Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 25/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ HƯƠNG TRÀ, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

BẢN ÁN 25/2023/HS-ST NGÀY 22/09/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 9 năm 2023, tại Tòa án nhân dân thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 22/2023/TLST-HS ngày 31 tháng 8 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 19/2023/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 9 năm 2023 đối với:

Bị cáo: Nguyễn H, sinh ngày: 25/4/1976 tại tỉnh Thừa Thiên Huế.

Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: thôn L, xã Q, huyện Q, tỉnh Thừa Thiên Huế; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: Lớp 04/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Y (đã chết) và bà Đặng Thị M; có vợ: Lê Thị Xuân T; có 03 người con, lớn nhất sinh năm 2001, nhỏ nhất sinh năm: 2014; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt tạm giam từ ngày 31/01/2023. Ngày 14/02/2023 thay thế biện pháp ngăn chặn tạm giam bằng biện pháp bảo lĩnh cho đến nay, có mặt.

- Bị hại:

Ông Trần Quang T1, sinh năm: 1976; trú tại: thôn G, xã H, thị xã H, tỉnh Thừa Thiên Huế; có mặt.

- Người làm chứng:

Bà Nguyễn Thị L, sinh năm: 1977; trú tại: thôn G, xã H, thị xã H, tỉnh Thừa Thiên Huế; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng tháng 10 năm 2020, do cần tiền để chữa bệnh và tiêu xài cá nhân nên Nguyễn H nảy sinh ý định lừa đảo ông Trần Quang T1 bằng thủ đoạn đua thông T1n gian dối về việc H sở hữu quyền sử dụng đất đối với 01 thửa đất tại phường H, thành phố H và thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đó cho ông T1. Để tạo lòng tin cho ông T1, Nguyễn H đã dẫn ông T1 đến 01 khu đất tại phường H, thành phố H và nói cho ông T1 biết thửa đất trên là của H, hiện đang làm thủ tục sang tên. Tin rằng đó là thật, ông T1 đồng ý nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ H với giá 550.000.000 đồng. Sau đó, H yêu cầu ông T1 đưa tiền để H làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho thửa đất này. Từ tháng 10 năm 2020 đến ngày 20 tháng 02 năm 2021, tại nhà ông Trần Quang T1, ông T1 đã nhiều lần đưa cho H tổng số tiền 220.000.000 đồng, trong đó lần thấp nhất là 5.000.000 đồng và cao nhất khoảng 40.000.000 đồng. Ngày 20 tháng 2 năm 2021, ông T1 gặp H để làm hợp đồng đặt cọc với nội dung H đã nhận 220.000.000 đồng tiền đặt cọc, đối với 330.000.000 đồng còn lại trong thời hạn 90 ngày, khi thủ tục công chứng hoàn tất, ông T1 sẽ giao cho H.

Sau đó, H liên tục hứa hẹn, lấy lý do để không hoàn thành hợp đồng đúng hẹn với ông T1. Đến tháng 9 năm 2022, để tiếp tục tạo niềm tin, H lên mạng Internet và đặt làm giả 01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại phường H, thành phố H mang tên Nguyễn H với giá 3.000.000 đồng. Sau khi nhận được Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, H đưa lại cho bà Nguyễn Thị L (sống chung như vợ chồng với H) và nhờ L thông báo cho ông T1 biết việc thửa đất Hưng chuyển nhượng đã có sổ đỏ. Sau khi ông T1 nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, H yêu cầu ông T1 đưa thêm 40.000.000 đồng để H chi trả cho người giúp đỡ làm giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất chuyển sang tên Nguyên Quang T2 thì ông T2 đồng ý và đưa cho H 02 lần với tổng số tiền 40.000.000 đồng. Ngày 7 tháng 10 năm 2022, ông T2 mang giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và các giấy tờ có liên quan đến Văn phòng đăng ký đất đai để làm các thủ tục kiểm tra trước thì được biết Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là giả nên làm đơn tố giác hành vi của Nguyễn H gửi đến cơ quan điều tra. Như vậy, tông số tiền Nguyễn H đã chiếm đoạt của ông T2 là 260.000.000 đồng (Hai trăm sáu mươi triệu đồng).

Quá trình điều tra, Nguyễn H đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình như đã nêu trên.

Ngày 10/02/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã H ra Quyết định trưng cầu số 20/TCGĐ-CQCSĐ trưng cầu Phòng K Công an tỉnh T giám định mẫu “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà và tài sản khác gắn liền với đất” số BK9886xx mang tên Nguyễn H, năm sinh 1976, CMND số 1915545xx, Địa chỉ thường trú: thôn L- xã Q - huyện Q- Thừa Thiên Huế, đề Thừa Thiên H1, ngày 16 tháng 9 năm 2022 là thật hay giả.

Tại bản kết luận giám định số 63/KL-KTHS ngày 27 tháng 02 năm 2023, Phòng K Công an tỉnh T kết luận: “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất” cần giám định ký hiệu A là “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất” giả.

Vật chứng vụ án:

- Vật chứng hiện còn tạm giữ:

+ 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất - NGUYỄN HƯNG - BK9886xx có 01 chữ ký ghi tên người nộp là Trần Quang T1.

+ 03 bản Hợp đồng cọc ngày 20/2/2021.

