nhân dân huyện Quảng Xương, tỉnh T xử phạt 36 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Hiện đang chấp hành án tại Trại giam Xuân Hà, tỉnh Hà Tĩnh, theo Bản án số 93/2022/HS-ST ngày 23/11/2022 của Tòa án nhân dân huyện Quảng Xương, tỉnh T.
Bị cáo có mặt.
Bị hại:
1. Anh Phạm Văn Ngị, sinh năm 1980 (Vắng mặt) Trú tại: Thôn 8, phường Quảng P, thành phố H, tỉnh T.
2. Anh Phùng Văn H, sinh năm 1990 (Xin xử vắng mặt) Trú tại: Phố N, phường T, thành phố H, tỉnh T.
3. Anh Nguyễn Khắc Tr, sinh năm 1992 (Vắng mặt) Trú tại: Số 444 H, phường Đ, thành phố H, tỉnh T.
4. Anh Nguyễn Nam Ph, sinh năm 2001 (Vắng mặt) Trú tại: Đội 1, xã T, huyện Th, tỉnh T.
5. Chị Hà Thị M, sinh năm 1981 (Vắng mặt) Trú tại: Số 118-120 Nguyễn Công Tr, phường Đ, thành phố H, tỉnh T.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Anh Võ Tuấn A, sinh năm 1993 (Xin xử vắng mặt) Trú tại: Phú Đ, xã H, huyện H, tỉnh T.
2. Anh Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1995 (Vắng mặt) Trú tại: Thôn H, xã Qu, huyện H, tỉnh T.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trong khoảng thời gian từ tháng 6/2022 đến tháng 7/2022, do không có tiền tiêu xài cá nhân, Ngô Quốc Ch đã lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu về quản lý tài sản và lợi dụng tín nhiệm của chủ sở hữu để chiếm đoạt tài sản lấy tiền chơi game. Ch đã gây ra 03 vụ Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và 02 vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố T, tỉnh T, cụ thể như sau:
* Về hành vi Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản:
Vụ thứ nhất: Ngày 24/6/2022, Ngô Quốc Ch đến nhà anh Phạm Văn Ngh, là chủ cơ sở kinh doanh phụ tùng xe máy tại thôn 8, phường Q, thành phố H xin việc và được anh Ngh nhận vào làm. Anh Ngh giao cho Ch đảm nhận công việc đi giao hàng bằng xe máy, giao hóa đơn bán hàng và thu tiền hàng về trong ngày. Vào khoảng 14h30 phút ngày 28/6/2022, Ch nhận hàng đi giao hàng có kèm theo phiếu giao hàng tại thành phố S, tỉnh T bằng xe máy Wave alpha BKS 36H6- xxxx. Sau khi giao hàng cho các khách hàng tại khu vực thành phố S rồi thu tiền của khách hàng, tổng số tiền hàng là 14.512.000đ (Mười bốn triệu, năm trăm mười hai nghìn đồng); Ch đã không quay lại trả xe máy, không đem tiền bàn giao cho anh Ngh mà sử dụng số tiền đó tiêu xài cá nhân hết. Đối với chiếc xe máy Wave alpha BKS 36H6-xxxx, Ch khai đã bỏ lại ở khu vực Chợ giày da Khu Công nghiệp L, phường Q, thành phố H. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành truy tìm chiếc xe máy trên nhưng không tìm thấy.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 127/KL-HĐ ĐGTS ngày 12/8/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự - UBND thành phố Thanh Hoá kết luận: 01 (một) chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave alpha, màu xanh; BKS 36H6 - xxxx đã qua sử dụng có giá trị là: 5.000.000đ (Năm triệu đồng).
Đối với số tiền Ch đi đến giao hàng cho các khách hàng tại khu vực thành phố S rồi thu tiền của khách hàng giúp cho anh Phạm Văn Ngh, Ch khai là 11.000.000đ, tuy nhiên tổng số tiền hàng đã được chứng minh qua các hóa đơn và lời khai cụ thể của khách hàng là 14.512.000đ (Mười bốn triệu, năm trăm mười hai nghìn đồng);
Anh Phạm Văn Ngh yêu cầu Ngô Quốc Ch bồi thường toàn bộ số tiền hàng và giá trị chiếc xe máy Honda Wave alpha, màu xanh; BKS 36H6 - xxxx.
