Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 237/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 237/2022/HS-PT NGÀY 25/04/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 370/2021/TLPT- HS ngày 14 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo Phan Hữu H do có kháng cáo của bị cáo và kháng cáo của bị hại đối với bản án hình sự sơ thẩm số 26/2021/HS-ST ngày 05 tháng 5 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau.

- Bị cáo có kháng cáo và bị kháng cáo:

- Họ và tên: Phan Hữu H, giới tính: Nam, sinh năm 1959; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: Ấp T, xã Đ, huyện C, tỉnh Cà Mau; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm vuông; Trình độ học vấn: 6/12; Con ông Phan Văn M (đã chết) và bà Trần Thị H1 (đã chết); Anh chị em ruột: Có 13 người. Vợ: Nguyễn Thị N1, sinh năm 1959; Con: Gồm có 03 người (lớn sinh năm 1981, nhỏ sinh năm 1987); Tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt tạm giam từ ngày 20/4/2020 đến nay, tại Trại Tạm giam - Công an tỉnh Cà Mau (có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo theo yêu cầu của Tòa án: Luật sư Lê Minh C1 thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Cà Mau (có mặt).

* Người bị hại có kháng cáo:

1. Ông Nguyễn Hoàng E (Nguyễn Vũ E), sinh năm 1976 (vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp T, xã Đ, huyện C, tỉnh Cà Mau

2. Ông Nguyễn Chí D1, sinh năm 1987 (có mặt)

Địa chỉ: Ấp B, xã Đ, huyện C, tỉnh Cà Mau;

3. Ông Phan Văn T2, sinh năm 1956 (vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp T, xã Đ, huyện C, tỉnh Cà Mau;

4. Ông Nguyễn Văn H3, sinh năm 1947 (vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp T, xã Đ, huyện C, tỉnh Cà Mau;

Ông H3 ủy quyền cho bà Phạm Thị Đ2, sinh năm 1948 (vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp T, xã Đ, huyện C, tỉnh Cà Mau

5. Ông Nguyễn Thanh T3, sinh năm 1971 (vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp T, xã Đ, huyện C, tỉnh Cà Mau;

6. Ông Mai Văn C4, sinh năm 1961 (vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp T, xã Đ, huyện C, tỉnh Cà Mau;

7. Ông Nguyễn Thanh T3, sinh năm 1968 (vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp R, xã T, huyện C, tỉnh Cà Mau;

8. Ông Phạm Thanh T5, sinh năm 1955 (vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp T, xã Đ, huyện C, tỉnh Cà Mau;

9. Ông Phùng Hòa L7, sinh năm 1964 (vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp C, xã T, huyện C, tỉnh Cà Mau;

Ông L7 ủy quyền cho bà Bùi Tuyết M8, sinh năm 1970 (vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp C, xã T, huyện C, tỉnh Cà Mau;

10. Bà Trần Thị H9, sinh năm 1978 (vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp C, xã T, huyện C, tỉnh Cà Mau;

11. Ông Nguyễn Văn K1, sinh năm 1974 (vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp T, xã Đ, huyện C, tỉnh Cà Mau;

12. Bà Bùi Thị H5, sinh năm 1956 (vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp T, xã Đ, huyện C, tỉnh Cà Mau;

13. Ông Lê Minh D6, sinh năm 1965 (có mặt)

Địa chỉ: Ấp C, xã Đ, huyện C, tỉnh Cà Mau;

14. Ông Nguyễn Văn M2, sinh năm 1973 (vắng mặt)

Địa chỉ: Âp Si, xã T, huyện C, tỉnh Cà Mau;

15. Bà Trần Thị N10, sinh năm 1985 (có mặt)

Địa chỉ: Ấp N, xã Đ, huyện C, tỉnh Cà Mau

16. Ông Trần Văn K9, sinh năm 1970 (có mặt)

Địa chỉ: Ấp B, xã Đ, huyện C, tỉnh Cà Mau;

17. Ông Trần Công C18, sinh năm 1961 (vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp C, xã Đ, huyện C, tỉnh Cà Mau;

18. Ông Hồ Văn V15 (Hồ Hoàng V15), sinh năm 1975 (vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp B, xã Đ, huyện C, tỉnh Cà Mau.

(Những người tham gia tố tụng khác không có kháng cáo, kháng nghị không liên quan đến kháng cáo nên Tòa án không triệu tập).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng năm 2006, Phan Hữu H bắt đầu mở hụi, làm chủ các dây hụi. Để thực hiện việc làm chủ hụi, H có làm đơn xin tổ chức hùn vốn tín dụng nông dân có xác nhận của Trưởng ấp T, xã Đ, huyện C. Hình thức tham gia hụi, mỗi tháng khui một lần, mỗi kỳ khui hụi các hụi viên phải đến nhà H bỏ thăm, hụi viên bỏ thăm cao nhất sẽ được hốt hụi, từ 03 đến 05 ngày sau khi bỏ hụi H sẽ gom và giao tiền cho hụi viên được hốt hụi và H được hưởng 50% tiền hoa hồng của giá trị chân hụi đã hốt.

Thời gian đầu, H gom hụi và giao hụi đầy đủ nên được tạo được lòng tin của mọi người. Tuy nhiên, từ tháng 02 năm 2013 đến tháng 6 năm 2014. H lợi dụng những hụi viên không đi bỏ thăm để lấy tên hụi viên và tự ý bỏ thăm hốt hụi và chiếm đoạt tiền của hụi viên ở 05/08 dây hụi, với tổng số tiền 828.627.000 đồng để trả nợ và chi xài cá nhân. Đến ngày 30 tháng 12 năm 2014 H tuyên bố bể hụi thì còn 8 dây hụi chưa mãn liên quan đến 79 hụi viên. Hành vi gian dối chiếm đoạt tiền hụi của Phan Hữu H cụ thể như sau:

Dây hụi thứ nhất: Mở ngày 18.02.2013 (nhằm ngày 09.01.2013 âm lịch), loại hụi 5.000.000đồng, gồm có 26 chân với 15 hụi viên tham gia, mỗi tháng khui một lần. Phan Hữu H tham gia chơi 03 chân nhưng không lấy tên H mà lấy tên Phan Kim P8 là con ruột của H tham gia 01 chân, lấy tên khống Nguyễn Văn B1 tham gia 02 chân. Dây hụi đã khui được 26 kỳ, trong đó H hốt 03 kỳ do H tham gia chơi và H tự ý lấy tên hụi viên để hốt 01 kỳ chiếm đoạt 88.750.000đồng. Cụ thể:

Kỳ 4: Khui ngày 18.5.2013 (nhằm ngày 09.4.2013 âm lịch), H lấy tên hụi viên trong dây hụi nhưng không nhớ tên ai, bỏ thăm số tiền 1.250.000 đồng, hốt và chiếm đoạt số tiền 88.750.000đồng.

