Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 247/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 247/2020/HS-ST NGÀY 16/12/2020 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 281/2020/TLST-HS ngày 26 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 242/2020/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

ĐỖ ĐỒNG G, sinh năm 1986; ĐKHKTT và nơi ở: Thôn NC, xã AK, huyện HĐ1, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): Lớp 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Đồng K và bà Nguyễn Thị L; chưa có vợ, con;

Tiền án, tiền sự:

1. Bản án hình sự sơ thẩm số 21/2006/HSST ngày 24/02/2006 của Tòa án nhân dân huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội xử phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích;

2. Bản án hình sự sơ thẩm số 15/2007/HSST ngày 06/02/2007 của Tòa án nhân dân huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An xử phạt 12 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích;

3. Bản án hình sự sơ thẩm số 109/2009/HSST ngày 11/3/2009 của Tòa án nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội xử phạt 15 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích;

4. Bản án hình sự sơ thẩm số 180/2011/HSST ngày 22/3/2011 của Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội xử phạt 18 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích;

5. Bản án hình sự sơ thẩm số 36/2013/HSST ngày 05/02/2013 của Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội xử phạt 08 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích;

6. Bản án hình sự sơ thẩm số 63/2013/HSST ngày 11/4/2013 của Tòa án nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội xử phạt 36 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tổng hợp hình phạt 08 tháng tù của Bản án hình sự sơ thẩm số 36/2013/HSST ngày 05/02/2013 của Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là 44 tháng tù, chưa được xóa án tích;

7. Bản án hình sự sơ thẩm số 25/2014/HSST ngày 16/9/2014 của Tòa án nhân dân huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ xử phạt 36 tháng tù về tội Trốn khỏi nơi giam. Tổng hợp với hình phạt còn lại của Bản án hình sự sơ thẩm số 63/2013/HSST ngày 11/4/2013 của Tòa án nhân dân quận Hà Đông, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là 57 tháng 24 ngày tù. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 10/5/2019, chưa được xóa án tích.

Nhân thân:

1. Ngày 26/6/2019 trộm cắp tài sản, bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hà Đông ra quyết định khởi tố vụ án số 382, khởi tố bị can số 516 ngày 22/10/2020 về tội Trộm cắp tài sản.

2. Bản án hình sự sơ thẩm số 133/2020/HSST ngày 25/11/2020 của Tòa án nhân dân huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội xử phạt 15 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản và 36 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tổng hợp hình phạt là 51 tháng tù.

Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp tạm giam tại Trại Tạm giam số 1 Công an thành phố Hà Nội, trong vụ án do Tòa án nhân dân huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội xét xử ngày 25/11/2020; có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Anh Nguyễn Bá N, sinh năm 2000; ĐKHKTT: Xóm 12, xã QT, huyện QL, tỉnh Nghệ An; nơi ở: Số x Ngõ y đường TT, Tổ Dân phố TC, phường DN, quận HĐ, thành phố Hà Nội; vắng mặt tại phiên tòa, có đơn xin vắng mặt.

Người làm chứng: Ông Trần Văn L1, sinh năm 1957; nơi cư trú: Số z Ngõ yy đường TT, Tổ Dân phố TC, phường DN, quận HĐ, thành phố Hà Nội; vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 3 năm 2020, anh Nguyễn Bá N và anh Đỗ Đồng G1 (em trai của Đỗ Đồng G) cùng thuê trọ tại khu nhà địa chỉ Số x Ngõ y đường TT, Tổ Dân phố TC, phường DN, quận HĐ, thành phố Hà Nội. Anh N có nghe anh G1 nói về anh trai của G1 tên là G đã đi tù về và có tính trộm cắp vặt. Tối ngày 24/4/2020, G đến phòng trọ của anh N với mục đích xem có sơ hở thì chiếm đoạt tài sản. Khoảng 19 giờ cùng ngày anh N đi làm về, khi gặp anh N, G bảo có chuyện cần nói rồi cả hai vào phòng trọ của anh N. G bảo anh N cho G ăn cơm tối tại đây, anh N đã đồng ý. Một lúc sau có ông Trần Văn L1 (chủ nhà trọ) đến nói chuyện với anh N. Khi anh N đang nói chuyện với ông L1, G hỏi mượn điện thoại của anh N để gọi điện gấp cho bạn. G giả vờ đưa điện thoại lên tai để nghe rồi đi ra ngoài mang điện thoại đi bán. Khi G mang điện thoại đi thì có số máy lạ gọi vào điện thoại của anh N nhưng G không nghe mà tắt đi. G mang chiếc điện thoại đến khu vực Bưu điện Hà Đông bán cho một người đàn ông không quen biết làm nghề xe ôm lấy số tiền 2.500.000 đồng và ăn tiêu hết.

Sau khi bị mất điện thoại, anh Nguyễn Bá N mượn điện thoại của ông Trần Văn L1 liên lạc với G để đòi lại điện thoại nhưng không được. Anh N có đơn trình báo gửi Công an phường DN, quận Hà Đông để giải quyết. Sau đó vụ việc được chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hà Đông để điều tra, xử lý.