Vụ thứ hai: Khoảng 0h30 phút ngày 03/7/2022, Ngô Quốc Ch ngồi uống bia cùng với Phùng Văn H, Nguyễn Xuân V; Vũ Công M. Do hết bia nên anh H chủ động đưa chìa khóa xe máy nhãn hiệu Yamaha Nouvo LX biển kiểm soát 36D1- xxxx màu vàng đen và 100.000đ để nhờ Ch đi mua bia. Sau khi được giao xe, Ch đã không đi mua bia và không quay lại trả xe cho anh H, mà đến 13h00 phút ngày 04/7/2022, Ch đem chiếc xe bán cho một người đàn ông không quen biết, không rõ lai lịch ở gần ngã tư V, thuộc địa phận phường Đ, thành phố H lấy số tiền 3.000.000đ (Ba triệu đồng) rồi dùng số tiền đó tiêu xài cá nhân hết.
Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành truy tìm người mua xe và chiếc xe máy trên nhưng cơ quan không tìm thấy.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 123/KL-HĐĐGTS ngày 12/8/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự - UBND thành phố Thanh Hoá kết luận: 01 (một) chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Nouvo LX, màu vàng đen; BKS 36D1 - xxxx đã qua sử dụng có giá trị là: 3.000.000đ (Ba triệu đồng).
Anh Phùng Văn H yêu cầu Ngô Quốc Ch bồi thường giá trị chiếc chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Nouvo LX, màu vàng đen; BKS 36D1 - xxxx;
Vụ thứ ba: Ngày 16/7/2022, Ch đến cửa hàng làm bánh ngọt tại số nhà 444 H, phường Q, thành phố H của anh Nguyễn Khắc Tr, để xin việc và được anh Tr nhận vào làm. Đến khoảng 14h ngày 17/7/2022, anh Tr dặn Ch ở nhà trông quán đến 16h cùng ngày thì đem bánh mỳ giao cho khách. Đến giờ giao bánh, Ch dùng xe máy Honda 82 màu xanh BKS 36F7-xxxx để đi giao bánh mỳ. (Chiếc xe này anh Tr để cho mọi người trong quán sử dụng để đi giao bánh mỳ). Do cần tiền để chơi game, nên sau khi giao bánh mỳ cho khách xong, Ch đã nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc xe máy nên đã bỏ trốn không quay lại cửa hàng. Khoảng 14giờ ngày 18/7/2022, Ch đem chiếc xe máy trên đến bán cho anh Võ Tuấn A, tại khu vực cổng trường cấp 2 H, huyện H. Khi bán xe, Ch nói dối anh Tuấn A là xe máy của mẹ Chg dùng để đi chợ, xe đã cũ nên không còn giấy tờ gì. Tuấn A tin tưởng, kiểm tra chất lượng xe rồi đồng ý mua xe với số tiền 1.200.000đ (Một triệu hai trăm nghìn đồng). Ch nhận tiền rồi dùng số tiền này tiêu xài cá nhân hết.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 126/KL-HĐ ĐGTS ngày 12/8/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự - UBND thành phố Thanh Hoá kết luận 01 (một) chiếc xe máy nhãn hiệu Honda 82, màu xanh; BKS 36F7 - xxxx đã qua sử dụng có giá trị là: 5.000.000đ (Năm triệu đồng); 01 (một) điện thoại Iphone 11 Promax màu trắng đã qua sử dụng có giá trị: 13.000.000đ (Mười ba triệu đồng).
Sau khi được Cơ quan điều tra thông báo về việc chiếc xe máy nhãn hiệu Honda 82, màu xanh; BKS 36F7 - xxxx liên quan đến hành vi phạm tội của Ngô Quốc Ch, anh Võ Tuấn A đã tự nguyện giao nộp cho Cơ quan điều tra để phục vụ công tác điều tra. Cơ quan điều tra trả lại tài sản cho chủ sở hữu hợp pháp là anh Nguyễn Khắc Tr.
Anh Nguyễn Khắc Tr đã nhận lại chiếc xe máy nhãn hiệu Honda 82, màu xanh; BKS 36F7 -xxxx và không có yêu cầu gì về phần dân sự;
Anh Võ Tuấn A không yêu cầu Ch trả lại số tiền đã mua chiếc xe trên.
