Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 25/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TD, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 25/2023/HS-ST NGÀY 27/11/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Hôm nay, ngày 27 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện TD, tỉnh Bắc Ninh tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 08/2023/HSST ngày 13 tháng 10 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 21/2023 ngày 13/11/2023 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Vũ Việt D, sinh ngày 30/10/2006; nơi ĐKHKTT: Thôn Đ, xã HS, huyện TD, tỉnh Bắc Ninh; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 09/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Vũ Văn Đ, sinh năm 1983 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1987; gia đình có 02 chị em, bị cáo là con thứ hai; vợ, con: chưa có;

Tiền án, tiền sự: không.

Nhân Thân: Ngày 14/11/2023 bị công an huyện Gia Lâm xử phạt hành chính 1.750.000đ về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 19/7/2023 đến ngày 28/7/2023, bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 28/7/2023 đến nay. Hiện có mặt tại địa phương. Có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Lê Quang T, sinh ngày 07/9/2005; nơi ĐKHKTT: Thôn DK, xã ND, huyện TD, tỉnh Bắc Ninh; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 09/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Lê Văn Th, sinh năm 1973 và bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1976; gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ hai; vợ, con: chưa có;

Tiền án, tiền sự: không;

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 19/7/2023 đến ngày 28/7/2023, bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 28/7/2023 đến nay. Hiện có mặt tại địa phương. Có mặt tại phiên tòa.

*Người đại diện hợp pháp cho bị cáo Dũng: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1987. Nơi thường trú: Tổ 8, phường YN, H, thành phố Hà Nội. Nợi tạm trú: Phường Hồ, Thuận Thành, Bắc Ninh. (có mặt)

*Người đại diện hợp pháp cho bị cáo Tùng: Bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1976. Địa chỉ: Duệ Khánh, ND, TD, Bắc Ninh.( có mặt)

* Người bị hại:

Anh Nguyễn Tiến Th, sinh ngày 17/9/ 2005.

Người đại diện hợp pháp cho anh Th: Ông Nguyễn Tiến T, sinh năm 1976. Địa chỉ: Núi Đông, HS, TD, Bắc Ninh.( có mặt)

* Người bào chữa cho bị cáo D, bị cáo T Là bà: Nguyễn Thị C; Trợ giúp viên pháp lý thuộc trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Bắc Ninh.( có mặt)

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1987.

Nơi thường trú: Tổ X, phường YN, HĐ, thành phố Hà Nội. Nợi tạm trú: Phường H, TT, Bắc Ninh.( có mặt)

2. Bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1976.

Địa chỉ: DK, ND, TD, Bắc Ninh.( có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vũ Việt D, sinh ngày 30/10/2006 có hộ khẩu thường trú (HKTT) thôn Đ, xã HS, huyện TD, tỉnh Bắc Ninh và Lê Quang T, sinh ngày 07/9/2005 HKTT thôn DK, xã ND, huyện TD, tỉnh Bắc Ninh là bạn bè quen biết nhau. D và T đều không có việc làm, lười lao động, để có tiền nên cả hai nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản của người khác cụ thể như sau:

