Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 230/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 230/2023/HS-PT NGÀY 21/04/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 4 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 703/2022/TLPT-HS ngày 04 tháng 10 năm 2022 đối với bị cáo Huỳnh Văn T. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 92/2022/HS-ST ngày 19-7-2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai.

- Bị cáo kháng cáo:

Huỳnh Văn T, sinh năm 1951 tại: tỉnh Bến Tre; Tên gọi khác: Không có; Nơi đăng ký thường trú: Số 200, ấp S, xã B, huyện B1, tỉnh Đồng Nai. Chỗ ở: như trên; Giới tính: N; Quốc tịch: Việt N; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 2/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông Huỳnh Văn M (đã chết) và bà Trương Thị C (đã chết); Gia đình có 06 anh em, bị cáo là con thứ 3 trong gia đình. Bị cáo có vợ là Đỗ Thị K, sinh năm 1954 (đã chết 2015) không đăng ký kết hôn và có 05 con: lớn sinh năm 1976, nhỏ sinh năm 1995.

Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại (có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo Huỳnh Văn T: Luật sư Nguyễn Hồng H1 - Công ty Luật TNHH SHTC& PARTNER, thuộc Đoàn luật sư thành phố Hà Nội (có mặt) - Bị hại: Anh Lê Hải A, sinh năm 1982 (xin vắng mặt).

Địa chỉ: Số A704, chung cư C3, đường M1, phường P, TP. Đ, TP. Hồ Chí Minh.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1967 (xin vắng mặt).

2. Bà Lê Thị L, sinh năm 1971 (xin vắng mặt).

Cùng địa chỉ: Số 319, tổ 9, ấp 6, xã V, huyện V1, tỉnh Đồng Nai.

3. Bà Huỳnh Thị Kim T3, sinh năm 1995 (vắng mặt).

Địa chỉ: Số 200, ấp S, xã B, huyện B1, tỉnh Đồng Nai.

- Người làm chứng:

1. Ông Trịnh Thành L1, sinh năm 1974 (vắng mặt).

Địa chỉ: Số 7, khu phố 5B, phường B2, thành phố B3, tỉnh Đồng Nai.

2. Ông Trịnh Hoài S1, sinh năm 1969 (vắng mặt).

Địa chỉ: Khu phố 5B, phường B2, thành phố B3, tỉnh Đồng Nai.

3. Bà Lê Thị H4, sinh năm 1947 (xin vắng mặt).

Hộ khẩu thường trú: Ấp 6, xã V, huyện V1, tỉnh Đồng Nai.

Chỗ ở hiện nay tại: Tổ 9, ấp X, xã A1, huyện V1, tỉnh Đồng Nai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Năm 2002, ông Trịnh Thành L1, sinh năm 1974, hộ khẩu thường trú: số 7, khu phố 5B, phường Tân Biên, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai nhờ anh ruột là ông Trịnh Hoài S1, sinh năm 1969, hộ khẩu thường trú: khu phố 5B, phường Tân Biên, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đi xem đất của ông Cao B4 và vợ là bà Lê Thị H4, sinh năm 1947 (hộ khẩu thường trú: Ấp 6, xã V, huyện V1, tỉnh Đồng Nai) tại tổ 9, ấp X, xã A1, huyện V1, tỉnh Đồng Nai. Ngày 25/3/2002 vợ chồng ông Cao B4 viết giấy tay chuyển nhượng diện tích khoảng 52.000m2 (đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng) tại tổ 9, ấp Cây Xoài, xã Tân An, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai cho ông Trịnh Hoài S1 với giá 110.000.000đ (một trăm mười triệu đồng). Ngày 20/8/2003, ông Trịnh Hoài S1 giao lại thửa đất trên cho ông Trịnh Thành L1 bằng cách viết giấy tay mua bán với nhau.