* Về hành vi trộm cắp tài sản:
Vụ thứ nhất: Khoảng 14h ngày 23/7/2022, Ngô Quốc Ch đến quán Karaoke Google tại số 14/198 L, phường Đ, thành phố H để xin vào làm việc và được nhận vào làm việc. Đến trưa ngày 24/7/2022, sau khi ăn cơm xong Ch bảo anh Nguyễn Nam Ph, là nhân viên của quán đi ngủ để Ch trông coi quán. Trong lúc trông coi quán, Ch đi ngang qua phòng ngủ của nhân viên thì thấy chiếc khóa xe máy treo trên tường. Ch nảy sinh ý định trộm cắp xe máy nên đã lấy chìa khóa đi ra khu vực để xe máy trong quán rồi lén lút trộm cắp chiếc xe mô tô Honda Future màu đen nhám BKS 36B7 - xxxx của anh Ph và bỏ đi. Sau đó, Ch đem chiếc xe máy trên đến bán cho anh Võ Tuấn A, tại khu vực ngã tư H. Lúc này, Ch nói dối Tuấn A là xe của khách cầm cố không giấy tờ, đã lâu nhưng khách không đến chuộc nên bán thanh lý thu hồi vốn. Tuấn A tin tưởng nên đồng ý mua xe với số tiền 5.300.000đ (Năm triệu, ba trăm nghìn đồng). Số tiền này Ch dùng để tiêu xài cá nhân hết.
Tại Kết luận định giá tài sản số 124/KL-HĐĐGTS ngày 12/8/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự - UBND thành phố Thanh Hoá kết luận:
01 (một) chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Future, màu đen nhám; BKS 36B7 - xxxx đã qua sử dụng có giá trị là: 25.000.000 (Hai mươi lăm triệu đồng).
Sau khi được CQĐT thông báo về việc chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Future, màu đen nhám; BKS 36B7 - xxxx liên quan đến hành vi phạm tội của Ngô Quốc Chung, anh Võ Tuấn A đã tự nguyện giao nộp cho Cơ quan điều tra.
Anh Nguyễn Nam Ph đã nhận lại chiếc xe máy và không yêu cầu bồi thường gì thêm về dân sự;
Anh Võ Tuấn A không yêu cầu Ch trả lại số tiền đã mua chiếc xe trên.
Vụ thứ hai: Chiều ngày 29/7/2022, Ch đến Gara ô tô Đại S của gia đình chị Hà Thị M, xin việc và được nhận vào làm. Sau khi được nhận vào làm việc, đến khoảng 20h30 phút cùng ngày, Ch lợi dụng sơ hở không có người trông coi nên đã lén lút trộm cắp chiếc xe máy Yamaha Exciter màu đỏ đen BKS 36B7 - 817.30 của chị Minh để bên trong quán. Sau đó, Ch đem chiếc xe máy đến nhà Nguyễn Văn Đ, bán cho Đ. Khi bán xe, Ch nói dối Đ là xe của khách cầm cố lâu ngày không đến chuộc nên bán thanh lý thu hồi vốn. Đ tin tưởng nên đồng ý mua xe với số tiền 6.000.000đ (Sáu triệu đồng). Số tiền có được, Ch sử dụng vào mục đích cá nhân và tiêu xài hết.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 125/KL-HĐĐGTS ngày 12/8/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự - UBND thành phố Thanh Hoá kết luận: 01 (một) chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Exciter màu đỏ đen, BKS 36B7-817.30 đã qua sử dụng có giá trị là 17.500.000đ (Mười bảy triệu năm trăm ngàn đồng).
Sau khi được Cơ quan điều tra thông báo về việc chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Exciter màu đỏ đen, BKS 36B7-817.30 liên quan đến hành vi phạm tội của Ngô Quốc Ch, anh Nguyễn Văn Đ đã tự nguyện giao nộp cho Cơ quan điều tra để phục vụ công tác điều tra.
Chị Hà Thị M đã nhận lại chiếc xe máy và không yêu cầu bồi thường gì thêm về dân sự.
