Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 244/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH XUÂN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 244/2023/HS-ST NGÀY 20/12/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 12 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 206/2023/TLST-HS ngày 18 tháng 10 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 391/2023/QĐXX-HSST ngày 08 tháng 12 năm 2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Huyền M, sinh năm 2001; HKTT: Đường C, TDP An Đào, thị trấn T, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội; Trú tại: Ngách X ĐX, ĐT, Gia Lâm, Hà Nội; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hoá: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Anh T (Sinh năm 1972) và con bà: Lê Thị Quỳnh H (Sinh năm 1976); Tiền án, tiền sự: Không; Danh chỉ bản số 316 do Công an quận Thanh Xuân lập ngày 20/7/2023; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 19/7/2023. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại trại tạm giam số 2 – Công an TP. Hà Nội. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Chị Trần Thị Kim D, sinh năm 1997. Địa chỉ: BXT, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội. (Xin vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 19/12/2022 do có nhu cầu đặt hàng quần áo để kinh doanh, chị Trần Thị Kim D lên mạng xã hội Facebook vào nhóm xưởng may Ninh Hiệp nói chuyện với tài khoản “Mỹ Nguyễn” về sản xuất hàng quần áo với giá rẻ, tài khoản này cho chị D số điện thoại 036X để nói chuyện Zalo. Sau khi trao đổi và thỏa thuận đặt cọc tiền để mua hàng thì tài khoản “Mỹ Nguyễn” cung cấp cho chị D số tài khoản 916X, ngân hàng TPBank mang tên Nguyễn Huyền M đề nghị chị D chuyển tiền để đặt cọc. Chị D đồng ý và sử dụng tài khoản số 19033090637777 ngân hàng Techcombank chuyển vào tài khoản của M với tổng số tiền là 92.200.000 đồng (lần 1: 38.000.000 đồng vào ngày 19/12/2022 với nội dung “D ck đặt cọc vải”, lần 2: 21.600.000 đồng vào ngày 20/12/2022 với nội dung “D ck đặt cọc 600 áo”, lần 3: 2.600.000 đồng vào ngày 21/12/2022 với nội dung “D đặt cọc 300 hàng”, lần 4: 30.000.000 đồng vào ngày 23/12/2022 với nội dung “E Dung ck lô hàng”) và đều chuyển BXT, Khương Đình, Thanh Xuân, Hà Nội. Sau khi chuyển tiền, M hẹn ngày 24/12/2022 sẽ chuyển hàng cho chị D. Đến ngày hẹn M không trả hàng, khất lần và chặn liên lạc với chị D. Nhận thấy bị lừa đảo chiếm đoạt tài sản chị D đã gửi đơn trình báo đến cơ quan công an.

Cơ quan điều tra xác minh số tài khoản 91628386X, ngân hàng TPBank mang tên Nguyễn Huyền M (SN: 2001, HKTT: TDP An Đảo, thị trấn T, huyện Gia Lâm, TP Hà Nội) nên đã triệu tập M đến Cơ quan điều tra làm việc.

Thu giữ của Nguyễn Huyền M: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, màu vàng, số Imei 354506120483167.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Huyền M khai nhận hành vi phạm tội của mình như sau: Khoảng tháng 12/2022 do thiếu tiền tiêu nên M cùng với Nguyễn Vũ Quỳnh T (SN:2002; Trú tại: Thôn Đá, xã Dương Xá, Gia Lâm, Hà Nội) và Nguyễn Thị D1 (SN: 2000; Trú tại: Xóm 8, Ninh Hiệp, Gia Lâm, Hà Nội) bàn bạc lừa đảo chiếm đoạt tài sản dưới hình thức quảng cáo mua bán quần áo trên mạng xã hội. Ngày 19/12/2022, chị Trần Thị Kim D cần tìm mua quần áo để kinh doanh, T và D1 đã sử dụng tài khoản facebook “Mỹ Nguyễn” nhắn tin cho chị D có thể sản xuất được hàng với giá rẻ. Sau đó T và D1 chuyển toàn bộ thông tin và nội dung trao đổi với chị D sang cho M. M sử dụng tài khoản Zalo “Mỹ Mỹ” cung cấp thông tin giả mạo với chị D về sản phẩm rẻ hơn so với các sản phẩm khác trên thị trường; cam kết may sản phẩm đúng yêu cầu của khách hàng... để chị D tin tưởng đặt hàng và chuyển số tiền 92.200.000 đồng cho M. Thực tế M, T và D1 không kinh doanh, không có xưởng in may quần áo nào. Số tiền chiếm đoạt của chị D, M đã tiêu sài cá nhân hết.