Trách nhiệm dân sự:Hụi viên Lê Trường S1 tham gia chơi 02 chân, ông S1 đóng hụi sống được 24 kỳ, với số tiền thực đóng là 165.950.000đồng. Ông S1 là người hốt ở hai kỳ cuối, tương đương với số tiền là 235.000.000đồng (trừ cò 5.000.000đồng). Ông S1 xác định H mới giao cho ông được 80.000.000đồng, H còn nợ lại 155.000.000đồng, còn H xác định đã giao đủ tiền hụi này cho bà Trần Cẩm H11 là vợ của ông S1, nhưng H không có giấy tờ gì để chứng minh. Vì vậy H phải trả cho ông S1 số tiền (235.000.000đồng - 5.000.000đồng - 80.000.000đồng) = 150.000.000 đồng.

Do H hốt và chiếm đoạt tiền của hụi viên 01 chân tại kỳ thứ 4, nên đến kỳ 26 còn 02 chân hụi chưa được hốt gồm ông Lê Trường S1 và bà Tạ Thị D13. H cho bà D13 hốt ở kỳ 26, với số tiền hốt hụi là 125.000.000đồng. H đã giao cho bà D13 được 43.500.000đồng, còn nợ lại tiền hụi bà D13 là 82.500.000đồng.

* Ngoài ra, trong dây hụi này H còn nợ tiền hụi của hụi viên Phan Văn T2. Ông T2 tham gia 03 chân và đã hốt hết. Tuy nhiên, tại kỳ 23 Ông T2 hốt với số tiền là 108.7000.000đồng, H mới giao được 73.700.000đồng, còn nợ lại Ông T2 số tiền 35.000.000đồng. Sau đó, giữa H và Ông T2 cấn trừ tiền hụi ở các dây hụi khác, do vậy H còn nợ tiền hụi ở dây này với Ông T2 là 24.575.000đồng.

Dây hụi thứ hai: Mở ngày 04.4.2013 (nhằm ngày 24.02.2013 âm lịch), loại hụi 8.000.000đồng, có 25 chân với 18 hụi viên tham gia, mỗi tháng khui một lần. Trong đó, H lấy tên khống tham gia 06 chân gồm: Nguyễn Văn Q1 02 chân, Nguyễn Văn H16 01 chân, Phan Kim P8 02 chân, Nguyễn Văn G3 01 chân (H đã hốt hết 6 chân). Mặc dù H lấy tên khống để tham gia chơi hụi nhưng H có đóng hụi đầy đủ.

Dây Hụi khui được 24 kỳ, nhưng H gom hụi đủ 25 kỳ. Tuy nhiên, có tới 02 hụi viên tham gia chơi 02 chân chưa được hốt là ông Lê Trường S1 01 chân và bà Lâm Thị Thu H18 01 chân với số tiền thực đóng 23 kỳ của mỗi chân hụi là 120.830.000đồng. Quá trình điều tra, H chỉ thừa nhận chiếm đoạt của bà H11 01 chân hụi, còn 01 chân hụi của ông S1, H không thừa nhận chiếm đoạt mà cho rằng đã giao hụi cho ông S1 nhưng không có gì chứng minh. Vì vậy H chiếm đoạt 02 chân hụi của ông S1 và bà H11 với tiền thực đóng của hai hụi viên S1 và H18 là 241.660.000đồng.

Trong 24 kỳ khui hụi, H có tự ý lấy tên hụi viên trong dây hụi để hốt 03 kỳ với số tiền 378.060.000đồng.

Kỳ 10: ngày 26.12.2013 (nhằm ngày 24.11.2013 âm lịch), H lấy tên hụi viên trong dây hụi nhưng không nhớ tên ai, bỏ thăm số tiền 2.040.000đồng, hốt được số tiền 119.360.000đồng.

Kỳ 12: ngày 23.02.2014 (nhằm ngày 24.01.2014 âm lịch), H lấy tên hụi viên trong dây hụi nhưng không nhớ tên ai, bỏ thăm số tiền 1.860.000đồng, hốt được số tiền 124.100.000đồng.

Kỳ 16: ngày 21.6.2014 (nhằm ngày 24.5.2014 âm lịch), H lấy tên hụi viên trong dây hụi nhưng không nhớ tên ai, bỏ thăm số tiền 1.450.000đồng, hốt được số tiền 134.600.000đồng.

Tuy nhiên, tại kỳ 22 có 02 người cùng hốt hụi H giao hụi cho 02 người (ông Nguyễn Văn T17 168.000.000đồng và ông Nguyễn Văn M2 giao 68.000.000đồng, H nợ lại 100.000.000đồng).

Tại kỳ 23 H cho 03 hụi viên cùng hốt 03 chân gồm: Phạm Văn Thức, Trần Thị H9 và Nguyễn Thị B17 với số tiền cho mỗi người là 176.000.000đồng.

Tại kỳ 24 và 25, H không khui hụi mà gom tiền các chân hụi chết. H dùng tiền này để giao tiền hụi cho ông Thức và bà Hường. Sau khi cấn trừ nợ hụi, thì H còn nợ bà Hường 105.000.000đồng.

Do đó, trong dây hụi này mặc dù H có hốt 03 kỳ hốt của hụi viên, nhưng sau đó H giao lại 3 kỳ. H chỉ chiếm đoạt 02 chân hụi của ông S1 và bà H11 với tiền thực đóng của hai hụi viên Sơn và Hà là 241.660.000đồng.

Dây hụi thứ ba: Mở ngày 18.5.2013 (nhằm ngày 09.4.2013 âm lịch), loại hụi 2.000.000/tháng, có 25 chân, với 18 hụi viên tham gia. Trong đó, H lấy tên khống chơi 05 chân gồm: Lê Văn C8 01 chân, Nguyễn Văn H19 01 chân, Trần Văn Q3 02 chân, Nguyễn Văn Q4 01 chân, đã hốt ở các kỳ từ kỳ thứ 1 đến kỳ thứ 5 và H tự lấy tên hụi viên để hốt khống 01 kỳ, chiếm đoạt số tiền 36.160.000đồng. Cụ thể:

Kỳ 14: Ngày 05.7.2014 (nhằm ngày 09.6.2014 âm lịch), H tự ý lấy tên hụi viên trong dây hụi nhưng không nhớ tên ai, bỏ thăm số tiền 320.000đồng, hốt và chiếm đoạt số tiền 36.160.000đồng.