Anh Nguyễn Văn Đ không yêu cầu Chung trả lại số tiền đã mua chiếc xe trên.
Đối với Nguyễn Văn Đ khi mua xe máy đã bị Ch nói dối về nguồn gốc xe, Đ không biết chiếc xe do Ch phạm tội mà có, nên Cơ quan điều tra không xem xét xử lý đối với hành vi của Đ.
Đối với Võ Tuấn A đã hai lần mua xe máy do Ngô Quốc Ch phạm tội mà có. Quá trình điều tra thể hiện: Tuấn A và Ch không quen biết nhau từ trước, không bàn bạc, thống nhất về việc tiêu thụ tài sản sau khi Ch phạm tội mà có. Cả hai lần Ch đều nói dối Tuấn A về nguồn gốc xe, Tuấn A vì ham rẻ nên mua để sử dụng mục đích đi lại, không kiếm lời. Do đó, hành vi của Tuấn A không đủ yếu tố cấu thành tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, Cơ quan điều tra nhắc nhở là phù hợp;
Quá trình điều tra Ngô Quốc Ch đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của Ngô Quốc Ch hoàn toàn phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.
Tại cáo trạng số 177/CT- VKSTPTH ngày 12/4/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, tỉnh T đã truy tố Ngô Quốc Ch về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 và tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 175 Bộ luật hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa hôm nay Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, tỉnh T giữ nguyên Quyết định truy tố như cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm g khoản 2 Điều 175; Điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 55; Điều 56 Bộ luật hình sự năm 2015; Tuyên bố bị cáo Ngô Quốc Ch phạm tội “Trộm cắp tài sản” và “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, đề nghị xử phạt bị cáo mức án từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” và mức án từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.
Tổng hợp hình phạt của cả hai tội; Tổng hợp hình phạt 36 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” của Bản án hình sự sơ thẩm số 193/2022/HSST ngày 23/11/2022 của Tòa án nhân dân huyện Quảng Xương, tỉnh T. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án.
Đề nghị không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo.
Về phần dân sự: Đề nghị áp dụng Điều 584; Điều 589 Bộ luật dân sự năm 2015: Buộc bị cáo bồi thường cho anh Phạm Văn Ngh số tiền 19.512.000đ và anh Phùng Văn H số tiền 3.000.000đ.
Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm.
Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, không có ý kiến bào chữa và tranh luận. Lời nói sau cùng của bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Ngô Quốc Ch thừa nhận: Trong khoảng thời gian từ tháng 6 năm 2022 đến tháng 7 năm 2022, do không có tiền tiêu xài cá nhân, Ngô Quốc Ch đã lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu về quản lý tài sản và lợi dụng tín nhiệm của chủ sở hữu để chiếm đoạt tài sản lấy tiền chơi game, Ch đã gây ra 03 vụ Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với tổng giá trị chiếm đoạt là 27.512.000đ (Hai mươi bảy triệu, năm trăm mười hai nghìn đồng chẵn) và 02 vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố T với tổng giá trị chiếm đoạt là 42.500.000đ (Bốn mươi hai triệu năm trăm nghìn đồng chẵn).
Lời khai nhận của bị cáo tại phiên toà phù hợp với nội dung bản Cáo trạng và các tài liệu chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ, phù hợp tang vật của vụ án cũng như báo cáo của Bị hại. Quyết định truy tố và lời luận tội của Viện kiểm sát tại phiên toà hôm nay là có căn cứ. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Ngô Quốc Ch phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 và “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 175 của Bộ luật hình sự năm 2015.
[3] Về trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:
Bị cáo là người có sức khỏe, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự nhưng vì lười lao động, không chịu tu chí làm ăn, lợi dụng sơ hở trong quản lý tài sản của người khác, lén lút trộm cắp 02 lần trong một thời gian ngắn. Ngoài ra, bị cáo đã lợi dụng sự tin tưởng để thực hiện 03 lần chiếm đoạt tài sản của người khác nhằm mục đích lấy tiền tiêu sài cá nhân.