Cơ quan điều tra đã xác minh HKTT, nơi ở và lấy lời khai chủ nhà nơi Nguyễn Vũ Quỳnh T và Nguyễn Thị D1 thuê, được biết: không có thông tin và con người nào có tên như trên, do đó cơ quan CSĐT – Công an quận Thanh Xuân không có căn cứ để xử lý.

Xác minh tài khoản Facebook “Mỹ Nguyễn”, do tài khoản đã bị khóa, M không nhớ đường link của tài khoản này nên Cơ quan CSĐT không có căn cứ để tiếp tục điều tra xác minh.

Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, màu vàng, số Imei 354506120483167, M sử dụng để liên lạc với chị D.

Về dân sự: Chị Trần Thị Kim D yêu cầu Nguyễn Huyền M trả lại số tiền đã chiếm đoạt của chị D là 92.200.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 201/CT-VKS ngày 18/10/2023, Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội truy tố bị cáo Nguyễn Huyền M về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm c khoản 2 điều 174 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Bị cáo M giữ nguyên lời khai, thừa nhận nội dung cáo trạng, tội danh mà VKS truy tố là đúng. Bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, đề nghị Toà án cho bị cáo được sự khoan hồng của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Xuân sau khi đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, phân tích các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ cần áp dụng đối với bị cáo, vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Nguyễn Huyền M tại bản cáo trạng và đề nghị hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 2 Điều 174; Điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Nguyễn Huyền M mức án từ 30 tháng đến 36 tháng tù thời hạn tù tính từ ngày 17/9/2023;

Do bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; Bị cáo phải bồi thường cho chị D số tiền 92.200.000 đồng; Tịch thu sung công chiếc điện thoại Iphone màu vàng thu giữ của bị cáo liên quan đến hành vi phạm tội; Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra công an quận Thanh Xuân, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Xuân trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi và tội danh: Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Huyền M tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai bị hại và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Từ ngày 19/12/2022 đến ngày 23/12/2022, bị cáo Nguyễn Huyền M có hành vi lừa đảo dưới hình thức quảng cáo mua bán quần áo trên mạng xã hội và chiếm đoạt số tiền là 92.200.000 đồng của chị Trần D, Do đó, hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 174 Bộ luật hình sự như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Xuân đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo đã dùng thủ đoạn gian dối để lừa đảo chiếm đoạt tài sản của chị D. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của chị D là người quản lý tài sản được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội, gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo nhận thức rõ hành vi phạm tội của mình là lỗi cố ý. Do đó cần phải xử lý nghiêm đối với bị cáo nhằm trừng trị, giáo dục bị cáo và đấu tranh phòng ngừa chung.

[3] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án tiền sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, có thái độ ăn năn hối cải, nên cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ phần hình phạt cho bị cáo.

[4] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, đặc điểm nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo M như phân tích ở trên. Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự để quyết định một mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện. Xét cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để đảm bảo mục đích của hình phạt, đủ tác dụng răn đe và giáo dục bị cáo như đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên toà hôm nay là phù hợp.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét trong trường hợp này bị cáo không nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Chị Trần Thị Kim D yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 92.200.000 đồng, tại phiên tòa bị cáo đồng ý với yêu cầu bồi thường của chị D nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[7] Xử lý vật chứng: Tịch thu sung ngân sách nhà nước chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, màu vàng đã qua sử dụng, số Imei 354506120483167 thu giữ của bị cáo liên quan đến hành vi phạm tội.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Huyền M phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

- Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;

- Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Căn cứ Điều 584, Điều 585, Điều 586 và Điều 589 Bộ luật dân sự năm 2015;

Xử phạt: Nguyễn Huyền M 32 (Ba mươi hai) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 19/7/2023.

Về dân sự:

- Buộc bị cáo phải bồi thường cho chị Trần Thị Kim D số tiền 92.200.000đ (Chín mươi hai triệu hai trăm nghìn đồng).

- Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015:

Về vật chứng: Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01(Một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, màu vàng, số máy MG9D3LL/A, số Imei 354506120483167 máy đã qua sử dụng.

Toàn bộ số tang vật nêu trên được lưu kho của Chi cục thi hành án dân sự quận Thanh Xuân theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 25 tháng 10 năm 2023.

- Căn cứ Điều 135; khoản 2 Điều 136; Điều 331 khoản 1; Điều 332 và Điều 333; Điều 336; Điều 337 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Điều 21 khoản 1 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án cùng danh mục kèm theo.

Bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 4.610.000đ (Bốn triệu sáu trăm mười nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm. Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền trên, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

10
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 244/2023/HS-ST

Số hiệu:244/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thanh Xuân - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/12/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về