Khoảng 21 giờ 00 phút ngày 17/7/2023, D và T đang ngồi chơi tại quán nét ở thôn Đoài, xã HS, huyện TD, tỉnh Bắc Ninh. Tại đây D và T đã bàn và thống nhất với nhau về việc sẽ mượn xe của bạn D, sau khi mượn được sẽ mang xe đi cầm cố lấy tiền. Sau khi thống nhất xong D sử dụng điện thoại Iphone XSMAX màu vàng của T, liên lạc với anh Lê Đức A, sinh năm 2005 ở thôn Đông, xã HS, huyện TD và hỏi anh Đức A đang ở đâu đến quán bia “Lượng Gầy” đón D đi có việc, anh Đức Anh đồng ý. Khoảng 15 phút sau anh Đức Anh điều khiển xe mô tô đến quán “Lượng Gầy”. Tại đây, D và T nhờ Đức Anh chở đến nhà Nguyễn Công Lộc, sinh ngày 17/11/2008 ở thôn Núi Đông, xã HS, huyện TD để lấy quần áo (mục đích là nếu điều kiện thuận lợi thì lừa chiếm đoạt xe mô tô của anh Đức Anh). Sau đó, anh Đức Anh điều khiển xe mô tô chở D và T ngồi sau. Trên đường đi do nghĩ anh Đức Anh và gia đình của anh Đức Anh có mối quan hệ thân thiết với gia đình của D nên D thay đổi ý định không lừa xe của anh Đức Anh nữa, nên D nói với anh Đức Anh là Lộc không có nhà và nhờ anh Đức Anh chở cả hai quay lại quán bia “Lượng Gầy”, anh Đức Anh đồng ý. Trên đường đi về quán “Lượng Gầy” D, T và anh Đức Anh gặp anh Nguyễn Tiến Th, sinh năm 2005 ở thôn Núi Đông, xã HS đang điều khiển xe Honda Wave, màu đen bạc, BKS: 99C1 - 534.xx. Lúc này, anh Đức Anh bảo đi có việc nên D và T nhờ anh Th chở về quán “Lượng Gầy”. Về đến quán, D tiếp tục nảy sinh ý định lừa chiếm đoạt xe mô tô của anh Th cũng với thủ đoạn như trên, D nhờ anh Th chở đến nhà cháu Lộc để lấy quần áo còn T ở lại quán “Lượng Gầy” ngồi chơi. T nghe thấy D nói với anh Th như vậy, T hiểu ý của D là sẽ lừa chiếm đoạt xe của anh Th nên ngồi đợi D lừa được xe của anh Th rồi quay lại đón. Anh Th chở D đến đầu ngõ nhà cháu Lộc thì D bảo anh Th đứng ở ngoài, còn D đi xe của anh Th vào nhà Lộc lấy quần áo, do là bạn bè nên anh Th tin tưởng, đồng ý. Sau khi mượn được xe, D đi theo lối khác để quay lại quán bia “Lượng Gầy” gặp T, sau đó D điều khiển xe đã chiếm đoạt được của anh Th còn T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, BKS: 99C1-462.xx đi đến quán của anh Ngô Sỹ M, sinh năm 2006 trú tại thôn Đình Cả, xã ND, huyện TD để cầm cố, tuy nhiên xe không có giấy tờ nên anh M không đồng ý cho cầm cố. Lúc này D đã bảo M cho D vay số tiền 3.800.000 đồng và để lại xe để làm tin, do có quan hệ bạn bè nên M đã đồng ý và gọi điện cho anh Phạm Quang A, sinh năm 1991 trú tại thôn Đình Cả, xã ND, huyện TD là chủ quán bi-a, cầm đồ để ứng tiền lương và nhờ chuyển số tiền lương tạm ứng là 3.800.000 đồng vào số tài khoản ngân hàng của T để cho D vay. Số tiền này cả D và T đã ăn tiêu cá nhân hết.

Ngày 18/7/2023, anh Nguyễn Tiến Th đã đến Công an huyện TD để trình báo sự việc.

Ngày 19/7/2023 Vũ Việt D và Lê Quang T đã đến Công an huyện TD để đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội.

Tại Bản Kết luận định giá tài sản số 54/KL-ĐGTSTTHS ngày 21/7/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện TD kết luận:

“01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu Đen – Bạc, BKS: 99C1 – 534.xx, đã qua sử dụng, số máy: JA39E225927, số khung: RLHJA 392NY225927, đã qua sử dụng, giá trị còn lại: 18.000.000 triệu đồng.

Tại cơ quan điều tra, Vũ Việt D và Lê Quang T đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu ở trên.

Tại bản Cáo trạng số 148/CT-VKS ngày 13/10/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện TD, tỉnh Bắc Ninh đã truy tố bị cáo Vũ Việt D và Lê Quang T về tội “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo D, bị cáo T đã khai nhận về hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.

Anh Nguyễn Tiến Th, ông Nguyễn Tiến T trình bày trong hồ sơ: Anh Th sau khi nhận được xe đã không có yêu cầu bồi thường gì về dân sự đồng thời có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho D và T.