Dây hụi khui được 25 kỳ, ông Lê Trường S1 tham gia 02 chân, ông là người hốt cuối. Ông S1 xác định H chưa giao tiền hụi cho ông, còn H xác định đã giao đủ tiền hụi này cho bà Trần Cẩm H11 là vợ của ông S1, nhưng H không có gì để chứng minh. H gom tiền hụi chết của các hụi viên được 18 kỳ hụi chết x 2 chân x 2.000.000đồng = 72.000.000 đồng, nhưng H không giao tiền cho ông S1 mà chiếm đoạt tiền này.

Như vậy, tổng số tiền H đã chiếm đoạt của dây hụi này là 108.160.000đồng (36.160.000đồng + 72.000.000đồng).

Trách nhiệm dân sự, ở dây hụi này Phan Hữu H còn nợ tiền của hụi viên gồm: ông Nguyễn Văn H3 33.000.000đồng, Ông H3 tham gia chơi 01 chân, hốt ở kỳ 23 với số tiền là 44.000.000đồng, nhưng H mới giao được 11.000.000đồng; ông Trần Văn C19 51.000.000đồng, ông C19 tham gia chơi 02 chân, hốt với số tiền 81.420.000đồng, H mới giao được 30.420.000đồng.

Dây hụi thứ tư: Mở ngày 06.9.2013, nhằm ngày 02.8.2013 âm lịch, loại hụi 5.000.000đồng/tháng, gồm có 25 chân có 21 hụi viên tham gia. Trong đó H lấy tên Phan Kim P8 là con ruột của H và tên khống Phan Kim H12 chơi 02 chân, đã hốt ở kỳ thứ 02 và kỳ thứ 11. Dây hụi này khui được 18 kỳ thì đình hụi, còn 07 kỳ chưa khui. Trong 18 kỳ khui hụi, H tự ý lấy tên hụi viên trong dây hụi để hốt 5,5 kỳ, chiếm đoạt số tiền là 472.930.000đồng.

- Kỳ 3: Ngày 02.10.2013 âm lịch, H tự ý lấy tên hụi viên nhưng không nhớ tên ai bỏ thăm 1.260.000đồng để hốt hụi, chiếm đoạt số tiền 89.800.000đồng.

- Kỳ 5: Ngày 02.12.2013 âm lịch, H tự ý lấy tên hụi viên trong dây hụi nhưng không nhớ tên ai, bỏ thăm 1.490.000đồng để hốt hụi, chiếm đoạt số tiền 86.690.000đồng.

- Kỳ 10: Ngày 02.5.2014 âm lịch, H tự lấy tên hụi viên trong dây hụi nhưng không nhớ tên ai bỏ thăm 850.000đồng để hốt hụi, chiếm đoạt số tiền 102.250.000 đồng. Cụ thể:

- Kỳ 12: Ngày 02.7.2014 âm lịch, H tự ý lấy tên hụi viên trong dây hụi nhưng không nhớ tên ai, bỏ thăm 1.020.000đồng để hốt hụi, chiếm đoạt số tiền 99.700.000đồng.

- Kỳ 14: Ngày 02.9.2014 âm lịch, H tự ý lấy tên hụi viên nhưng không nhớ tên ai, bỏ thăm 1.465.000đồng để hốt hụi, chiếm đoạt số tiền 94.490.000đồng.

Do dây hụi này, ở kỳ thứ nhất có 04 người hốt 03 chân hụi gồm: ông Trần Văn H13 và ông Trần Văn P2 mỗi người hốt 0,5 chân, ông Bùi Minh C3 hốt 01 chân và ông Lê Văn M6 (Nguyễn Văn C19) hốt 01 chân. Để có tiền giao cho hụi viên, H bán cho ông Nguyễn Văn T17 01 chân, với số tiền 83.900.000đồng để giao cho Bùi Minh C3 và bán cho ông Trần Văn K9 01 chân, với số tiền 92.050.000đồng. Sau khi đình hụi H còn nợ Nguyễn Văn T17 3,5 kỳ x 5.000.000đồng = 17.500.000đồng, nợ ông K9 08 kỳ x 5.000.000đồng = 40.000.000 đồng.

Đến kỳ thứ 19, lúc này H đã đình hụi, nhưng hụi viên Bùi Văn O yêu cầu cho O hốt hụi, O bỏ thăm 2.500.000 đồng H gom tiền hụi chết và lấy tiền của H chung cho O 102.000.000 đồng.

Dây hụi này còn 07 hụi viên tham gia 9 chân hụi đã đóng 18 kỳ chưa được hốt hụi với số tiền thực đóng cụ thể gồm:

- Bùi Văn C19 (Bùi Văn Đ7): 01 chân, đóng 66.030.000đồng.

- Nguyễn Văn T17: 0,5 chân, đóng 33.015.000đồng.

- Trần Thị N10: 1,5 chân, đóng 99.045.000đồng.

- Nguyễn Văn M2: 02 chân, đóng 132.060.000đồng.

- Trần Văn C19: 02 chân, đóng 132.060.000đồng.

- Trần Văn K9: 01 chân, đóng 66.030.000đồng.

- Phan Thanh G8: 01 chân, đóng 68.530.000đồng.

Dây hụi thứ năm: Mở ngày 22.11.2013, nhằm ngày 20.10.2013 âm lịch, loại hụi 5.000.000đồng/tháng, có 27 chân với 23 hụi viên tham gia. Trong đó, H lấy tên khống Trần Thị H20 tham gia 01 chân đã hốt ở kỳ thứ 8 và hùn chơi với hụi viên Trần Văn H13 0,5 chân. Dây hụi khui được 15 kỳ thì đình hụi, còn 12 kỳ chưa khui. Trong 15 kỳ khui hụi, H hốt 2,5 kỳ, trong đó H tự ý lấy tên hụi viên trong dây hụi để hốt 01 kỳ, ( Kỳ thứ 2) Ngày 20.11.2013 âm lịch, H lấy tên hụi viên nhưng không nhớ tên ai, bỏ thăm 1.405.000 đồng, hốt hụi, chiếm đoạt số tiền 93.077.000đồng.

Dây hụi này còn 13 chân hụi sống, với 10 hụi viên tham gia 13 chân đã đóng 15 kỳ chưa được hốt hụi số tiền thực đóng cụ thể :

- Nguyễn Thanh T3 (Nguyễn Văn Dãnh): 01 chân, đóng 49.575.000đồng.