Hành vi phạm tội của bị cáo thể hiện tính táo bạo, liều lĩnh, gây dư luận xấu trong nhân dân, xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của nhiều người. Bị cáo có nhân thân xấu, đã bị xét xử nhiều lần nhưng không lấy đó làm bài học, không chịu làm ăn chân chính mà vẫn có hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác. Vì vậy cần phải xử lý nghiêm tương xứng với hành vi mà bị cáo đã gây ra nhằm cải tạo cũng như giáo dục và phòng ngừa chung.
Bị cáo phạm hai tội nên áp dụng Điều 55 Bộ luật hình sự để tổng hợp hình phạt đối với bị cáo. Ngoài việc phải chấp hành hình phạt của bản án này, bị cáo còn phải chịu tổng hợp hình phạt 36 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” của Bản án số 193/2022/HSST ngày 23/11/2022 của Tòa án nhân dân huyện Quảng Xương, tỉnh T. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án. (Quy định tại Điều 56 Bộ luật hình sự năm 2015).
[4] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:
Tình tiết tăng nặng: Bị cáo có 02 tiền án nhưng là tình tiết định khung hình phạt nên không phải chịu tình tiết tăng nặng. Bị cáo phạm tội nhiều lần nên phải chịu tình tiết tăng nặng theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.
Với tính chất vụ án nghiêm trọng, với nhân thân của bị cáo, xét cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian như vậy mới đủ điều kiện cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho xã hội.
Do bị cáo không có việc làm và thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt tiền.
[5] Về phần dân sự:
- Anh Phạm Văn Ngh yêu cầu Ngô Quốc Ch bồi thường toàn bộ số tiền hàng là 14.512.000đ và giá trị chiếc xe máy Honda Wave alpha, màu xanh; BKS 36H6 - xxxx trị giá 5.000.000đ.
- Anh Phùng Văn H yêu cầu Ngô Quốc Ch bồi thường giá trị chiếc chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Nouvo LX, màu vàng đen; BKS 36D1 - xxxx là 3.000.000đ;
Do đó buộc bị cáo Ngô Quốc Ch phải bồi thường số tiền trên cho anh Ngh và anh H.
[7] Về xử lý vật chứng: Anh Võ Tuấn A là người đã mua xe của Ch 1 cái với giá 1.200.000đ và 1 cái với giá 5.300.000đ; Anh Nguyễn Văn Đ đã mua của Ch chiếc xe với giá 6.000.000đ. Quá trình điều tra, anh Tuấn A và anh Đ không yêu cầu giải quyết số tiền đã mua xe của Ch nhưng đây là số tiền do phạm tội mà có nên cần truy thu của bị cáo để nộp ngân sách nhà nước.
[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự đối với số tiền phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: điểm g khoản 2 Điều 173; điểm g khoản 2 Điều 175; Điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 55; Điều 56 Bộ luật hình sự năm 2015.
Tuyên bố: Bị cáo Ngô Quốc Ch phạm tội “Trộm cắp tài sản” và “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.
Xử phạt: Bị cáo Ngô Quốc Ch 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” và 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.
Tổng hợp hình phạt chung của cả hai tội là 07 (Bảy) năm tù.
Tổng hợp hình phạt 36 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” của Bản án hình sự sơ thẩm số 193/2022/HSST ngày 23/11/2022 của Tòa án nhân dân huyện Quảng Xương, tỉnh T. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 10 (Mười) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt chấp hành bản án.
Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 584; Điều 589 Bộ luật dân sự năm 2015: Buộc Ngô Quốc Ch phải bồi thường cho:
Anh Phạm Văn Ngh số tiền 19.512.000đ (Mười chín triệu, năm trăm mười hai ngàn đồng).
Anh Phùng Văn H số tiền 3.000.000đ (Ba triệu đồng).
Khi bản án có hiệu lực pháp luật, bên được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành, nếu bên phải thi hành án không thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ thì hàng tháng phải chịu thêm khoản tiền lãi tương ứng đối với số tiền chậm trả tại thời điểm thanh toán, theo quy định tại Khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Truy thu của bị cáo số tiền do phạm tội mà có là 12.500.000đ để nộp ngân sách nhà nước.
Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;
khoản 1 Điều 21; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH 14. Bị cáo Ngô Quốc Ch phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm và 1.175.000đ án phí dân sự sơ thẩm.
Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 260/2023/HS-ST
Số hiệu: | 260/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/07/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về