Ngày 19/6/2006, ông Trịnh Thành L1 cho ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1967, hộ khẩu thường trú: Ấp 6, xã Vĩnh Tân, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai thuê lại diện tích đất trên với giá 05 (năm) triệu đồng để trồng cây tràm, thời gian cho thuê là 06 năm. Đến ngày 07/11/2007 ông Lâm cùng vợ là bà Nguyễn Thị Phương Ánh đã viết giấy chuyển nhượng 52.000m2 đất tại tổ 9, ấp Cây Xoài, xã Tân An, huyện Vĩnh Cửu cho vợ chồng ông Nguyễn Văn N và bà Lê Thị L với số tiền 430.000.000 đồng (bốn trăm ba mươi triệu đồng).

Năm 2002, Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai có chủ trương cho người dân tự kê khai đất để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người dân, do vậy ngày 07/11/2002 bị cáo Huỳnh Văn T, sinh năm 1951, hộ khẩu thường trú: ấp S, xã B, huyện B1, tỉnh Đồng Nai làm đơn đăng ký quyền sử dụng đất, tự ý kê khai, “nhận chuyển nhượng đất từ ông Cao B4” diện tích gần 52.000m2 đất tại tổ 9, ấp Cây Xoài, xã Tân An, huyện Vĩnh Cửu mà vợ chồng ông Cao B4 đã bán cho ông Trịnh Hoài S1 và đề nghị Ủy ban nhân dân huyện Vĩnh Cửu cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau khi đo đạc, ngày 10/11/2003, Uỷ ban nhân dân huyện Vĩnh Cửu cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số X531271, tờ bản đồ số 39 thửa 201, diện tích 51.774m2, mục đích sử dụng đất rừng sản xuất, thuộc xã Tân An, huyện Vĩnh Cửu cho bị cáo Huỳnh Văn T. Năm 2004, đất đai tại xã Tân An được đo đạc lại và lập lại bản đồ địa chính, do vậy thửa đất 201, tờ bản đồ 39 thuộc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số X531271 đã cấp cho bị can Huỳnh Văn T ngày 10/11/2003, nay đổi thành thửa đất số 16, diện tích 36.023m2, tờ bản đồ số 33 và thửa đất 29, diện tích 13.011m2, tờ bản đồ 33 tại xã Tân An, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai.

Sau khi mua đất của ông Trịnh Thành L1, ông Nguyễn Văn N sử dụng trồng cây tràm trên đất. Đến năm 2008, ông N mới biết diện tích đất của ông đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bị cáo T nên đã đến gặp bị cáo T để hỏi lý do thì được bị cáo T cho biết đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất dùm ông Trịnh Thành L1 và yêu cầu ông N phải thanh toán cho bị cáo T số tiền 47.500.000 đồng (bốn mươi bảy triệu năm trăm ngàn đồng) vì trước đó bị cáo T thuê san ủi mặt bằng thửa đất này thì sẽ tách sổ sang tên cho ông N.

Ngày 22/6/2011, bị cáo T và con gái là Huỳnh Thị Kim T3 đến Ủy ban nhân dân xã Tân An ký hợp đồng chuyển nhượng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số X531271 do Uỷ ban nhân dân huyện Vĩnh Cửu cấp ngày 10/11/2003 thửa đất số 16, 29 tờ bản đồ 33 (thửa cũ là 201, tờ bản đồ số 39, diện tích 51.774m2) tại xã Tân An, huyện Vĩnh Cửu cho ông Nguyễn Văn N và bà Lê Thị L, được Ủy ban nhân dân xã Tân An ký chứng thực số 60, quyển số 01. Sau khi ký hợp đồng chuyển nhượng bị cáo T không đưa bản gốc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số X531271 cho ông N để làm thủ tục đăng ký biến động quyền sử dụng đất.

Ngày 27/10/2013, ông N nộp hồ sơ tại Văn phòng đăng ký đất đai Chi nhánh Vĩnh Cửu đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 16, thửa đất số 29 tờ bản đồ 33 xã Tân An. Ngày 23/6/2014, Uỷ ban nhân dân huyện Vĩnh Cửu cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BU244530, thuộc thửa 29, tờ bản đồ 33 diện tích 13.011m2 và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BU244432, thuộc thửa 16, tờ bản đồ 33 diện tích 36.023m2, xã Tân An cho ông Nguyễn Văn N và bà Lê Thị L.