- Phạm Thanh T5: 01 chân, đóng 49.575.000đồng.

- Trần Mai N18: 02 chân, đóng 99.150.000đồng.

- Lâm Thị Thu H18: 01 chân, đóng 49.575.000đồng.

- Trần Công C18: 01 chân, đóng 49.575.000đồng.

- Nguyễn Văn M2: 02 chân, đóng 99.150.000đồng.

- Mai Văn C4: 01 chân, đóng 49.575.000đồng.

- Nguyễn Văn C19: 02 chân, 99.150.000đồng.

- Mai Văn C4: 01 chân, đóng 49.575.000đồng.

- Phan Thị Đ10: 01 chân, đóng 49.575.000đồng.

Dây hụi thứ sáu: Mở ngày 22.12.2013, nhằm ngày 20.11.2013 âm lịch, loại hụi 2.000.000/tháng, có 35 chân với 29 hụi viên tham gia, trong đó H lấy tên chân, Phan Kim P8 02 chân và Lê Văn Cò 01 chân nhưng ở kỳ 11, Cò rút không chơi, H lấy chân hụi của Cò chơi. Dây hụi khui được 14 kỳ thì đình hụi, còn 21 kỳ chưa khui. Trong 14 kỳ khui hụi, H hốt 5,5 kỳ ở kỳ 2,3,6,7,10,13. Còn lại 09 kỳ H giao hụi đầy đủ.

Dây hụi này, mặc dù H có hành vi gian dối đưa tên người chơi hụi khống vào dây hụi nhằm mục đích chơi hụi. Trong thời gian chơi hụi, H đã hốt 5,5 kỳ, tương ứng với số tiền 200.201.500 đồng nhưng sau khi hốt hụi, H có thực hiện nghĩa vụ đóng hụi chết cho đến khi bể hụi. Do đó, đối với dây hụi này H không chiếm đoạt tiền.

Dây hụi thứ bảy: Mở ngày 08.4.2014, nhằm ngày ngày 09.3.2014 âm lịch, loại hụi 5.000.000/tháng, có 35 chân với 24 hụi viên tham gia. Trong đó, H lấy tên khống chơi 05 chân gồm: Phan Kim P8 (01 chân), Phan Minh T25 (01 chân), Phan Văn V29 (01 chân), Nguyễn Văn B10 (01 chân), Nguyễn Văn Q1 (01 chân). Dây hụi khui 11 kỳ thì đình hụi, còn 24 kỳ chưa khui. Trong 11 kỳ khui hụi, H hốt 03 kỳ. Cụ thể:

- Kỳ 1: Ngày 09.3.2014 âm lịch, H lấy tên Nguyễn Văn Q1 (tên hụi viên khống), bỏ thăm số tiền 1.400.000đồng để hốt hụi, chiếm đoạt số tiền 108.000.000đồng.

- Kỳ 6: Ngày 09.8.2014 âm lịch, H lấy tên Phan Kim P8 (tên hụi viên khống), bỏ thăm số tiền 1.740.000.000đồng để hốt hụi, chiếm đoạt số tiền 99.760.000đồng.

- Kỳ 8: Ngày 09.9.2014 âm lịch, H lấy tên Nguyễn Văn B10 (tên hụi viên khống), bỏ thăm 2.510.000 đồng để hốt hụi, chiếm đoạt số tiền 85.000.000đồng.

Dây hụi này mặc dù H có hành vi gian dối là đưa tên người chơi khống vào dây hụi nhằm mục đích chơi hụi. Trong thời gian chơi hụi, H đã hốt 03 kỳ, tương ứng với số tiền là 292.760.000 đồng. Nhưng sau khi đã hốt hụi, H có thực hiện nghĩa vụ là đóng lại hụi chết đến khi bể hụi. Do đó, đối với dây hụi này H không chiếm đoạt tiền.

Dây hụi thứ tám: Mở ngày 09.6.2014 tức ngày 12.5.2014 âm lịch, loại hụi 5.000.000/tháng, có 27 chân với 21 hụi viên tham gia, trong đó H lấy tên khống tham gia 3,5 chân gồm (Nguyễn Thị H14 01 chân, Nguyễn Văn H16 01 chân, Phan Văn T2 01 chân – T2 chơi đến kỳ thứ 3 thì rút ra không chơi, nên H lấy chân hụi của T2 và 0,5 chân chơi chung chân hụi với hụi viên Nguyễn Mười H16). Dây Hụi này khui được 09 kỳ thì đình hụi, còn 18 kỳ chưa khui. Trong 09 kỳ khui hụi, H hốt 01 kỳ: Kỳ 1: Ngày 12.5.2014 âm lịch, H lấy tên Nguyễn Thị H14 (tên hụi viên khống), bỏ thăm số tiền 1.300.000 đồng để hốt hụi với số tiền 86.950.000 đồng.

Dây hụi này H mặc dù H có hành vi gian dối là đưa tên người chơi khống vào dây hụi nhằm mục đích chơi hụi. Nhưng sau khi đã hốt hụi, H có thực hiện nghĩa vụ là đóng lại hụi chết đến khi bể hụi. Do đó, đối với dây hụi này H không chiếm đoạt tiền của hụi viên.

Trong quá trình điều tra, bị can Phan Hữu H đã thành khẩn khai báo và đã tự nguyện khắc phục một phần hậu quả cho một vài hụi viên, với tổng số tiền 94.000.000đồng.

* Về vật chứng thu giữ trong vụ án: 08 cuốn sổ do H ghi theo dõi hụi; 05 danh sách hụi viên (Đơn xin hùn vốn tín dụng nông dân); 01 tờ giao kèo tiền hụi giữa Phan Hữu H và Phan Văn V29; 01 giấy bên nhận hụi giữa Phan Hữu H và Trần Văn K9. Tất cả đã đưa vào hồ sơ vụ án.

* Về phần trách nhiệm dân sự:

Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã cho đối chiếu giữa các hụi viên và Phan Hữu H. Hai bên thống nhất và có đủ căn cứ buộc H còn nợ của 50 hụi viên số tiền là 3.458.310.000 đồng. Cụ thể như sau:

(1) Ông Nguyễn Văn T17, số tiền 118.500.000đồng – (BL: 296, 853). (2) Ông Trần Văn K9, số tiền 158.000.000đồng – (BL: 312, 854).

(3) Bà Võ Thị Thầm, số tiền 55.000.000đồng – (BL: 855, 309). (4) Bà Trần Thị N10, số tiền 114.250.000đồng - (BL: 768, 375).