Anh Ngô Sỹ M trình bày trong hồ sơ: D và T đã tác động gia đình là chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1987, KHTT tại Tổ 8, phường YN, Quận H, Thành phố Hà Nội (là mẹ của D) và chị Nguyễn Thị D (là mẹ của T) mỗi người bồi thường số tiền 1.900.000 đồng để bồi thường trả lại cho anh M tổng số tiền 3.800.000đ mà D và T đã vay. Sau khi nhận được số tiền trên anh M không yêu cầu đề nghị gì khác về dân sự Bà Nguyễn Thị H trình bày tại phiên toà: Bà là mẹ đẻ của bị cáo D. D đã tác động đến bà và bà đã bồi thường số tiền 1.900.000 đồng cho anh M ( tiền D đã vay của anh M). Đây là tiền của bà, bà không có ý kiến gì và cũng không yêu cầu bị cáo có trách nhiệm trả lại cho bà số tiền trên.

Bà Nguyễn Thị D trình bày: Bà là mẹ đẻ của bị cáo T. T đã tác động đến bà và bà đã bồi thường số tiền 1.900.000 đồng cho anh M ( tiền T đã vay của anh M). Đây là tiền của bà, bà không có ý kiến gì và cũng không yêu cầu bị cáo có trách nhiệm trả lại cho bà số tiền trên.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện TD thực hành quyền công tố tại phiên tòa trong phần phát biểu luận tội sau khi đưa ra các chứng cứ, phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã giữ nguyên nội dung Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

1.Tuyên bố bị cáo Vũ Việt D, bị cáo Lê Quang T phạm tội “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

2.Áp dụng khoản 1 điều 174, điểm i,s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 90; Điều 98 ; Điều 101 ; Điều 38 BLHS;

Xử phạt bị cáo Vũ Việt D, Lê Quang T từ 10 tháng đến 12 tháng tù , thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án. Được trừ thời gian tạm giữ.

Áp dụng khoản 1 điều 174, điểm i,s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 90; Điều 98; Điều 101 ; Điều 65 BLHS;

Xử phạt bị cáo Lê Quang T từ 08 tháng đến 10 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 16 tháng đến 20 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Hình phạt bổ xung không áp dụng.

3.Về xử lý vật chứng: Không

4.Về trách nhiệm dân sự: không yêu cầu giải quyết.

Người bào chữa cho bị cáo trình bày:

Nhất trí với tội danh và điều luật như luận tội của Kiểm sát viên. Tuy nhiên do các bị cáo đang Tuổi còn trẻ, hành động nhất thời bồng bột và hiểu biết về pháp luật thấp. Đây là lần đầu phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và có tác động đến gia đình bồi thường cho người liên quan đề nghị HĐXX áp dụng điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 BLHS để xử phạt bị cáo ở mức thấp nhất.

Sau khi nghe luận tội của đại diện Viện kiểm sát,người đại diện hợp pháp của bị cáo, bị cáo, người bào chữa thừa nhận hành vi phạm tội, không bào chữa bổ sung và tranh luận với đại diện Viện kiểm sát mà chỉ đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt. Người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện TD, Viện kiểm sát nhân dân huyện TD trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp Khoảng 21 giờ ngày 17/7/2023, tại thôn Núi Đông, xã HS, huyện TD, tỉnh Bắc Ninh do không có tiền chi tiêu nên Vũ Việt D và Lê Quang T đã có hành vi gian dối là giả vờ mượn anh Th 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu đen, BKS: 99C1- 534.xx trị giá 18.000.000 đồng để đi lấy quần áo nhưng sau đó không đi lấy quần áo mà mang chiếc xe đến đặt làm tin cho anh M để vay số tiền 3.800.000 đồng và cùng nhau chi tiêu hết số tiền này.