Sau khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông N, bà L nhưng chưa thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số X531271 đã cấp cho bị cáo Huỳnh Văn T nên Văn phòng đăng ký đất đai – Chi nhánh Vĩnh Cửu tham mưu Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Vĩnh Cửu ban hành Quyết định hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho bị cáo T. Ngày 13/02/2015, Ủy ban nhân dân huyện Vĩnh Cửu ký Quyết định số 407/QĐ-UBND hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số X531271 đã cấp cho bị cáo Huỳnh Văn T.

Đầu tháng 03/2018, bị cáo Huỳnh Văn T vay của anh Lê Hải A, sinh năm 1982, hộ khẩu thường trú: A704, chung cư C3, đường Man Thiện, phường Hiệp Phú, Tp. Thủ Đức, Tp. HCM số tiền 04 tỷ đồng (thỏa thuận thời hạn vay 3 tháng, lãi xuất là 5%/1 tháng, sau khi trừ tiền lãi thì anh A đưa cho bị cáo T số tiền 3.400.000.000 đồng) và bị cáo T thỏa thuận với anh A trong vòng 03 tháng nếu không trả tiền đúng hẹn thì bị cáo T sẽ bán cho anh A thửa đất số 16, 29 tờ bản đồ 33 (thửa đất cũ là số 201, tờ bản đồ số 39) xã Tân An, huyện Vĩnh Cửu, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số X531271 mà đã bán cho ông N và bà L (và giấy này đã bị hủy bởi Quyết định số 407/QĐ-UBND ngày 13/02/2015 của UBND huyện Vĩnh Cửu). Để làm tin ngày 16/3/2018, bị cáo T và con gái là Huỳnh Thị Kim T3, sinh năm 1995 ký hợp đồng chuyển nhượng 51.774m2, thuộc thửa đất 201 tờ 39 xã Tân An cho anh Lê Hải A với giá chuyển nhượng ghi trên hợp đồng là 250.000.000đ (Hai trăm năm mươi triệu đồng), được Uỷ ban nhân dân xã Tân An, huyện Vĩnh Cửu ký chứng thực hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vào sổ chứng thực số 40/2018, quyển số 01/2018- SCT/HĐ,GD.

Nhưng mới đến tháng 4/2018, bị cáo T quyết định bán thửa đất trên cho anh A với giá là 5.800.000.000 đồng. Anh A đồng ý và soạn thảo hợp đồng ghi ngày 16/3/2018 để thay cho hợp đồng đã ký nêu trên, với nội dung thỏa thuận anh A sẽ thanh toán tiền cho bị cáo T làm 04 đợt: đợt 1 ngày 16/3/2018 giao 4.000.000.000 đồng; đợt 2 ngày 18/4/2018 giao 300.000.000 đồng; đợt 3 ngày 16/5/2018 giao 200.000.000 đồng; đợt 4 ngày 15/7/2018 giao 1.300.000.000 đồng nhưng anh A mới giao 500.000.000 đồng. Tổng cộng bị cáo T đã nhận của anh A số tiền là 4.400.000.000 đồng và cam kết khi hoàn tất thủ tục sang tên thì anh A sẽ giao tiếp số tiền còn lại. Tuy nhiên khi anh A làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì được biết thửa đất trên bị cáo T đã bán cho vợ chồng ông N nên yêu cầu trả tiền lại nhưng bị cáo T không trả nên anh A đã làm đơn tố cáo đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai. Qua điều tra ngày 16/12/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai đã khởi tố vụ án, khởi tố bị cáo đối với Huỳnh Văn T về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản để điều tra, xử lý.

