Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 242/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 242/2022/HS-PT NGÀY 26/04/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 613/2021/TLPT-HS ngày 30 tháng 12 năm 2021 đối với bị cáo Bùi Thị Thu V do có kháng cáo của người bị hại đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 21/2021/HS-ST ngày 18/11/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An.

Bị cáo bị kháng cáo: Bùi Thị Thu V, sinh năm 1985 tại tỉnh Long An; Nơi đăng ký NKTT: số 18/2 ấp Thanh Bình 2 , xã Thanh Vĩnh Đông, huyện Châu Thành, tỉnh Long An; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa (học vấn): Lớp 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Bùi Xuân Hà và bà Nguyễn Thị Thu Loan; Có 02 con sinh năm 2006 và năm 2018; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo tại ngoại điều tra, vắng mặt tại phiên tòa (Có đơn xin xét xử vắng mặt vì mới sinh con).

Người bào chữa chỉ định cho bị cáo: Luật sư Nguyễn Văn T thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (Có mặt);

Người bị hại có kháng cáo:

1. Bà Trương Thị N, sinh năm 1983 - Có mặt;

Địa chỉ: Số 10/222, ấp A, xã P, huyện Châu Thành, tỉnh Long An;

2. Bà Trần Thị B, sinh năm 1965 - Có mặt;

Địa chỉ: Số 44 đường P, Phường 6, thành phố Tân An, tỉnh Long An;

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà Trương Thị N và bà Trần Thị B: Luật sư Cao Thanh T - Văn phòng luật sư An Khánh thuộc Đoàn luật sư tỉnh Long An (Có mặt);

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng cáo:

Ông Võ Thành C, sinh năm 1977 - Có đơn xin vắng mặt;

Địa chỉ: ấp C, xã L, thành phố Tân An, tỉnh Long An;

Ngoài ra còn có 06 người bị hại và 02 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không kháng cáo và không liên quan đến kháng cáo;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diên biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bùi Thị Thu V không có nghề nghiệp nhưng muốn có tiền tiêu xài nên đã đưa ra các thông tin gian dối như: Tự giới thiệu mình là người chuyên làm dịch vụ đáo nợ ngân hàng cho công nhân của Công ty hạt điều Lafaco tại Phường 6, thành phố Tân An, tỉnh Long An; V có mua cổ phần của Ngân hàng Saconbank nhằm tạo vỏ bọc để đánh vào tâm lý người cho V vay. Ban đầu V vay số tiền nhỏ và luôn trả tiền lãi đúng hạn để tạo uy tín, sau đó V vay số tiền lớn hơn và tự nâng mức lãi suất lên cao để nhằm vay được tiền, rồi lấy tiền của người cho vay sau trả lãi hoặc một phần nhỏ tiền vốn cho người cho vay trước và chiếm đoạt tiền vay để sử dụng cho cá nhân cho đến khi không còn khả năng duy trì việc trả lãi và không thể vay tiền được nữa thì V trì hoãn việc thanh toán, hứa hẹn, cam kết nhưng không trả nợ và tiếp tục đưa ra thông tin gian dối như bị cướp, bị giang hồ theo dõi... nhằm lẩn tránh và bỏ trốn. Bằng thủ đoạn như trên, V đã chiếm đoạt tiền của những người sau:

Từ đầu tháng 12/2017 đến ngày 25/5/2018, bà Trương Thị N nhiều lần đưa tiền cho V vay tổng cộng 13.010.000.000 đồng và 11.000 USD, thỏa thuận lãi suất 15.000 đồng/1.000.000 đồng/ngày, sau đó tăng dần lên 30.000 đồng/1.000.000 đồng/ngày. Tính đến ngày 21/5/2018, V đã trả 5.436.200.000 đồng và 01 chỉ vàng 24K (thỏa thuận 01 chỉ vàng là 3.000.000 đồng). Như vậy, V còn nợ bà N là 7.570.800.000 đồng và 11.000 USD (quy đổi bằng 247.247.000 đồng). Trong số tiền của bà N đưa cho V thì có số tiền bà N huy động của bà Phan Thị N 1.000.000.000 đồng để đưa cho V tại tiệm uốn tóc của bà N.