Ngày 28/4/2020, Cơ quan điều tra đã ra văn bản yêu cầu định giá chiếc điện thoại của anh Nguyễn Bá N bị G chiếm đoạt. Tại Biên bản định giá số 146/BB- HĐĐG ngày 28/4/2020 và Kết luận định giá số 146/KL-HĐĐG ngày 28/4/2020 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự quận Hà Đông, kết luận: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone Xr dung lượng 64Gb màu xanh dương, chưa rõ imei, chưa thu được tang vật trị giá 8.000.000 đồng.

mình.

Tại Cơ quan điều tra, Đỗ Đồng G đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của Cáo trạng số 278/CT-VKS-HĐ ngày 25/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội truy tố bị cáo Đỗ Đồng G về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 174 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội luận tội cho rằng tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận tội phù hợp các tài liệu đã thu thập có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận cáo trạng truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản đã viện dẫn là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật nên giữ nguyên nội dung truy tố. Hành vi của bị cáo nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất trật tự xã hội, cần xử lý nghiêm. Bị cáo có 07 tiền án chưa được xóa án tích; hiện đang bị Công an quận Hà Đông, thành phố Hà Nội khởi tố về tội Trộm cắp tài sản; đã bị Tòa án nhân dân huyện Hoài Đức xét xử về các tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và Trộm cắp tài sản, do đó cần áp dụng hình phạt tù cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để có tác dụng giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên, bị cáo không có tình tiết tăng nặng; bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ hình phạt. Đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Đỗ Đồng G từ 30 đến 36 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 589 của Bộ luật Dân sự, buộc bị cáo bồi thường cho anh Nguyễn Bá N giá trị chiếc điện thoại là 8.000.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra,Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông; Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

Về đánh giá chứng cứ trong vụ án: Lời khai nhận tội của bị cáo Đỗ Đồng G tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra, truy tố; phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng, kết luận định giá tài sản và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Đủ cơ sở kết luận: Tối ngày 24/4/2020, Đỗ Đồng G đến phòng trọ của anh Nguyễn Bá N ở địa chỉ: Số x Ngõ y đường TT, Tổ Dân phố TC, phường DN, quận HĐ, thành phố Hà Nội với mục đích xem có sơ hở thì chiếm đoạt tài sản. Khi gặp anh N, G hỏi mượn điện thoại của anh N để gọi điện gấp cho bạn. Sau khi được anh N cho mượn chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone Xr trị giá 8.000.000 đồng, G giả vờ đưa điện thoại lên tai để nghe rồi đi ra ngoài, mang chiếc điện thoại đến khu vực Bưu điện Hà Đông bán cho một người đàn ông không quen biết được 2.500.000 đồng lấy tiền ăn tiêu.

Bị cáo là người có nhận thức đầy đủ về hành vi của mình, dùng thủ đoạn gian dối để mượn chiếc điện thoại của anh N rồi mang đi bán. Tài sản bị chiếm đoạt có giá trị 8.000.000 đồng nên hành vi của bị cáo thỏa mãn dấu hiệu cấu thành tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 174 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Về nhân thân, theo hồ sơ vụ án, đến ngày bị cáo thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo đã 07 lần bị kết án:

- Bản án hình sự sơ thẩm số 21/2006/HSST ngày 24/02/2006 của Tòa án nhân dân huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội xử phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, giá trị tài sản chiếm đoạt là 4.500.000 đồng;

- Bản án hình sự sơ thẩm số 15/2007/HSST ngày 06/02/2007 của Tòa án nhân dân huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An xử phạt 12 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, giá trị tài sản chiếm đoạt là 450.000 đồng;

- Bản án hình sự sơ thẩm số 109/2009/HSST ngày 11/3/2009 của Tòa án nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội xử phạt 15 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, giá trị tài sản chiếm đoạt là 1.010.000 đồng;

- Bản án hình sự sơ thẩm số 180/2011/HSST ngày 22/3/2011 của Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội xử phạt 18 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, giá trị tài sản chiếm đoạt là 18.000.000 đồng;

- Bản án hình sự sơ thẩm số 36/2013/HSST ngày 05/02/2013 của Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội xử phạt 08 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, giá trị tài sản chiếm đoạt là 200.000 đồng;

- Bản án hình sự sơ thẩm số 63/2013/HSST ngày 11/4/2013 của Tòa án nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội xử phạt 36 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, giá trị tài sản chiếm đoạt là 10.500.000 đồng. Tổng hợp hình phạt 08 tháng tù của Bản án hình sự sơ thẩm số 36/2013/HSST ngày 05/02/2013 của Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là 44 tháng tù;

- Bản án hình sự sơ thẩm số 25/2014/HSST ngày 16/9/2014 của Tòa án nhân dân huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ xử phạt 36 tháng tù về tội Trốn khỏi nơi giam. Tổng hợp với hình phạt còn lại của Bản án hình sự sơ thẩm số 63/2013/HSST ngày 11/4/2013 của Tòa án nhân dân quận Hà Đông, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là 57 tháng 24 ngày tù. Chấp hành xong hình phạt ngày 10/5/2019.