Khi thực hiện hành vi phạm tội, các bị cáo chưa đủ 18 tuổi, có ý thức phạm tội bột phát. Tài sản bị cáo trộm cắp có giá trị 18.000.000 đồng. Hành vi phạm tội của các bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “ lừa đảo chiếm đoạt tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 174 BLHS. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện TD, tỉnh Bắc Ninh đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Trong vụ án này các bị cáo không có sự bàn bạc phân công cụ thể nên thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn. Xét về vai trò thì thấy hai bị cáo có vai trò ngang nhau, các bị cáo cố tình thực hiện hành vi phạm tội đến cùng.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất trật tự trị an xã hội, vì vậy cần xét xử nghiêm để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Về nhân thân và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về nhân thân: các bị cáo chưa có tiền án, tiền sự nhưng theo công an địa phương báo cáo về con người hai bị cáo là đối tượng thường xuyên chơi bời, tụ tập, đua đòi với bạn bè xấu, mang tài sản của gia đình đi cầm cố lấy tiền tiêu xài, gia đình đã phải đi chuộc lại tài sản nhiều lần. Bị cáo phạm tội khi chưa dủ 18 tuổi nên được áp dụng các điều khoản của BLHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử. Trong thời gian tại ngoại tại đia phương bị cáo Dũng, ngày 14/11/2023 bị công an huyện Gia Lâm xử phạt hành chính 1.750.000đ về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Đây là lần đầu phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, hai bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; Hai bị cáo có tác động đến gia đình bồi thường cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho hai bị cáo nên hai bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm i,s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 BLHS.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Từ những phân tích trên, HĐXX xét thấy hai bị cáo tuổi đời còn trẻ nhưng đã lười lao động ham chơi đua đòi, cố tình thực hiện hành vi phạm tội đến cùng thể hiện sự coi thường pháp luật, khó cải tạo cần cách ly hai bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có thể giáo dục, cải tạo hai bị cáo trở thành người có ích cho xã hội.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo phạm tội vì mục đích thu lời bất chính, nhưng bị cáo là người dưới 18 tuổi, không có tài sản gì riêng, không có thu nhập do đó hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu đen, BKS: 99C1- 534.xx là xe của ông Nguyễn Tiến T, sinh năm 1976 trú tại thôn Núi Đông, xã HS, huyện TD (bố của anh Th) nên ngày 26/7/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện TD đã trả lại chiếc xe mô tô trên cho ông T là phù hợp Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu xanh đen bạc, BKS: 99C1- 462.xx và chiếc điện thoại di động Iphone XSMAX màu vàng là tài sản của chị Nguyễn Thị D. Ngày 17/7/2023, T mượn xe và điện thoại của chị D sau đó sử dụng vào việc phạm tội thì chị D hoàn toàn không biết nên ngày 29/9/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện TD đã trả lại chiếc xe mô tô và chiếc điện thoại nêu trên cho chị D là phù hợp *Trách nhiệm dân sự:không xem xét giải quyết.

Liên quan trong vụ án ngày: Đối với việc thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản ban đầu của hai bị cáo đối với anh Đức Anh như nêu trên, mặc dù cả hai đã bàn bạc và bắt đầu thực tuy nhiên đang trong quá trình thực hiện thì đã tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội nên không có căn cứ để xác định hai bị cáo đã phạm tội. Do vậy căn cứ Điều 16 BLHS thì được miễn trách nhiệm hình sự về hành vi này. Cơ quan điều tra không xử lý là phù hợp.

Đối với anh Ngô Sỹ M là người cho D vay tiền và nhận xe làm tin. Do anh M không biết chiếc xe là do D và T lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà có, sau khi biết sự việc anh M đã tự nguyện giao nộp chiếc xe mô tô BKS 99C1-534.xx, nên Cơ quan điều tra không xử lý mà tiến hành giáo dục nhắc nhở là phù hợp.

- Đối với chị Nguyễn Thị D, do chị D không biết hai bị cáo T, D đã sử dụng chiếc xe mô tô BKS: 99C1-462.xx và chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone Xsmax của chị để thực hiện hành vi phạm tội, chị D cũng không giao chiếc xe mô tô BKS:

99C1-462.xx cho bị cáo T vào ngày 17/7/2023 mà bị cáo T tự lấy đi chơi nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý, chỉ tiến hành giáo dục nhắc nhở đối với chị D là phù hợp.

Các bị cáo phải chịu án phí HSST.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố: Bị cáo Vũ Việt D, bị cáo Lê Quang T phạm tội: “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

2.Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 điều 174; điểm i,s khoản 1, khoản 2 Điều 51;Điều 17; Điều 58 Điều 90; Điều 98; Điều 101; Điều 38 BLHS:

Xử phạt bị cáo Vũ Việt D 12 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 19 / 7/ 2023 đến ngày 28 /7/ 2023.

Xử phạt bị cáo Lê Quang T 10 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 19/ 7/ 2023 đến ngày 28 /7/ 2023.

3.Về án phí: Áp dụng Điều 136 BLTTHS; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án:

Hai bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

4.Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, 333 BLTTHS:

Bị cáo, người đại diện hợp pháp cho bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hai vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt án hoặc niêm yết bản án hợp lệ. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

42
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 25/2023/HS-ST

Số hiệu:25/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiên Du - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:27/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về