(5) Bà Lâm Thị Thu H18, số tiền 133.000.000đồng - (BL: 291, 849).

(6) Ông Nguyễn Văn M2, số tiền 420.000.000đồng - (BL: 771, 375).

(7) Ông Trần Văn C19, số tiền 249.140.000đồng - (BL: 297,850).

(8) Ông Phạm Thanh G9, số tiền 68.530.000đồng - (BL: 785, 856).

(9) Ông Bùi Văn O, số tiền 4.800.000đồng – (BL: 789, 858).

(10) Bà Trần Mai N18, số tiền 89.150.000đồng – (BL: 641, 861).

(11) Ông Phan Thanh H16, số tiền 41.575.000 đồng – (BL: 861, 812).

(12) Ông Nguyễn Thanh T3, số tiền 111.175.000 đồng – (BL: 315, 861).

(13) Ông Phạm Thanh T5, số tiền 49.575.000đồng – (BL: 319, 862).

(14) Ông Trần Công C18, số tiền 80.375.000đồng – (BL: 311, 862).

(15) Ông Phan Văn T2, số tiền 25.575.000đồng – (BL: 318, 862).

(16) Ông Mai Văn C4, số tiền 43.575.000đồng, khắc phục 1.000.000đồng, còn 42.575.000đồng – (BL: 316, 811).

(17) Bà Dư Thúy D3, số tiền 80.375.000đồng – (BL: 300, 865). (18) Ông Nguyễn Văn K19, số tiền 37.890.000đồng – (BL: 866). (19) Ông Trần Văn K20, số tiền 18.849.000đồng – (BL: 717, 883).

 (20) Ông Hồ Văn V15 (Hồ Hoàng V15), số tiền 70.550.000đồng – (BL: 719).

(21) Bà Bùi Thị H5, số tiền 18.849.000đồng – (BL: 720, 883).

(22) Ông Nguyễn Hoàng E (Nguyễn Vũ E), số tiền 46.849.000đồng – (BL: 743, 883).

(23) Bà Phan Thị V10, số tiền 37.698.000đồng, khắc phục 3.000.000đồng, còn 34.698.000đồng – (BL: 745, 888).

(24) Bà Nguyễn Thị X (Thu X), số tiền 849.000đồng – (BL: 705, 888).

(25) Ông Nguyễn Thanh T3, số tiền 36.349.000đồng – (BL: 647, 886).

(26) Ông Lê Minh D6, số tiền 37.698.000đồng – (BL: 673, 887).

(27) Ông Phạm Công T10, số tiền 77.300.000đồng – (BL: 675, 887).

(28) Ông Nguyễn Đức T21, số tiền 18.849.000đồng – (BL: 677, 887).

(29) Bà Tạ Thị D13, số tiền 82.500.000đồng – (BL: 701, 884).

(30) Ông Phan Văn T22, số tiền 30.800.000đồng – (BL: 378, 669).

(31) Ông Nguyễn Chí D1, số tiền 30.800.000đồng – (BL: 665, 894).

(32) Ông Tô Thanh T23, số tiền 10.000.000đồng – (BL:747, 896).

(33) Bà Nguyễn Thị Lệ H20, số tiền 55.000.000đồng – (BL: 683, 896).

(34) Ông Nguyễn Văn X6 (Nguyễn Văn X6), số tiền 30.800.000đồng, khắc phục 10.000.000đồng, còn 20.800.000đồng – (BL: 655, 896).

(35) Ông Phùng Hòa L7, số tiền 151.600.000đồng – (BL: 697, 891).

(36) Ông Lê Văn T25, số tiền 28.300.000đồng – (BL: 739).

(37) Ông Bùi Văn C26, số tiền 30.800.000đồng – (BL: 736, 892).

(38) Ông Phan Hoàng L27, số tiền 28.300.000đồng – (BL:734, 893).

(39) Ông Nguyễn Văn K1, số tiền 21.890.000đồng – (BL: 730, 872).

(40) Ông Trần Thanh P28, số tiền 28.890.000đồng– (BL: 730, 873).

(41) Ông Nguyễn Văn T29, số tiền 28.890.000đồng – (BL: 728, 873).

(42) Ông Nguyễn Văn L30, số tiền 28.890.000đồng, khắc phục 20.000.000đồng, còn 8.890.000đồng – (BL: 726, 873).

(43) Ông Nguyễn Văn T31, số tiền 28.890.000đồng, khắc phục 1.000.000đồng, còn 27.890.000đồng – (BL: 724, 873).

(44) Ông Nguyễn Mười H16, số tiền 128.095.000đồng – (BL: 686, 874).

(45) Bà Nguyễn Mỹ X15, số tiền 28.890.000đồng – (BL: 691, 874).

(46) Bà Nguyễn Thị B17, số tiền 101.500.000đồng – (BL: 876).

(47) Ông Nguyễn Văn B18, số tiền 28.890.000đồng – (BL: 877).

(48) Bà Trần Thị H9, số tiền 53.680.000đồng - (BL: 1899).

(49) Ông Nguyễn Văn H3, số tiền 23.000.000đồng – (BL: 1864-1887).

(50) Ông Lê Trường S1, số tiền thực đóng là 348,580.000 đồng – 80.000.000 đồng = 268.580.000 đồng. Ông S1yêu cầu H trả số tiền nợ hụi gồm lãi hụi 433.000.000đồng – (BL: 1886).

Còn 19 hụi viên đã thỏa thuận và không có yêu cầu.

Những hụi viên sau khi đối trừ, còn 10 hụi viên nợ tiền hụi của H gồm:

(1) Ông Nguyễn Văn P9, số tiền 22.500.000đồng – (BL: 776, 850).

(2) Ông Đỗ Hoàng P10, số tiền 88.000.000đồng – (BL: 294, 857).

(3) Ông Phan Văn D11, số tiền 9.000.000đồng – (BL: 455).

(4) Ông Nguyễn Văn H29, số tiền 40.000.000đồng – (BL: 851).

(5) Ông Nguyễn Văn N9, số tiền 10.000.000đồng – (BL: 860).

(6) Ông Phan Văn N12, số tiền 104.900.000đồng – (BL: 489).

(7) Ông Phan Văn G10, số tiền 350.000.000đồng – (BL: 317, 800).

(8) Ông Nguyễn Văn M28, số tiền 65.000.000đồng – (BL: 667).

(9) Bà Trần Thị H28, số tiền 20.000.000đồng – (BL: 463, 890).