Từ ngày 25/12/2017 đến ngày 29/5/2018, bà Trần Thị B nhiều lần cho V vay tổng cộng 9.010.000.000 đồng, lãi suất từ 3.000 đồng - 9.000 đồng/1.000.000 đồng/ngày. Thời điểm cuối V tự nâng lên mức 20.000 đồng/1.000.000 đồng/ngày. Từ ngày 25/12/2017 đến cuối tháng 4/2018, V đã trả 1.000.000.000 đồng, còn nợ 8.010.000.000 đồng. Trong số tiền của bà B đưa cho V thì có 110.000.000 đồng của bà Trịnh Huệ N1, bà B yêu cầu V viết giấy nợ cho bà Huệ N1 thì V nói là cần tiền để đáo nợ ngân hàng (thực chất không có việc đáo nợ ngân hàng). Từ khi V bị khởi tố đến nay, bà Huệ N1 không tố cáo và cũng không có yêu cầu V phải trả 110.000.000 đồng.

Ngoài ra, từ đầu tháng 02/2015 đến cuối tháng 5/2018 bị cáo V chiếm đoạt của các ông, bà: Lê Thị Kim X 604.000.000 đồng, Lê Thị T 2.513.838.000 đồng, Nguyễn Thị Bạch T1 5.697.240.000 đồng, Nguyễn Thị Minh T2 (T3) 740.220.000 đồng, Võ Thành V1 1.000.000.000 đồng (những người này không có kháng cáo).

Tổng cộng bị cáo V đã chiếm đoạt của 08 người với tổng số tiền là 40.361.247.000 đồng, đã trả 13.867.902.000 đồng, còn nợ 26.493.345.000 đồng.

Tại Kết luận giám định số 455/2019/KLGĐ ngày 07/10/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Long An xác định chữ viết, chữ ký trên các tờ giấy, đơn hợp đồng vay tiền, hợp đồng mượn tiền làm ăn so với chữ viết, chữ ký của Bùi Thị Thu V là do cùng một người viết và ký ra.

Về giọng nói trong đoạn băng ghi âm do bà Trương Thị N và bà Trần Thị B cung cấp. Ông Võ Thành C xác nhận nội dung trong đoạn băng ghi âm là do ông C nói chuyện với bà N và bà B. Cơ quan điều tra tiến hành cho đối chất giữa ông Võ Thành C, bà Trương Thị N với bà Trần Thị B. Kết quả không có cơ sở xác định Võ Thành C đồng phạm với bị cáo V.

Trong quá trình điều tra còn xác định, V mượn của các ông, bà: Võ Thị L 400.000.000 đồng, Võ Thành V1 (là cha chồng của V) 700.000.000 đồng, Bùi Thị Thu S (là chị ruột của V) 200.000.000 đồng, Nguyễn Thị Thu L1 (là mẹ ruột của V) 1.000.000.000 đồng, nhưng những người này không tố cáo và không có yêu cầu V phải trả tiền, nên không có căn cứ đề cập giải quyết.

Tại Bản cáo trạng số 66/CT-VKSLA-P1 ngày 23/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An đã truy tố bị cáo Bùi Thị Thu V về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

Tại Bản án hình sự sơ thẩm s 21/2021/HS-ST ngày 18/11/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Bùi Thị Thu V phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”;

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm g khoản 1 Điều 52; các điểm b, s, n khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Bùi Thị Thu V 18 (mười tám) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

Áp dụng khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

Buộc bị cáo Bùi Thị Thu V phải trả cho bà Trương Thị N 11.254.247.000 đồng (Mười một tỷ hai trăm năm mươi bốn triệu hai trăm bn mươi bảy ngàn đồng).

Buộc bị cáo Bùi Thị Thu V phải trả cho bà Trần Thị B 8.526.040.000 đồng (Tám tỷ năm trăm hai mươi sáu triệu không trăm bốn mươi ngàn đồng).

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn buộc bị cáo trả tiền cho các bị hại khác; quyết định về xử lý vật chứng; về án phí hình sự sơ thẩm, án phí dân sự sơ thẩm; về trách nhiệm do chậm thi hành án; về nghĩa vụ thi hành án và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Cùng ngày 22/11/2021, người bị hại bà Trương Thị N và bà Trần Thị B có đơn kháng cáo với cùng nội dung yêu cầu hủy Bản án sơ thẩm để xét xử lại để bổ sung vai trò đồng phạm của ông Võ Thành c và buộc ông c liên đới cùng bị cáo V để trả nợ.

Tại phiên tòa phúc thm:

Người bị hại bà Trương Thị N và bà Trần Thị B đều giữ nguyên kháng cáo yêu cầu hủy Bản án sơ thẩm để điều tra xét xử lại, xác định ông Võ Thành C đồng phạm với Bùi Thị Thu V và buộc ông C phải có trách nhiệm liên đới với Bùi Thị Thu V hoàn trả các khoản tiền chiếm đoạt của bị hại.

Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà Trương Thị N và bà Trần Thị B đề nghị xem xét ông Võ Thành C đã thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có giá trị lớn để vay của bà Trần Thị B 330.000.000 đồng, ông C là chồng của bị cáo V. Việc ông C vay tiền của bà B đã làm cho bà B và các bị hại khác tin tưởng cho bị cáo V vay tiền rồi chiếm đoạt. Như vậy, ông C là đồng phạm với bị cáo V. Chỉ sau khi bà Trần Thị B tố cáo thì ông C mới trả cho bà B số tiền 330.000.000 đồng là khắc phục hậu quả. Trong số tiền bị cáo V chiếm đoạt của bà N thì có số tiền bà N huy động của bà N 01 tỷ đồng, bà N khai đã đưa 01 tỷ đồng này trực tiếp cho ông C và bị cáo V, nhiều người làm chứng có lời khai thấy ông C cầm tiền của V vay của các bị hại, chứng tỏ ông C là đồng phạm với bị cáo V. Khi cho đối chất giữa ông C với bà B, đối chất giữa ông C với bà N thì cơ quan điều tra không triệu tập luật sư chứng kiến. Vì vậy, đề nghị chấp nhận kháng cáo của bà N, bà B, hủy Bản án sơ thẩm để điều tra vai trò đồng phạm của ông C và buộc ông C liên đới trách nhiệm với bị cáo V hoàn trả tiền cho các bị hại.

Luật sư bào chữa cho bị cáo thống nhất ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tại phiên tòa phúc thẩm, đề nghị bác kháng cáo và giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh có ý kiến Hội đồng xét xử phúc thẩm và người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Đơn kháng cáo của những người bị hại đảm bảo hình thức, thời hạn, đủ điều kiện giải quyết phúc thẩm. Bản án sơ thẩm tuyên bố bị cáo Bùi Thị Thu V phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự và buộc bị cáo phải bồi thường cho người bị hại là có căn cứ và phù hợp. Không có căn cứ để xác định ông Võ Thành C là đồng phạm, nên đề nghị bác kháng cáo của những người bị hại và giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đơn kháng cáo của người bị hại bà Trương Thị N và bà Trần Thị B đều đảm bảo hình thức, thời hạn, đủ điều kiện giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.

Theo Giấy ra viện số lưu trữ A2201.03338, mã YT 22.0172256 ngày 13/4/2022 của Bệnh viện sản nhi TWG Long An thì bị cáo Bùi Thị Thu V vừa mổ sinh con, xuất viện ngày 13/4/2022; Bị cáo V có đơn xin xét xử vắng mặt; Ông Võ Thành C là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng cáo cũng có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Sự vắng mặt đó không gây trở ngại cho việc xét xử nên theo quy định tại khoản 1 Điều 351 Bộ luật tố tụng hình sự thì việc xét xử phúc thẩm vẫn được tiến hành;

[2] Do không có kháng cáo, kháng nghị về tội danh, hình phạt đối với bị cáo nên theo quy định tại Điều 345 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử phúc thẩm không có căn cứ để xem xét về tội danh và hình phạt đối với bị cáo Bùi Thị Thu V;

[3] Tòa án cấp sơ thẩm đã có Thông báo số 166/2020/TB-TA ngày 22/6/2020 và Quyết định số 05/2020/HSST-QĐ ngày 09/9/2020 trả hồ sơ để điều tra bổ sung về trách nhiệm của ông Võ Thành C. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An cũng ra Quyết định số 162/QĐ-VKSLA-P2 ngày 23/9/2020 trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung và đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Long An thực hiện điều tra bổ sung. Bản kết luận điều tra bổ sung số 453/VPCQCSĐT ngày 22/10/2020 với kết quả không có cơ sở để xác định ông Võ Thành C là đồng phạm với bị cáo.

[4] Trong quá trình điều tra, bà Trương Thị N và bà Trần Thị B có đơn yêu cầu xem xét ông Võ Thành C là chồng của bị cáo V là đồng phạm và phải có trách nhiệm liên đới với bị cáo V trả tiền chiếm đoạt. Để chứng minh cho yêu cầu của mình, bà Trương Thị N cung cấp 01 thẻ nhớ và bà Trần Thị B cung cấp 01 USB ghi âm cuộc thoại giữa bà N, bà B với ông Võ Thành C.