Quá trình điều tra bị cáo Huỳnh Văn T quanh co chối tội không thừa nhận hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Nhưng căn cứ vào các tài liệu chứng cứ thu thập được đủ cơ sở kết luận bị cáo T sau khi đã bán thửa đất trên cho vợ chồng ông N rồi nhưng lại tiếp tục có hành vi gian dối bán cho anh Lê Hải A để chiếm đoạt số tiền 4.400.000.000 đồng (Bốn tỷ bốn trăm triệu đồng).

Tại bản Cáo trạng số 3730/CT-VKS-P2 ngày 09/6/2021 và văn bản số 345/VKS-P2 ngày 29/3/2022 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai đã truy tố bị cáo Huỳnh Văn T về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 92/2022/HS-ST ngày 19-7-2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai quyết định:

Tuyên bố bị cáo Huỳnh Văn T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; Điểm b khoản 1, khoản 2, Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo: Huỳnh Văn T 12 (Mười hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dận sự, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 20/7/2022, bị cáo Huỳnh Văn T kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Huỳnh Văn T không thừa nhận hành vi như bản án sơ thẩm đã nêu, và vẫn giữ kháng cáo cho rằng bị cáo không phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” do bị cáo không làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông Nguyễn Văn N bà Lê Thị L đối với thửa đất số 16, 29 tờ bản đồ 33, diện tích 49.034m2 (thửa cũ là 201, tờ bản đồ số 39, diện tích 51.774m2) vào ngày 22/6/2011; cơ quan điều tra không thu thập đầy đủ chứng cứ buộc tội và có dấu hiệu mớm cung, nhắc nhở lời khai cho những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng nên yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại.

Người bào chữa cho bị cáo Huỳnh Văn T là Luật sư Nguyễn Hồng H1 phát biểu ý kiến: hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bị cáo T ghi rõ nguồn gốc đất là mua của ông Cao B4. Bị cáo không bán đất cho ông Lê Văn N. Ông N xác nhận mua đất từ ông Trịnh Hoài S1 chứ không mua đất từ bị cáo, nếu có mua đất thì phải có biên bản bàn giao nhưng ông N không có và ông N cũng không thực hiện việc tách thửa. Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông N theo hồ sơ thể hiện là cấp lần đầu, không phải cấp theo thủ tục sang nhượng. Hơn nữa, cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận cho ông N năm 2014 nhưng đến năm 2015 Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Đồng Nai - chi nhánh huyện Vĩnh Cửu mới thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bị cáo, và cũng không gửi quyết định thu hồi cho bị cáo biết nên bị cáo không biết giấy chứng nhận đã bị hủy bỏ. Ngoài ra, các cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm cũng chưa làm rõ thửa đất bị cáo T chuyển nhượng cho ông A có phải là thửa 201 hay không. Quan hệ giữa bị cáo với bị hại là quan hệ vay mượn, có lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất để ràng buộc trách nhiệm, là hợp đồng giả cách, sau khi ký hợp đồng bị cáo T vẫn trả tiền cho bị hại A nhưng cấp sơ thẩm cũng chưa làm rõ vấn đề này. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm: Bản án của Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Huỳnh Văn T 12 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng pháp luật, không oan. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo T kháng cáo kêu oan cho rằng không chuyển nhượng đất cho ông N, tuy nhiên, tại kết luận giám định thể hiện chữ ký trong hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông N bà L là của bị cáo; phù hợp với lời khai của bị hại và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Bị cáo kháng cáo yêu cầu hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại nhưng không cung cấp được chứng cứ nào mới chứng minh nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Huỳnh Văn T không thừa nhận hành vi như bản án sơ thẩm đã nêu. Tuy nhiên, căn cứ lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, kết luận giám định, trích lục và chồng ghép khu đất bản đồ địa chính, cùng những tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử phúc thẩm có đủ cơ sở để xác định như sau:

[1.1] Ngày 22/6/2011, bị cáo Huỳnh Văn T và con gái là Huỳnh Thị Kim T3 đến Ủy ban nhân dân xã Tân An ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất số 201, tờ bản đồ số 39, diện tích 51.774m2 (thửa mới là 16, 29 tờ bản đồ 33, diện tích 49.034m2) tại xã Tân An, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số X 531271 do Uỷ ban nhân dân huyện Vĩnh Cửu cấp ngày 10/11/2003 cho ông Nguyễn Văn N, bà Lê Thị L, được Ủy ban nhân dân xã Tân An ký chứng thực số 60, quyển số 01 và được Uỷ ban nhân dân huyện Vĩnh Cửu cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BU244530, BU244432 ngày 23/6/2014 cho ông N và bà L.