(10) Ông Phan Văn V29, số tiền 13.720.000đồng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 26/2021/HS-ST ngày 5/5/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau đã quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Phan Hữu H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 54 Bộ luật hình sự;

Xử phạt: Bị cáo Phan Hữu H 08 (tám) năm tù; thời hạn tù được tính kể từ ngày 20/4/2020.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm trách nhiệm dân sự, án phí, quyền kháng cáo, kháng nghị theo luật định.

Sau khi xét xử sơ thẩm, - Ngày 18/5/2021 bị cáo Phan Hữu H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

- Từ ngày 17/5/2021 đến 19/5/2021, các người bị hại gồm ông, bà: Nguyễn Hoàng E (Nguyễn Vũ E), Nguyễn Chí D1, Phan Văn T2, Phạm Thị Đ2 (đại diện của ông Nguyễn Văn H3), Nguyễn Thanh T3 (ấp T), Mai Văn C4, Nguyễn Thanh T3 (ấp R), Phạm Thanh T5, Bùi Tuyết M8 (đại diện của ông Phùng Hòa L7), Trần Thị H9, Nguyễn Văn K1, Lê Minh D6, Nguyễn Văn M2, Trần Thị N10, Trần Văn K9, Trần Công C18, Hồ Văn V15 (Hồ Hoàng V15) kháng cáo đề nghị tăng hình phạt và buộc bị cáo trả nợ hụi gốc và lãi.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin giảm số tiền về phần trách nhiệm dân sự. Những người bị hại có kháng cáo vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo đề nghị tăng hình phạt đối với bị cáo và xem xét lại phần trách nhiệm dân sự.

Phần tranh luận:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án:

- Về tố tụng: Kháng cáo của các bị cáo và các bị hại là trong hạn luật định nên hợp lệ.

- Về nội dung: Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo H có thừa nhận hành vi phạm tội. Bản án sơ thẩm áp dụng pháp luật tuyên xử bị cáo là có căn cứ, đúng quy định pháp luật. Kháng cáo của bị cáo là không có căn cứ để xem xét, bởi Bản án sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không cung cấp được tình tiết nào mới. Đối với việc xin giảm bớt số tiền trách nhiệm dân sự, xét thấy cấp sơ thẩm đã tuyên xử là có căn cứ, nên kháng cáo của bị cáo là không có cơ sở chấp nhận. Đối với kháng cáo của bị hại là không có căn cứ để xem xét bởi Bản án sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ đối với bị cáo.

Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, bị hại, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

Người bào chữa cho bị cáo phát biểu:

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo: Tài liệu trong hồ sơ vụ án thể hiện: Bị cáo H ngay khi chưa khởi tố vụ án đã có vay tiền và thế chấp nhà của con để khắc phục hậu quả cho các hụi viên. Trong số những người hụi viên, có 11 người đã có đơn khởi kiện tranh chấp ra Tòa án, đã được Tòa án ra quyết định.

Bị cáo H có thực hiện nghĩa vụ trong giai đoạn này nhưng chưa được xem xét trong Bản án sơ thẩm.

- Có sự vi phạm trong tố tụng: Trong bản kết luận điều tra số 82 ngày 30/12/2020, xác định bị cáo lừa đảo, chiếm đoạt tài sản với số tiền là 502.605.000 đồng, trong bản kết luận điều tra chính thức ngày 17/6/2020 thì kết luận là 566.007.500 đồng, trong bản cáo trạng số 11 ngày 23/02/2021 lại xác định bị cáo lừa đảo số tiền là 828.627.000 đồng, tại bản án sơ thẩm lại xác định là 756.627.000 đồng. Các tài liệu này có sự mâu thuẫn với nhau về số tiền chiếm đoạt. Việc xác định bị hại và người liên quan trong kết luận điều tra, cáo trạng, và bản án sơ thẩm xác định có sự khác nhau. Trong cáo trạng xác định vật chứng có 09 sổ, 05 danh sách, một giao kèo, một giấy biên nhận. Nhưng trong Bản án sơ thẩm xác định có 08 cuốn sổ. Vấn đề đặt ra là, vật chứng được xem xét chính xác là cụ thể như nào. Việc xác định hụi sống, hụi chết chưa rõ ràng (dây 1 loại hụi có 26 chân, ngày 18/4/2015 mới mãn dây hụi này, …). Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét lại vấn đề này.

- Về số tiền chiếm đoạt: Ông S1 đã được nhận của bị cáo H trả 80.000.000 đồng, số tiền còn lại hơn 100.000.000 đồng, tại Bản án sơ thẩm lại vẫn tính tiền lãi cho ông S1 là không đúng. Bản án sơ thẩm cũng như Cáo trạng đều xác định ông Lê Trường S1 cũng như là bà Tạ Thị Y, hai người đều hốt hụi chết hết và tính tiền cả vốn lãi cho hai người này ở dây hụi chết, điều này mâu thuẫn, vi phạm về tố tụng. Hồ sơ vụ án chưa thể hiện việc đối chất giữa bị cáo và các bị hại để xác định lại số tiền chiếm đoạt Từ những phân tích trên, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét lại toàn bộ nội dung khi giải quyết vụ án.

Đại diện người bị hại có kháng cáo trình bày: Không có sự kiện các hụi viên có ý kiến chỉ trả 20% ở cấp xã như lời trình bày của bị cáo. Gia đình bị cáo không hề có ý thức khắc phục hậu quả. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị hại và đề nghị xem xét lại phần dân sự.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác,

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, một số người bị hại có kháng cáo, đã được Tòa án cấp phúc thẩm triệu tập nhưng vắng mặt. Xét, Tòa án cấp phúc thẩm đã triệu tập đúng quy định pháp luật, nội dung kháng cáo của những người bị hại vắng mặt trùng với nội dung kháng cáo của những bị hại còn lại. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào quy định của Bộ luật tố tụng hình sự tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về nội dung vụ án:

Vào khoảng năm 2006, Phan Hữu H bắt đầu mở hụi, làm chủ các dây hụi. Để thực hiện việc làm chủ hụi, H có làm đơn xin tổ chức hùn vốn tín dụng nông dân có xác nhận của Trưởng ấp T, xã Đ, huyện C. Hình thức tham gia hụi, mỗi tháng khui một lần, mỗi kỳ khui hụi các hụi viên phải đến nhà H bỏ thăm, hụi viên bỏ thăm cao nhất sẽ được hốt hụi, từ 03 đến 05 ngày sau khi bỏ hụi H sẽ gom và giao tiền cho hụi viên được hốt hụi và H được hưởng 50% tiền hoa hồng của giá trị chân hụi đã hốt.