Tại Biên bản đối chất giữa bà Trương Thị N với ông Võ Thành C vào ngày 15/10/2020 (bút lục số 639), bà N trình bày như sau: “Việc V vay tiền của tôi thì tôi và V làm biên nhận trên gát nhà của tôi. Tôi giao tiền cho V trên gát, chỉ có tôi và V, C không biết, nhưng các lần V đến nhà tồi đều do C chở đi. C V là vợ chồng nên C biết việc V vay tiền của tôi”; Ông Võ Thành C trình bày như sau: “Lời trình bày của chị N có điểm đúng, điểm không đúng. Điểm đúng: Việc V vay tiền của N tôi không biết, do tôi không có chứng kiến. Tôi có chở V đến nhà N; Điểm sai: Tôi không có biết V vay tiền của N. Tuy sng chung với nhau như vợ chồng nhưng công việc ai ny làm. V nói đi làm đáo hạn ngân hàng, còn tôi làm ruộng, trị bệnh”.

Tại Biên bản đối chất giữa bà Trần Thị B với ông Võ Thành C vào ngày 15/10/2020 (bút lục số 637), bà B trình bày như sau: “Khi tôi cho V vay tiền có mặt C tại nơi tôi và V làm biên nhận vay tiền khoảng ba lần tại nhà của tôi. Sau khi V vay tiền, tôi đưa tiền trực tiếp cho V có mặt C tại ch giao nhận tiền, C có đến nhà tôi bm huyệt...Khi V nhận tiền vay của tôi, tôi thấy V bỏ vào giỏ xách rồi V giao cho C giữ đem về khoảng ba lần”; Ông Võ Thành C trình bày như sau: “Lời trình bày của chị B là không đúng. Tôi không có cùng V đi đến nhà của chị B vay tiền, tôi không có chứng kiến V vay tiền, nhận tiền của chị B. Tôi chỉ đến nhà chị B chữa bệnh cho chị B và những người gần nhà chị B. Khi đi tôi đi cùng với V khoảng năm lần...Tôi không biết V vay tiền của chị B, tôi không có giữ tiền của V vay của chị B”.

Giọng nói trong cuộc thoại giữa bà N, bà B với ông C trong thẻ nhớ và USB đúng là của ông C, nhưng cuộc thoại (đã được chép ra văn bản từ bút lục số 572 đến 593) không có nội dung thể hiện ông C cùng vay tiền với bị cáo V.

Do đó, không có căn cứ để xác định hành vi của ông Võ Thành C đồng phạm với bị cáo Bùi Thị Thu V về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và cũng không có căn cứ để buộc ông Võ Thành C liên đới trách nhiệm trả các khoản tiền bị cáo Bùi Thị Thu V đã chiếm đoạt.

[5] Do vậy, không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bà Trương Thị N, bà Trần Thị B và không chấp nhận đề nghị của luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà Trương Thị N, bà Trần Thị B; giữ nguyên Bản án sơ thẩm theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh là phù hợp;

[6] Theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì bà Trương Thị N và bà Trần Thị B không thuộc trường hợp phải chịu án phí phúc thẩm;

[7] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm về tội danh và hình phạt đối với bị cáo Bùi Thị Thu V; về trách nhiệm dân sự của bị cáo đối với các bị hại khác; về xử lý vật chứng; về án phí hình sự sơ thẩm không có kháng cáo kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

2. Không chấp nhận kháng cáo của bà Trương Thị N và bà Trần Thị B.

Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 21/2021/HS-ST ngày 18/11/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An.

Buộc bị cáo Bùi Thị Thu V phải trả cho bà Trương Thị N 11.254.247.000 đồng (Mười một tỷ hai trăm năm mươi bốn triệu hai trăm bn mươi bảy ngàn đồng).

Buộc bị cáo Bùi Thị Thu V phải trả cho bà Trần Thị B 8.526.040.000 đồng (Tám tỷ năm trăm hai mươi sáu triệu không trăm bốn mươi ngàn đồng).

3. Bà Trương Thị N và bà Trần Thị B không phải chịu án phí phúc thẩm;

4. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm về tội danh và hình phạt đối với bị cáo Bùi Thị Thu V; về trách nhiệm dân sự của bị cáo đối với các bị hại khác; về xử lý vật chứng; về án phí hình sự sơ thẩm không có kháng cáo kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

265
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 242/2022/HS-PT

Số hiệu:242/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về