[1.2] Ngày 16/3/2018, bị cáo T đã có hành vi gian dối dùng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số X 531271 do Uỷ ban nhân dân huyện Vĩnh Cửu cấp ngày 10/11/2003 (đã bị hủy bởi Quyết định số 407/QĐ-UBND ngày 13/02/2015 của UBND huyện Vĩnh Cửu) lừa đảo bán cho anh Lê Hải A với giá 5.800.000.000 đồng (Năm tỷ tám trăm triệu đồng) để chiếm đoạt số tiền 4.400.000.000 đồng (Bốn tỷ bốn trăm triệu đồng).

[2] Với các hành vi nêu trên, bản án của Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Huỳnh Văn T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ; vì vậy, cần phải xử lý nghiêm mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Khi lượng hình, bản án của Tòa án cấp sơ thẩm xác định bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và áp dụng đầy đủ tình tiết giảm nhẹ như chưa có tiền án tiền sự, đã bồi thường số tiền 250.000.000 đồng cho bị hại, bị cáo là người lớn tuổi, bị hại đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, quy định tại điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, từ đó xử phạt bị cáo 12 (Mười hai) năm tù là phù hợp với quy định của pháp luật, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện và nhân thân của bị cáo.

[4] Bị cáo T kháng cáo cho rằng không phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” do bị cáo không làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông N bà L đối với thửa đất số 16, 29 tờ bản đồ 33, diện tích 49.034m2 (thửa cũ là 201, tờ bản đồ số 39, diện tích 51.774m2) vào ngày 22/6/2011; cơ quan điều tra không thu thập đầy đủ chứng cứ buộc tội và có dấu hiệu mớm cung, nhắc nhở lời khai cho những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng nên yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại.

[4.1] Hồ sơ vụ án thể hiện, cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm đã thu thập lời khai của những người có liên quan đến vụ án; thu thập chứng cứ yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành chồng ghép bản đồ địa chính để xác định vị trí đất bị cáo được cấp theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số X 531271 ngày 10/11/2003 với thửa đất ông N và bà L được cấp theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BU244530, BU244432 ngày 23/6/2014, và trưng cầu giám định chữ ký của bị cáo trên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân xã Tân An ký chứng thực ngày 22/6/2011 và tại Sổ chứng thực hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất, quyển số 02/2008, số chứng thực 60 ngày 21/6/2011 lưu tại UBND xã Tân An, để làm rõ sự thật khách quan của vụ án.

[4.2] Tại Kết luận giám định số 497/KLGĐ ngày 03/6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai, kết luận: chữ ký, chữ viết mang tên Huỳnh Văn T, Huỳnh Thị Kim T3 trên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân xã Tân An ký chứng thực ngày 22/6/2011 chuyển nhượng cho ông N, bà L và hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho anh A đã được UBND xã Tân An chứng thực ngày 16/3/2018 là do bị can T và chị T3 viết ra. Đồng thời, tại Kết luận giám định số 545/KLGĐ-PC09 ngày 30/3/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: “Chữ ký và chữ viết mang tên Huỳnh Văn T tại Sổ chứng thực hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất, quyển số 02/2008, số chứng thực 60 ngày 21/6/2011 lưu tại UBND xã Tân An là do bị can T ký và viết ra”; “Chữ viết, chữ ký mang tên Lê Hải A tại Giấy vay tiền thế chấp số đỏ đề ngày 13/3/2018 và tại Tờ Cam kết số tiền quy ra nợ, hai bên cam kết đề ngày 01/6/2018 không phải chữ ký, chữ viết do anh Lê Hải A viết và ký ra”. Trình tự, thủ tục thực hiện việc giám định đảm bảo quy định của pháp luật; nội dung kết luận giám định nêu trên cũng phù hợp với lời khai của bà Huỳnh Thị Kim T3 (con bị cáo T) xác định có ký hợp đồng chuyển nhượng ngày 22/6/2011 theo yêu cầu của bị cáo T (BL 77, 78), với lời khai của ông N, bà L và những người làm chứng là ông Thái Thuận Tr và bà Nguyễn Hoàng Diễm L2 là người thực hiện việc chứng thực hợp đồng chuyển nhượng nêu trên xác định bị cáo T là người ký hợp đồng.