Về dân sự: Nguyễn H đã hoàn trả cho ông Trần Quang T1 số tiền 100.000.000 đồng, ông T1 không có yêu cầu gì thêm về dân sự và xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Tại bản cáo trạng số 22/CT-VKS-HTr ngày 31/8/2023, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hương Trà đã truy tố bị cáo Nguyễn H về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 3 Điều 174 Bộ luật hình sự và tội “Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” quy định tại điểm d khoản 2 Điều 341 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, trong phần luận tội đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hương Trà đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 3 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 54 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn H mức án từ 04 năm 06 tháng đến 05 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 341, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn H mức án từ 02 năm 06 tháng tù đến 03 năm tù về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”. Áp dụng Điều 55 Bộ luật hình sự, tổng hợp hình phạt chung của hai tội, buộc bị cáo Nguyễn H phải chấp hành từ 07 năm đến 08 năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt giam để thi hành án. Nhưng được trừ thời gian đã bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 31/01/2023 đến ngày 14/02/2023 vào thời gian chấp hành hình phạt tù.

Về dân sự: Không có ai yêu cầu gì thêm nên đề nghị không xem xét.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị tiếp tục lưu hồ sơ vụ án các tài liệu còn tạm giữ.

Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, không tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát, chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt; lý do hoàn cảnh gia đình quá khó khăn, bản thân do cần tiền chữa bệnh nên mới nảy sinh ý định phạm tội. Hiện nay sức khỏe vẫn chưa ổn định, cần phải tiếp tục điều trị bệnh.

Bị hại - ông Trần Quang T1 tha thiết đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Nguyễn H.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hương Trà, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự nên đều hợp pháp.

[2] Bị cáo Nguyễn H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác, phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Do đó, đã có đủ cơ sở kết luận:

Do cần tiền để chữa bệnh và tiêu xài cá nhân, trong khoảng thời gian từ tháng 10 năm 2020 đến năm 2022, tại xã H, thị xã H, tỉnh Thừa Thiên Huế; Nguyễn H đã có hành vi dùng thủ đoạn đưa thông T1n gian dối về việc H sở hữu quyền sử dụng đất đối với 01 thửa đất tại phường H, thành phố H để chiếm đoạt của ông Trần Quang T1 tổng số tiền 260.000.000 đồng. Ngoài ra, để tạo niềm tin cho ông T1, H còn có hành vi sử dụng tài liệu giả là “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất” để chiếm đoạt của ông T1 số tiền 40.000.000 đồng trong tổng số tiền nói trên.

Hành vi bị cáo Nguyễn H thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a, khoản 3 Điều 174 Bộ luật hình sự và tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” quy định tại điểm d khoản 2 Điều 341 Bộ luật hình sự. Do vậy, tại bản cáo trạng số 22/CT-VKS-HTr ngày 31 tháng 8 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hương Trà truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy rằng:

Đối với tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”: Bị cáo Nguyễn Hưng P vào tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội từ hai lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, bị cáo được hưởng các tình tiết: “Người phạm tội tự nguyện bồi thường thiệt hại”; “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”; bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; được quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Đối với tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”: Bị cáo không phạm vào tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo được hưởng tình tiết: “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”, được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Xét tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn H thấy rằng: Bị cáo Nguyễn H là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác, sử dụng tài liệu giả là bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vì muốn có tiền để chữa bệnh và tiêu xài phục vụ bản thân, nên đã thực hiện với lỗi cố ý. Hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra là nguy hiểm cho xã hội; xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân, xâm phạm đến sự đúng đắn của trật tự quản lý hành chính nhà nước, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn thị xã H nên cần phải xử lý nghiêm để có tác dụng răn đe và phòng ngừa chung. Xét bị cáo có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tỏ ra ăn năn hối cải, được bị hại tha thiết xin giảm nhẹ hình phạt; Hội đồng thấy có thể áp dụng thêm Điều 54 Bộ luật hình sự đối với tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” để xử phạt bị cáo này dưới mức thấp nhất của khung hình phạt như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa để thể hiện rõ sự khoan hồng của pháp luật.

[5] Về xử lý vật chứng: Hiện còn tạm giữ:

+ 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất - NGUYỄN HƯNG - BK9886xx có 01 chữ ký ghi tên người nộp là Trần Quang T1.

+ 03 bản Hợp đồng cọc ngày 20/2/2021.

Đây là các tài liệu chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội. Cần tiếp tục lưu hồ sơ vụ án.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Không có ai yêu cầu bồi thường gì thêm đối với bị cáo Nguyễn H nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về án phí: Bị cáo Nguyễn H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.

2. Về trách nhiệm hình sự:

Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn H 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 341, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn H 02 (hai) năm tù tội về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.

Áp dụng Điều 55 Bộ luật hình sự, tổng hợp hình phạt chung của hai tội buộc bị cáo Nguyễn H phải chấp hành là 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt giam để thi hành án. Nhưng được trừ thời gian đã bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 31/01/2023 đến ngày 14/02/2023 vào thời gian chấp hành hình phạt tù.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử buộc bị cáo Nguyễn H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị hại có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

4
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 25/2023/HS-ST

Số hiệu:25/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Hương Trà - Thừa Thiên Huế
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về