Thời gian đầu, H gom hụi và giao hụi đầy đủ nên được tạo được lòng tin của mọi người. Tuy nhiên, từ tháng 02 năm 2013 đến tháng 6 năm 2014. H lợi dụng những hụi viên không đi bỏ thăm để lấy tên hụi viên và tự ý bỏ thăm hốt hụi và chiếm đoạt tiền của hụi viên ở 05/08 dây hụi để trả nợ và chi xài cá nhân. Đến ngày 30 tháng 12 năm 2014 H tuyên bố bể hụi thì còn 8 dây hụi chưa mãn liên quan đến 79 hụi viên.

Với hành vi nêu trên, Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau đã tuyên xử bị cáo Phan Hữu H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự 2015.

[3] Nhận định của Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm:

[3.1] Theo quy định tại Điều 174 Bộ luật hình sự thì lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi người phạm tội dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác. Theo đó, giá trị của tài sản bị chiếm đoạt là căn cứ để định khung hình phạt và xem xét lượng hình đối với người phạm tội. Trong vụ án này, cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm quy kết bị cáo đã chiếm đoạt số tiền 828.617.000 đồng từ hụi viên (tuy nhiên số lượng hụi viên này ít hơn 50 người được xác định là bị hại). Bên cạnh đó, phần trách nhiệm dân sự của bản án sơ thẩm tuyên buộc bị cáo phải có nghĩa vụ hoàn trả cho 50 người bị hại với tổng số tiền là 3.584.840.000 đồng (lớn hơn rất nhiều số tiền mà bị cáo bị quy kết). Việc xác định tất cả những người tham gia chơi hụi là người bị hại và giải quyết yêu cầu bồi thường trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự là xác định sai người tham gia tố tụng.

Dẫn chứng cụ thể:

Dây hụi thứ nhất: Mở ngày 18.02.2013 (nhằm ngày 09.01.2013 âm lịch), loại hụi 5.000.000 đồng, gồm có 26 chân với 15 hụi viên tham gia, H chiếm đoạt 88.750.000đồng tại kỳ 4 (khui ngày 18.5.2013).

Dây hụi đã khui đủ 26 kỳ, các hụi viên tham gia dây hụi này đều đã được khui hụi trừ ông Lê Trường S1. Vì vậy, bị hại được xác định trong dây hụi này chỉ là hụi viên chưa được hốt hụido hành vi hốt khống của bị cáo H tại kỳ thứ 4 là hụi viên ông Lê Trường S1. Các hụi viên khác tham gia dây hụi này đã được khui hụi thì không được xác định là bị hại trong vụ án.

Việc hụi viên Phan Văn T2, Tạ Thị D13 đã được khui hụi nhưng chưa được bị cáo giao đủ tiền chỉ là thỏa thuận dân sự giữa bị cáo H và các hụi viên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định bị cáo không chiếm đoạt đối với số tiền của hụi viên Phan Văn T2, Tạ Thị D13 nhưng tuyên buộc bị cáo có nghĩa vụ thanh toán cho 02 hụi viên này là không đúng. Phần nợ tiền hụi giữa bị cáo H và hụi viên T2, D13 phải được tách ra giải quyết bằng vụ án dân sự khi có yêu cầu.

Dây hụi thứ hai: Mở ngày 04.4.2013 (nhằm ngày 24.02.2013 âm lịch), loại hụi 8.000.000đồng, có 25 chân với 18 hụi viên tham gia, mỗi tháng khui một lần. H chiếm đoạt 02 chân hụi của ông S1 và bà H11 với tiền thực đóng của hai hụi viên S1 và H11 là 241.660.000đồng.

Cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm đã xác định bị cáo H chỉ chiếm đoạt 02 chân hụi của ông Lê Trường S1 và bà Lâm Thị Thu H18, nên bị hại trong dây hụi này là ông S1 và bà H11. Phần trách nhiệm dân sự được giải quyết đối với dây hụi này là giải quyết việc đòi lại tài sản bị chiếm đoạt của ông S1 và bà H11, nhưng Việc Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết luôn phần nợ tiền hụi theo thỏa thuận dân sự giữa bị cáo H và hụi viên Trần Thị H9 trong vụ án này là không chính xác.

Dây hụi thứ ba: Mở ngày 18.5.2013 (nhằm ngày 09.4.2013 âm lịch), loại hụi 2.000.000/tháng, có 25 chân, với 18 hụi viên tham gia. H chiếm đoạt số tiền 36.160.000đồng.

Số tiền bị cáo H chiếm đoạt là số tiền bị cáo hốt khống tại kỳ 14. Bị hại được xác định trong dây hụi này cũng chỉ là hụi viên Lê Trường S1 (hụi viên chưa được hốt hụi do hành vi hốt khống của bị cáo tại kỳ thứ 14), nhưng Tòa án cấp sơ thẩm xác định tất cả các hụi viên tham gia dây hụi là bị hại là chưa đúng.

Đối với phần giải quyết trách nhiệm dân sự thì phần nợ tiền hụi giữa bị cáo H và các hụi viên Nguyễn Văn H3, Trần Văn C19 được xác định không có dấu hiệu chiếm đoạt nên cần phải tách ra giải quyết bằng một vụ án khác khi có yêu cầu.

Dây hụi thứ tư: Mở ngày 06.9.2013 (nhằm ngày 02.8.2013 âm lịch), loại hụi 5.000.000đồng/tháng, gồm có 25 chân với 21 hụi viên tham gia. H chiếm đoạt số tiền là: (472.930.000đồng - 83.900.000 đồng-92.050.000 đồng) = 296.980.000 đồng.

Bị hại được xác định trong dây hụi này cũng chỉ là những hụi viên chưa được hốt hụi do hành vi hốt khống của bị cáo bao gồm: Bùi Văn C19 (Bùi Văn Đ7), Trần Thị N10, Nguyễn Văn M2, Trần Văn C19, Phan Thanh G8, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm xác định các hụi viên khác cũng là bị hại trong vụ án và giải quyết luôn phần dân sự giữa bị cáo và các hụi viên này.

Dây hụi thứ năm: Mở ngày 22.11.2013 (nhằm ngày 20.10.2013 âm lịch), loại hụi 5.000.000đồng/tháng, có 27 chân với 23 hụi viên tham gia. H tự ý lấy tên hụi viên trong dây hụi để hốt 01 kỳ, chiếm đoạt số tiền 93.077.000đồng.