[4.3] Tại trích lục và chồng ghép khu đất bản đồ địa chính số 020 -1/2022 và 020-2/2022 ngày 23/3/2022 của Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Đồng Nai - chi nhánh huyện Vĩnh Cửu xác định thửa đất 201, tờ bản đồ địa chính 39 diện tích 51.774m2 tại xã Tân An, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai cấp cho Huỳnh Văn T và thửa đất 16, 29 tờ bản đồ 33 có tổng diện tích 49.034m2 tại xã Tân An, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai cấp cho ông Nguyễn Văn N và bà Lê Thị L là cùng một vị trí đất. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số X 531271 ngày 10/11/2003 ngoài thửa 201 đã chuyển nhượng cho vợ chồng ông N còn có thửa 901, tờ bản đồ 58 (thửa mới 296, tờ bản đồ 89), diện tích 16.731m2 đã được bị cáo chuyển nhượng cho ông Nguyễn Thanh Nhung và bà Lý Kim Hồng vào ngày 12/10/2011, hiện tại tách thành 4 thửa và chuyển nhượng cho người khác. [5] Như vậy, cấp sơ thẩm đã thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để làm rõ sự thật khách quan của vụ án, qua đó có đủ cơ sở kết luận hành vi phạm tội của bị cáo đã thực hiện như đã nêu trên, nên việc bị cáo T cho rằng không làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 22/6/2011 cho ông N bà L và cấp sơ thẩm thu thập chứng cứ không đầy đủ là không có cơ sở.

[6] Ngoài ra, hồ sơ vụ án thể hiện, việc lấy lời khai của bị hại, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng đều được thực hiện đúng quy định pháp luật. Những người được lấy lời khai đều đã được đọc lại biên bản ghi lời khai, xác nhận việc tự nguyện khai báo và ký tên; quá trình đối chất giữa bị cáo và những người nêu trên có sự tham gia của người bào chữa, Kiểm sát viên, cuối buổi làm việc những người đối chất đã được xem lại biên bản và thống nhất ký tên, không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Vì vậy, việc bị cáo cho rằng cấp sơ thẩm có dấu hiệu mớm cung, nhắc nhở lời khai những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng là không có căn cứ.

[7] Từ phân tích trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy, bản án của Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo kháng cáo yêu cầu hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại nhưng không cung cấp được tình tiết nào mới chứng minh cho yêu cầu kháng cáo nên không chấp nhận kháng cáo của bị cáo cũng như đề nghị của người bào chữa, và giữ nguyên bản án sơ thẩm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh là có căn cứ chấp nhận.

[8] Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị phát sinh hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[9] Án phí hình sự phúc thẩm: bị cáo Huỳnh Văn T phải chịu, theo quy định pháp luật về án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Huỳnh Văn T. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số: 92/2022/HS-ST ngày 19-7-2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai.

Tuyên xử:

[1] Tuyên bố bị cáo Huỳnh Văn T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

[2] Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; Điểm b khoản 1, khoản 2, Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo: Huỳnh Văn T 12 (Mười hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

[3] Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị phát sinh hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Án phí hình sự phúc thẩm: bị cáo Huỳnh Văn T phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

59
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 230/2023/HS-PT

Số hiệu:230/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về