Kể từ Bản án hình sự sơ thẩm số 15/2007/HSST ngày 06/02/2007 của Tòa án nhân dân huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An trở đi, bị cáo đều phạm tội thuộc trường hợp “Người bị kết án chưa được xóa án tích mà thực hiện hành vi phạm tội mới và bị Tòa án kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật” nên căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 73 của Bộ luật Hình sự năm 2015 về cách tính thời hạn xóa án tích thì cả 07 tiền án của bị cáo đều chưa được xóa án tích.

Bản án hình sự sơ thẩm số 25/2014/HSST ngày 16/9/2014 của Tòa án nhân dân huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ xác định bị cáo phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Áp dụng các điều 53 và 70 của Bộ luật Hình sự năm 2015, bị cáo đã tái phạm nguy hiểm, chưa được xóa án tích lại thực hiện hành vi phạm tội do lỗi cố ý nên lần này thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, là tình tiết tăng nặng định khung quy định tại điểm d khoản 2 Điều 174 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội truy tố bị cáo về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 174 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng pháp luật.

Xem xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi và các tình tiết có ảnh hưởng đến trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy rằng: Giá trị tài sản bị chiếm đoạt không lớn nhưng hành vi của bị cáo thể hiện sự táo tợn; bị cáo chưa bồi thường thiệt hại cho bị hại; bị cáo là thanh niên có sức khỏe nhưng lười lao động mà liên tục phạm tội để có tiền thỏa mãn nhu cầu cá nhân, cần xử lý nghiêm khắc. Tuy nhiên, bị cáo thành khẩn khai báo nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Xét bị cáo có nhân thân rất xấu, nhiều lần phạm tội xâm phạm quyền sở hữu về tài sản, ngoài ra còn phạm tội Trốn khỏi nơi giam, cần áp dụng hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ tác dụng trừng trị, giáo dục bị cáo nói riêng, phòng ngừa tội phạm nói chung.

Đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 133/2020/HSST ngày 25/11/2020 của Tòa án nhân dân huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội xử phạt 15 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản và 36 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tổng hợp hình phạt là 51 tháng tù, hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong vụ án này thực hiện vào ngày 24/4/2020, trước khi Tòa án nhân dân huyện Hoài Đức xét xử nên bản án của Tòa án nhân dân huyện Hoài Đức không là căn cứ để xem xét áp dụng tình tiết tăng nặng đối với bị cáo. Tại phiên tòa, bị cáo khai không kháng cáo bản án của Tòa án nhân dân huyện Hoài Đức; không nhận được thông báo kháng cáo, kháng nghị, tuy nhiên, chưa hết thời hạn kháng nghị phúc thẩm và bản án đã thu thập trong hồ sơ vụ án có dấu “Án chưa có hiệu lực pháp luật”, do đó Hội đồng xét xử không có đủ cơ sở để tổng hợp hình phạt. Đề nghị Chánh án Tòa án có thẩm quyền tổng hợp hình phạt của hai bản án khi ra quyết định thi hành án đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại là anh Nguyễn Bá N yêu cầu bị cáo bồi thường chiếc điện thoại bị chiếm đoạt. Xét thấy, sau khi chiếm đoạt chiếc điện thoại, bị cáo đã bán cho người không quen biết, Cơ quan điều tra đã truy tìm chiếc điện thoại nhưng không có kết quả nên cần buộc bị cáo bồi thường cho anh N theo giá trị kết luận định giá tài sản, số tiền 8.000.000 đồng.

Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Số tiền án phí dân sự sơ thẩm được tính trên cơ sở tổng số tiền bị cáo phải bồi thường cho bị hại là 8.000.000 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Đỗ Đồng G phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Đỗ Đồng G 03 (ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Đề nghị Chánh án Tòa án có thẩm quyền, khi ra quyết định thi hành án đối với bị cáo, tổng hợp hình phạt của Bản án hình sự sơ thẩm số 133/2020/HSST ngày 25/11/2020 của Tòa án nhân dân huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội.

2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 2015; các điều 584, 589 của Bộ luật Dân sự năm 2015, buộc bị cáo Đỗ Đồng G bồi thường cho anh Nguyễn Bá N giá trị chiếc điện thoại bị chiếm đoạt là 8.000.000 (tám triệu) đồng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Đỗ Đồng G phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và 400.000 (bốn trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm.

4. Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 16/12/2020; bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã (phường, thị trấn) nơi đương sự cư trú, có trụ sở hoặc nơi đương sự cư trú, có trụ sở cuối cùng

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

387
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 247/2020/HS-ST

Số hiệu:247/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hà Đông - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về