Bị hại được xác định trong dây hụi chỉ là những hụi viên chưa được hốt hụi bao gồm: Nguyễn Thanh T3 (Nguyễn Văn Dãnh), Phạm Thanh T5, Trần Mai N18, Lâm Thị Thu H18, Trần Công C18, Nguyễn Văn M2, Mai Văn C4, Nguyễn Văn C19, Phan Thị Đ10.

[3.2] Đối với các dây hụi thứ sáu (mở ngày 22.12.2013, nhằm ngày 20.11.2013 âm lịch), thứ bảy (mở ngày 08.4.2014, nhằm ngày ngày 09.3.2014 âm lịch), thứ tám (mở ngày 09.6.2014 tức ngày 12.5.2014 âm lịch): Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định bị cáo Phan Hữu H không chiếm đoạt tiền của các hụi viên nên không có hành vi phạm tội tại các dây hụi này. Do đó, các khoản tiền nợ giữa bị cáo và các hụi liên quan đến 3 dây hụi này giữa bị cáo và các hụi viên là giao dịch dân sự, và phải được tách ra giải quyết bằng thủ tục tố tụng dân sự nếu có yêu cầu. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm xác định các hụi viên tham gia 3 dây hụi này cũng là bị hại trong vụ án hình sự, đồng thời giải quyết cả phần dân sự giữa bị cáo và các hụi viên trong ba dây hụi không có yếu tố phạm tội hình sự trên là đã xác định sai người tham gia tố tụng trong vụ án hình sự và vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

[3.3] Mặt khác, dấu hiệu của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là người phạm tội có hành vi gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác. Theo nhận định ở mục [3.1] thì thực chất trong mỗi dây hụi chỉ có một số hụi viên bị bị cáo chiếm đoạt tiền (những người chưa hốt hụi), những hụi viên còn lại vẫn thực hiện giao dịch đúng theo thỏa thuận. Do vậy, cơ quan tiến hành tố tụng cần làm rõ trong mỗi dây hụi hành vi nào của bị cáo là cấu thành tội phạm, hành vi nào chỉ là thực hiện giao dịch dân sự. Từ đó làm căn cứ để đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội và xem xét trách nhiệm của bị cáo. Việc cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm nhận định bị cáo có hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt trong tất cả dây hụi, nhưng lại bóc tách phần tiền hụi giữa bị cáo và các hụi viên khi xem xét trách nhiệm hình sự và trách nhiệm dân sự là xác định không đúng hành vi phạm tội của bị cáo đối với một số hụi viên.

[3.4] Quá trình giải quyết vụ án, người bị hại yêu cầu bà Nguyễn Thị N1 (vợ bị cáo) phải liên đới với bị cáo trả tiền nợ cho các bị hại. Bà N1 cũng tự nguyện đồng ý liên đới cùng bị cáo liên đới trách nhiệm dân sự, nên bản án sơ thẩm đã tuyên buộc bị cáo H và bà N1 có nghĩa vụ liên đới trả tiền cho các bị hại. Xét thấy, trách nhiệm dân sự liên đới trong vụ án hình sự được áp dụng đối với trường hợp phạm tội đồng phạm. Đối với những giao dịch dân sự (không có dấu hiệu hình sự) do bị cáo thực hiện thì pháp luật dân sự có quy định trường hợp buộc bà N1 phải cùng chịu liên đới nghĩa vụ với bị cáo. Kết quả điều tra xác định vụ án này không có đồng phạm, và bà N1 được xác định là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Theo nhận định ở các mục trên thì trong các dây hụi tồn tại cả hành vi phạm tội, và giao dịch dân sự. Do đó, bản án sơ thẩm tuyên buộc bà N1 phải liên đới chịu tất cả trách nhiệm dân sự với bị cáo là không phù hợp. Bà N1 chỉ có nghĩa vụ liên đới phải chịu trách nhiệm dân sự trong các giao dịch dân sự do bị cáo thực hiện, nếu có căn cứ chứng minh. Trong vụ án hình sự thì trường hợp bà N1 đồng ý cùng bị cáo thực hiện trách nhiệm dân sự thì Tòa án chỉ có thể ghi nhận sự tự nguyện này của bà N1, chứ không thể tuyên buộc bà N1 phải chịu trách nhiệm liên đới.

[4] Từ các phân tích trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy việc Tòa án cấp sơ thẩm xác định không chính xác người bị hại Tòa án cấp sơ thẩm cần thẩm tra, xác định lại cho đúng bị hại trong vụ án và giải quyết lại cho đúng phần trách nhiệm dân sự của bị cáo đối với các dây hụi. Đối với phần bị cáo nợ tiền của các hụi viên không phải là bị hại trong vụ án và phần các hụi viên không phải bị hại trong vụ án nợ tiền bị cáo, cần được tách ra giải quyết bằng vụ án dân sự khi có yêu cầu. Những sai sót nêu trên của cấp sơ thẩm, Hội đồng xét xử phúc thẩm không thể sửa chữa khắc phục. Vì vậy Hội đồng xét xử không chấp nhận quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa, chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bị cáo và những người bị hại, hủy toàn bộ bản án sơ thẩm số 26/2021/HS-ST ngày 05/5/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau, giao hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau giải quyết lại vụ án theo quy định pháp luật.

[5] Về án phí phúc thẩm, bị cáo và các bị hại không phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 355, Điều 358 Bộ luật tố tụng hình sự, Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Phan Hữu H và kháng cáo của các bị hại ông Nguyễn Hoàng E (Nguyễn Vũ E), ông Nguyễn Chí D1, ông Phan Văn T2, ông Nguyễn Văn H3, ông Nguyễn Thanh T3 (ấp T), ông Mai Văn C4, ông Nguyễn Thanh T3 (ấp R), ông Phạm Thanh T5, bà Bùi Tuyết M8, bà Trần Thị H9, ông Nguyễn Văn K1, bà Bùi Thị H5, ông Lê Minh D6, ông Nguyễn Văn M2, bà Trần Thị N10, ông Trần Văn K9, ông Trần Công C18, ông Hồ Văn V15 (Hồ Hoàng V15).

Hủy bản án hình sự sơ thẩm số 26/2021/HS-ST ngày 05/5/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau. Giao hồ sơ vụ án về cho Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau để giải quyết lại vụ án theo thủ tuc chung.

Tiếp tục tạm giam bị cáo Phan Hữu H cho đến khi Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau thụ lý lại hồ sơ vụ án.

Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo và các bị hại có kháng cáo không phải chịu.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

699
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 237/2022/HS-PT

Số hiệu:237/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về